Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.35 KB, 88 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



<b>Trần Thị Đào </b>



Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa vào


xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>MỤC LỤC </b>



<b>Mở đầu</b> ... 1


1- Tính cấp thiết của đề tài ... 1


2- Tình hình nghiên cứu của đề tài ... 3


3- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ... 4


3.1- Mục đích nghiên cứu ... 4


3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu ... 4


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu... 5


5- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ... 5


5.1- Cơ sở lý luận ... 5


5.2- Phương pháp nghiên cứu ... 5



6- Đóng góp mới về khoa học của luận văn ... 5


7- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ... 6


8- Kết cấu của luận văn ... 6


<i><b>Chương 1:</b></i><b> Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hoá ... 7 </b>


1.1- Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố ... 7


1.1.1- Khái niệm “văn hố” ở Hồ Chí Minh ... 7


1.1.2- Tính chất của nền văn hố mới ... 15


1.1.3- Chức năng của văn hoá ... 23


1.2- Tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố
trong xây dựng nền văn hoá ở nước ta hiện nay ... 32


1.2.1- Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố ... 32


1.2.2- Khai thác giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hố để phát triển
đất nước trong điều kiện hiện nay ... 41


<i><b>Chương 2:</b></i><b> Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hố trong xây dựng </b>
<b>nền văn hoá Việt Nam giai đoạn hiện nay – Một số vấn đề đặt ra và giải </b>
<b>pháp ... 44 </b>


2.1- Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng nền văn hoá nước ta hiện nay ... 44



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

2.1.2- Những biểu hiện tiêu cực của nền văn hoá Việt Nam hiện nay ... 50
2.2- Xây dựng nền văn hoá Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh ... 55
2.2.1- Những định hướng cơ bản của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh


về văn hố ... 55
2.2.2- Một số giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
hiện nay ... 66


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>MỞ ĐẦU </b>


<b>1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI </b>


Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới. Ngành văn hố thơng tin cũng bắt đầu cuộc hành trình
đổi mới cùng với cuộc đổi mới đất nước. Cùng vào thời gian ấy, ở phạm vi toàn
cầu, nhân loại bước vào “Thập kỷ thế giới vì sự phát triển của văn hoá” theo
Nghị quyết 41/187 Liên Hợp Quốc thông qua ngày 9-12-1986 mà UNESCO
được giao trách nhiệm phát động, tổ chức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá” của UNESCO đã đưa ra lời
cảnh báo: “<i>Hễ nhà nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách </i>
<i>khỏi môi trường văn hố thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng về cả </i>
<i>mặt kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất </i>
<i>nhiều” </i>[12,tr 45]. Còn tại Hội nghị liên chính phủ và chính sách văn hố tại
Stốckhơm - Thụy Điển (1998), đã ghi nhận 12 điểm cam kết, trong đó điểm thứ
11 nói rõ: “<i>Việc bảo vệ các nền văn hoá bản địa và khu vực bị đe doạ bởi q </i>
<i>trình tồn cầu hố, khơng được biến các nền văn hố thành các di tích và làm </i>
<i>cho văn hoá bị tước đi sức sáng tạo của sự phát triển năng động của chính mình” </i>


[57, tr46].



Do vậy, để chủ động hồ nhập và đóng góp tích cực vào xu thế tồn cầu
hố, liên kết và hợp tác khu vực và quốc tế, để đẩy mạnh sự tăng trưởng đồng
thời với việc phát triển văn hoá nhằm phát triển bền vững theo định hướng xã
hội chủ nghĩa thì vấn đề xây dựng, phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc là một vấn đề hết sức cấp bách và rất lâu dài trước sự đòi hỏi của cả
dân tộc và mỗi con người Việt Nam hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

q trình phát triển. Qua đó, nó gợi mở những vấn đề có tính phương pháp luận
cho việc vận dụng tư tưởng văn hoá của Người vào xây dựng, phát triển nền văn
hoá vừa bảo đảm tính hiện đại, vừa bảo đảm tính dân tộc. Bởi thế bắt đầu từ Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã trân trọng ghi vào <i>Cương </i>
<i>lĩnh </i>và<i> Điều lệ</i> của mình: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [7, tr 127].


<b>2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI </b>


Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
nghiên cứu từ lâu, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (6-1991) của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước đã thành lập hội đồng Quốc gia nghiên cứu tư tuởng
Hồ Chí Minh. Nhiều đề tài cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiệm
thu.


Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hố dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã cơng bố những cơng trình có giá trị:


Vũ Khiêu có bài: “<i>Hồ Chí Minh đỉnh cao của văn hoá dân tộc và nhân </i>
<i>loại”</i>; Nguyễn Đức Lữ với bài: “<i>Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc tiếp thu nền văn </i>
<i>hoá nhân loại và việc giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc”</i>; Đinh Xn Lâm; Bùi
Đình Phong trong cuốn “<i>Hồ Chí Minh, Văn hoá và đổi mới”</i>, Nxb Lao Động,
1998 cũng đã đề cập một cách khá sâu sắc tư tưởng văn hố, giữ gìn bản sắc văn


hóa dân tộc của Hồ Chí Minh. Đặc biệt trong cuốn “ <i>Tư tưởng Hồ Chí Minh về </i>
<i>xây dựng văn hố Việt Nam</i>”, Nxb Chính trị Quốc gia,1998, của Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã quy tụ được nhiều bài viết của nhiều tác giả
nghiên cứu về tư tưởng văn hố Hồ Chí Minh, đem lại cho chúng ta một cái nhìn
tổng thể quan niệm của Người về văn hố…và cịn nhiều tài liệu khác. Phần thư
mục của luận văn phản ánh đầy đủ tên tác giả và các tài liệu đó.


Tổng hợp những cơng trình, tài liệu đi trước, tơi có một vài nhận xét như
sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

văn hoá mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Một số bài bắt đầu đi vào khai thác,
nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của tư tưởng đó và cũng đã nêu lên những ý
kiến đặc sắc. Chẳng hạn trong “ <i>Về tư tưởng văn hố Hồ Chí Minh</i>”, GS Đặng
Xuân Kỳ cho rằng: “Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh là một di sản vơ cùng q
giá, là những giá trị vĩnh cửu để lại cho dân tộc mình và cho nhân loại. Những tư
tưởng ấy không chỉ nằm trong những bài nói, bài viết, những tác phẩm của
Người, mà cịn nằm trong tồn bộ hoạt động thực tiễn, trong cuộc sống, trong
con người Hồ Chí Minh và quan trọng hơn là trong phong trào cách mạng của cả
một dân tộc…”.


<i>Thứ hai</i>, về vấn đề mà luận văn nghiên cứu, các tác giả đều có chung một
nhận định rằng, Hồ Chí Minh là một tượng trưng cao đẹp của bản sắc văn hoá
Việt Nam, tư tưởng văn hóa của Người là tư tưởng của một nền văn hố tương lai.


Song nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về việc vận dụng và học tập
tư tưởng của Người để xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc trong giai
đoạn hiện nay chưa nhiều, cịn thiếu những cơng trình quy mơ, xứng đáng với
tầm vóc của vấn đề này trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.


Nhu cầu về lý luận và thực tiễn hiện nay đòi hỏi phải có những chuyên


khảo nhằm làm sâu sắc hơn, đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố và
việc vận dụng tư tưởng đó trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


Vì vậy, để đóng góp một phần nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu trên, tác
giả chọn vấn đề: “ Vận dụng t<i>ư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá vào xây </i>
<i>dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay</i>” làm đề tài tốt nghiệp cao học.
<b>3- MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU </b>


<b>3.1- Mục đích nghiên cứu </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu </b>


Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau:


<i>Một là</i>: Phân tích nhằm làm bật những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hố và tầm quan trọng của việc vận dụng những tư tưởng văn hố
của Người.


<i>`Hai là:</i> Phân tích những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng văn hoá hiện nay.


<i>Ba là:</i> Đề xuất một số định hướng và giải pháp để xây dựng, phát triển
văn hoá Việt Nam hiện nay.


<b>4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU</b>


Đề tài: “ <i>Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hố vào xây dựng </i>
<i>phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay </i>” là một đề tài rộng. Vì thế, tác giả
luận văn chỉ tập trung vào mấy vấn đề sau:


<i>Thứ nhất</i>: Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng văn hố Hồ Chí


Minh.


<i>Thứ hai</i>: Phân tích việc vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng, phát
triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay.


<b>5- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>
<b>5.1- Cơ sở lý luận </b>


Luận văn được thực hiện trên cơ sở:


- Các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử


- Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ nghĩa Mác- Lênin
về văn hoá, con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>5.2- Phƣơng pháp nghiên cứu </b>


Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp phân tích , tổng
hợp, lơgíc- lịch sử, so sánh….


<b>6- ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN </b>


<i>Về lý luận</i>: Trên cơ sở làm rõ các quan niệm, tư tưởng về văn hóa của Hồ
Chí Minh, luận văn phân tích, luận giải dưới góc độ triết học những giá trị của
quan niệm, tư tưởng ấy đối với nền văn hoá dân tộc Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế.


<i>Về thực tiễn</i>: Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi cho


vấn đề đặt ra.


<b>7- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN </b>


<i>Về lý luận</i>: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng văn hoá của Hồ
Chí Minh và luận giải sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng ấy vào việc xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay.


<i>Về thực tiễn</i>: Luận văn nêu ra một số giải pháp chung nhằm vận dụng tư
tưởng của Người về văn hoá để xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện
nay. Có thể làm tư liệu tham khảo cho giảng dạy, nghiên cứu sau này.


<b>8- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b>Chương 1 </b></i>



<b>TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HỐ </b>



<b>1.1 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HỐ </b>
<b>1.1.1 Khái niệm “ văn hố” ở Hồ Chí Minh </b>


Khái niệm văn hố xuất hiện ở Đông Á rất sớm. Lưu Hưởng (khoảng năm
76 Trước công nguyên) thời Tây Hán (Trung Quốc) là người đầu tiên đưa ra
định nghĩa về văn hoá. Trong sách Thuyết Uyển bài Chi vũ công viết: “Bậc
thánh nhân tri thiên hạ, trước dùng văn đức sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ
lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hố khơng thay đổi được thì sau
đó sẽ trinh phạt”[44,tr15]. Ở đây, văn hố được hiểu như là cách thức điều hành
xã hội bằng “văn trị” để “giáo hoá” con người, đối lập với việc dùng vũ lực để
đối phó. Văn trị là dùng chế độ lễ nhạc điển chương tức cái hay cái đẹp để giáo
dục và cảm hoá con người. Chung quy tại Á Đơng, trong đó có Việt Nam, quan


niệm trên tồn tại cho đến cuối thế kỷ XIX.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

được cộng đồng chấp nhận tại Hội nghị liên Chính phủ về các chính sách văn
hoá, họp năm 1970 tại Venise. Đến năm 1982, tại Hội nghị lần thứ II đã phê
chuẩn cách tiếp cận đó đối với văn hố. Theo đó văn hố được định nghĩa là tất
cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh
vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, tập quán, phong tục, lối sống và lao động
nhờ đó mà con người định vị mình trong thời gian, khơng gian nhất định để có
thể giải thích thế giới, phát triển các năng lực biểu hiện, giao lưu sáng tạo. Nội
dung của khái niệm thường được UNESCO xem xét qua bốn bộ phận hợp thành:
Hệ thống khái niệm (khái niệm, biểu tượng); hệ thống giá trị, chuẩn mực; hệ
thống biểu hiện văn hoá (nghệ thuật, văn học, khoa học…); hệ thống hành động và
ứng xử văn hoá.


Ở Việt nam truyền thống, ngồi việc tiếp thu cách tiếp cận văn hố như là
một cách thức điều hành xã hội bằng “ văn trị” và “giáo hố” của Trung Quốc
cịn có hàm nghĩa “v<i>ăn hiến</i>” và “<i>văn vật</i>”. Các loại từ điển thường định nghĩa
văn hiến là “truyền thống lâu đời” còn văn vật là “truyền thống văn hố biểu
hiện ở những nhân tài và di tích lịch sử”. Nói khác đi, văn hiến thiên về các biểu
tượng giá trị vật chất. Vì thế, có thể coi văn hiến và văn vật là các hàm nghĩa đặc
trưng của khái niệm văn hoá Việt Nam.


Từ đầu thế kỷ XX lại thêm hàm nghĩa “<i>văn minh</i>” chỉ tình trạng về vật
chất của lồi người, là hình thái kinh tế của văn hố. Theo cách phân chia của F.
Ănghen về các giai đoạn phát triển văn hố nhân loại (mơng muội, dã man và
văn minh) thì văn minh là nấc thang của văn hố và thiên về các giá trị vật chất -
kinh tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

sáng tạo của cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và hiện tại để phát huy những
năng lực bẩm sinh và bản chất nhằm vươn tới cái chân, thiện, mỹ”[43,tr32].



Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hoá Việt Nam” định nghĩa: “<i>Văn </i>
<i>hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo </i>
<i>và tích luỹ qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người </i>
<i>với môi trường tự nhiên và xã hội”</i>[51,tr 10-13]. Từ đó tác giả nêu ra 4 đặc
trưng và gắn liền chúng với 4 chức năng của văn hố. Đó là:


Tính hệ thống với chức năng tổ chức xã hội
Tính giá trị với chức năng điều chỉnh xã hội
Tính nhân sinh với chức năng giao tiếp xã hội
Tính lịch sử với chức năng giáo dục


Báo cáo tổng kết chương trình KX06 ( giai đoạn 1991- 1995) tuy không
trực tiếp xác định khái niệm văn hoá nhưng tán thành quan điểm coi văn hoá là
tổng thể các ý niệm, giá trị, thể thức và hình thức biểu hiện văn hố cũng như
các hành động nói lên các giá trị chân, thiện, mỹ trong các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với con người, con người với bản thân mình [48,
tr6-7]. Phạm Minh Hạc trong cơng trình <i>“phát triển giáo dục, phát triển con </i>


<i>người…”</i> định nghĩa “văn hoá là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con
người, cộng đồng, dân tộc, lịch sử sáng tạo. Có văn hoá nhân loại, văn hoá dân
tộc, văn hoá cộng đồng, văn hoá gia đình, văn hố của từng con người”[15,tr
79].


Nhìn chung, các quan niệm trên đều xác định khái niệm văn hoá theo
nghĩa rộng hoặc thiên về trạng thái động của văn hoá như sinh hoạt, hoạt động
hoặc thiên về tình trạng tĩnh của văn hố như tổng thể các giá trị vật chất - tinh
thần. Với cách tiếp cận biện chứng để nắm cả trạng thái vận động và trạng thái
tĩnh của văn hoá, trên cơ sở kết hợp hài hoà biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại, phương Đông và phương Tây, dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh đã có


nhiều phát biểu về văn hoá. Trong phần cuối tập <i>Nhật ký trong tù (1942 - 1943)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

“ V<i>ì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng </i>
<i>tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, </i>
<i>văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và </i>
<i>các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn </i>
<i>hố. Văn hố là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu </i>
<i>hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời </i>
<i>sống và địi hỏi sự sinh tồn”</i>[24, tr431].


Người còn dự định xây dựng nền văn hoá dân tộc với năm điểm lớn:
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường


2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng


3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.


4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế.


Như vậy, văn hố được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là tồn bộ những
giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp
ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Và muốn
xây dựng nền văn hố dân tộc thì phải xây dựng tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, tâm lý con người.


Từ sau cách mạng tháng Tám, văn hoá đã được Người xác định là đời
sống tinh thần của xã hội, là thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội. “Những cơ
sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi văn hố mới kiến thiết được và đủ điều


kiện để phát triển được”[33, tr 345].


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>trị”.</i> Văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành của tồn bộ
đời sống xã hội. Nó cùng với kinh tế, chính trị tạo nên đời sống của dân tộc ta.
Văn hoá bao giờ cũng gắn liền với các hoạt động sản xuất và đời sống: “ Văn
hoá xa đời sống, xa lao động là văn hố sng. Nhân dân lao động là người chủ
sở hữu và hưởng thụ các giá trị văn hoá đó”. Nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói
rằng: “Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng,
phải coi trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”[33,Tr345].


Trong lịch sử phát triển dân tộc và lồi người đã từng có sự phát triển
không ngang nhau, không tương đồng giữa kinh tế và văn hố. Có những nền
kinh tế, chính trị, những giai đoạn phát triển xã hội, ở đó văn hố khơng phát
triển đồng đều với các lĩnh vực cịn lại. Có những giai đoạn mà lịch sử lại dành
ưu tiên cho kinh tế hoặc chính trị. Cũng có những giai đoạn lịch sử , xã hội dành
ưu tiên cho văn hoá. Song đối với Hồ Chí Minh, kiến thiết xã hội phải coi trọng
ngang nhau cả văn hóa, kinh tế, chính trị. Chỉ có như vậy xã hội mới phát triển
lâu bền và nhịp nhàng. Trong đó, Hồ Chí Minh bao giờ cũng coi các quan hệ
kinh tế, cơ cấu kinh tế là nền tảng để phát triển văn hoá. Người viết rằng, <i>văn </i>
<i>hoá là kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội phải được kiến </i>
<i>thiết vững mạnh thì văn hoá mới phát triển được. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

quyết định không phải một cách trực tiếp bởi kinh tế, mà phải thông qua các
quan hệ xã hội. Các chế ước xã hội đã làm cho văn hố phát triển đa chiều. Hồ
Chí Minh cho rằng, kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của văn
hố; mặt khác, Người cịn coi trọng chế độ chính trị, hay các chế ước xã hội đã
làm nảy sinh tính đa dạng của văn hoá, nhưng sự tác động trở lại của văn hố đã
góp phần thúc đẩy và nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của xã hội.


Trong tư tưởng văn hố, Hồ Chí Minh rất coi trọng đến trình độ phát triển


của sản xuất, về tính chất của các quan hệ kinh tế - xã hội vì nó là nền tảng của
văn hố; song, trung tâm cần chú ý nhất ở Hồ Chí Minh là vấn đề bản chất, cái
tạo ra bản chất của mọi hiện tượng văn hoá của cá nhân và cộng đồng, <i>là khả </i>
<i>năng sáng tạo của nhân dân lao động</i>. Nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói: lao động
là nguồn sống, nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Phát triển và mở rộng
tư tưởng văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất, Hồ Chí Minh coi sự vận
động của văn hoá trong lịch sử là toàn bộ khả năng sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Người viết rằng: “Quần chúng nhân dân là những người sáng tạo,
công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng nhân dân không phải chỉ
sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng nhân dân còn là người sáng
tác nữa”[28,tr 250]. “Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao là những sáng
tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn… Những sáng tác ấy là
những hòn ngọc quý”. Người nói rằng, phải gắn kinh tế với văn hố, thơng qua
văn hóa kinh tế sẽ được thực hiện tốt hơn. Khi kinh tế tốt hơn thì văn hố sẽ có
điều kiện để thúc đẩy các q trình xã hội. Hồ Chí Minh nói: “ Vì sao khơng nói
phát triển văn hố và phát triển kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: <i>Có thực mới vực </i>
<i>được đạo</i>, vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển
kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nước ta… Văn
hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống tươi
vui, lành mạnh của quần chúng”[28, tr 59].


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

văn hoá vừa có sự phát triển cùng chiều, vừa có sự phát triển ngược chiều. Nếu
chỉ chú ý tăng trưởng kinh tế sẽ có nguy cơ phá hoại văn hố, nghĩa là phá hoại
những quan hệ cơ bản giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con
người và các thế hệ người, kể cả các nhân cách người. Hồ Chí Minh đã đặt vấn
đề phát triển lâu bền và phát triển tồn diện cả kinh tế và văn hố, vì văn hố sẽ
hỗ trợ và phịng ngự cho sự tăng trưởng kinh tế, trong đó có sự tăng trưởng của
các giá trị con người.


<i>Văn hố có mối quan hệ mật thiết với chính trị. Chính trị, xã hội có được </i>


<i>giải phóng thì văn hố mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho </i>
<i>văn hố phát triển. </i>


Văn hố và chính trị đều là những yếu tố của kiến trúc thượng tầng, có
quan hệ mật thiết với nhau. Một nền chính trị đúng đắn bao giờ cũng được xây
dựng trên cơ sở một nền văn hóa tiến bộ. Khi Hồ Chí Minh nói: ham muốn tột
bậc của Người là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… thì đó vừa là mục tiêu
của chính trị đồng thời là mục tiêu của văn hố. Một nền văn hóa tiến bộ thì phải
hướng vào mục tiêu phục vụ chính trị cao cả của đất nước. Tại buổi khai mạc
Đại hội văn hố tồn quốc (24-11-1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:<i>“Văn </i>
<i>hố liên lạc với chính trị rất mật thiết”</i>. Người xác định: “Văn hoá phải làm cho
ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hoá phải làm thế nào
cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lý tưởng chung mà quên lý
tưởng riêng”… “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”[3,tr16].


Khi cả đất nước và dân tộc còn bị nơ lệ thì văn hố cũng cùng chung số
phận nô lệ, tuyệt đại nhân dân bị đày đoạ trong vịng tối tăm, dốt nát. Vì vậy có
những nhà yêu nước chủ trương phải khai dân trí, phải nâng cao trình độ văn
hố của nhân dân, sau đó mới tính đến chuyện giành độc lập, tự do cho đất nước
và dân tộc. Đường lối cải lương đó đã hồn tồn bị thất bại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

nhân dân Nga lên trước, rồi sau mới làm cách mạng chính trị. Lênin đã trả lời: “
Tại sao khơng làm cách mạng chính trị trước để sau đó có điều kiện thuận lợi
nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân Nga? ”. Quan điểm của Lênin đã được
thực tiễn cách mạng tháng Mười Nga chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Lãnh
đạo nhân dân ta đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã vạch ra
một đường lối mới: Phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt
Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, để giải
phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn


hoá phát triển. Về vấn đề này Người đã viết: “…Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền
văn hố của ta vì thế khơng nảy sinh được”. “Xã hội thế nào, văn hoá thế ấy.
Văn nghệ của dân tộc ta vốn rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân và
phong kiến nhân dân ta bị nơ lệ, thì văn nghệ bị nơ lệ, bị tồi tàn, khơng thể phát
triển được”.


Như vậy, <i>văn hố khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính </i>
<i>trị. Văn hố phải phục vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.</i>


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hố
nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngồi mà phải ở trong
kinh tế và chính trị”[9,Tr368-369]. Quan niệm đó của Người đã định hướng cho
mọi hoạt động văn hóa, động viên giới văn hố văn nghệ đi vào kháng chiến,
thực hiện khẩu hiệu “<i>văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá</i>”, đã
tạo nên một phong trào văn hóa kháng chiến sơi động chưa từng thấy trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn hóa khơng đứng ngồi mà đứng trong
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến đã trở thành cuộc
kháng chiến không thể thiếu văn hoá. Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh
cũng định hướng cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới của nước ta
trong suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18></div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>1.1.2 Tính chất của nền văn hoá mới </b>


Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hồ ra đời, việc xây dựng một nền
văn hố mới đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng. Ngay sáng 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra
một loạt vấn đề về văn hoá, như giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh thần
cần, kiệm, liêm, chính, cấm hút thuốc phiện, tự do tín ngưỡng….Cùng ngày,
Người đã ra thơng báo về việc tiếp đại biểu các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân,


nêu ra một phong cách làm việc mới, một thứ văn hố chính trị mới của người
đứng đầu Nhà nước, hoàn toàn khác với chế độ thực dân phong kiến trước kia.


Cũng trong ngày đầu tháng 9- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành
lập Uỷ ban văn hoá lâm thời Bắc bộ. Trong buổi tiếp đại biểu của Uỷ ban này
ngày 7-9-1945. Người nói: “ Tôi mong rằng các ngài trong giới văn hoá nhận
thấy rõ nhiệm vụ của các ngài trong lúc này là củng cố nền độc lập của Việt
Nam, sửa soạn gây dựng cho đất nước một nền văn hóa mới. Bổn phận của các
ngài là lãnh đạo tư tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền
văn hóa mới”.


Trong Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội
đại biểu tồn quốc lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam có đoạn: “Xúc tiến cơng
tác văn hố để đào tạo con người mới và cán bộ cho công cuộc kháng chiến kiến
quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn
hố đế quốc. Đồng thời phải phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá
dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới để xây dựng một
nền văn hố Việt Nam có tính dân tộc, khoa học, đại chúng”[26,Tr38-39].


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

vũ khí tinh thần để chiến thắng. Kẻ đi áp bức bóc lột dân tộc khác đã dùng
những thủ đoạn văn hoá nô dịch để phục vụ cho tham vọng kinh tế và chính trị
của chúng. Những dân tộc bị bóc lột phải chiến thắng kẻ thù bằng chính sức
mạnh văn hố dân tộc mình. Hơn ai hết, khi dấn thân vào con đường hoạt động
cách mạng, đặc biệt từ khi bắt gặp ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tầm quan trọng của văn hoá đối với
đời sống con người và sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, đổi mới
đất nước. Từ những năm 20 cho đến cuối đời, Người đã hoạt động say sưa,
không mệt mỏi trên mặt trận văn hoá. Thức tỉnh dân tộc bằng ý thức và truyền
thống văn hoá, bằng sức mạnh của tinh hoa văn hoá nhân loại mà đỉnh cao là
chủ nghĩa Mác-Lênin, bằng việc phủ nhận và xoá bỏ các yếu tố phản văn hố,


Hồ Chí Minh đã khơi dậy truyền thống hàng ngàn năm lịch sử của cha ông, cố
kết dân tộc bằng sợi dây văn hoá dân tộc và văn hoá thời đại, lãnh đạo thành
cơng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng tháng Tám thắng lợi chính là nhờ
Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy đến đỉnh cao bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là sự thắng
lợi của sức mạnh văn hoá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

hách trong thế kỷ XX, góp phần thanh tốn thực dân, xố đi vết nhơ trong lịch
sử và trong nền văn hoá nhân loại.


Trước hết, nền văn hố mới mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền
văn hố có <i>tính chất dân tộc. </i>Chúng ta đều biết con đường và sự nghiệp cách
mạng của Hồ Chí Minh hồ quyện, gắn bó làm một với sự nghiệp văn hóa của
Người. Con đường đó đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự
nghiệp đó làm cho đất nước được độc lập, dân tộc làm chủ, mọi người được ấm
no, hạnh phúc. <i>Nền văn hố có tính chất dân tộc trước hết phải duy trì, bảo vệ, </i>
<i>chấn hưng và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc</i>. Đó là nền văn hố gắn với dân
tộc, có gốc rễ từ dân tộc. Biểu hiện của diện mạo dân tộc chính là bản sắc dân
tộc. Hay nói cách khác, bản sắc dân tộc thể hiện ở nền văn hố dân tộc. Đó là
nền văn hoá biểu hiện nhân cách Việt Nam, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được hun đúc lên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là <i>lịng u </i>
<i>nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng </i>
<i>gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung, trọng </i>
<i>tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; dũng cảm, thông </i>
<i>minh trong chiến đấu; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lịch sử; tình </i>
<i>nghĩa, thuỷ chung với người thân, bè bạn… </i>Hồ Chí Minh thường nói: “Nhân
dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”[29, tr 611]. Nhân cách Việt
Nam làm thành bản sắc của con người Việt Nam với tư cách là một thành viên
của cộng đồng dân tộc. Họ sớm ý thức được trách nhiệm và bổn phận của mình
trong mối quan hệ <i>Nhà- Làng- Nước</i>. Cái hồn của văn hố dân tộc cịn là tinh



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

văn hoá do con người tạo ra và vì con người. Phải xây dựng con người mới với
những mối quan hệ mới - quan hệ tốt đẹp giữa người với người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Bản sắc dân tộc của văn hố khơng chỉ thể hiện ở nội dung, cốt cách, tâm
hồn dân tộc, mà còn thể hiện đậm nét trong các hình thức biểu hiện rất độc đáo
của dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá cao và rất tự hào về các hình thức biểu hiện
của văn hoá Việt Nam. Văn học, nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của nền
văn hoá dân tộc, thể hiện khát vọng của nội dung về Chân, Thiện, Mỹ. Người
nói: “nghệ thuật của cha ông ta hay lắm, tốt lắm”,“âm nhạc của dân tộc ta rất
độc đáo”,“tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân
tộc. Chúng ta phải giữ nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng
khắp”. Với những ý nghĩa này, xuyên suốt và nhất quán, Hồ Chí Minh ln nhấn
mạnh đến cái “vốn”,“cốt cách và đặc tính” với tất cả tính chất độc đáo, chất liệu
riêng của nền văn nghệ dân tộc. Nghiên cứu nền văn nghệ dân tộc, đặc biệt thơ
văn của những nhà văn hoá lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Hồ Chí Minh
cho rằng: “Những người Cộng sản rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dịng suối
tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin,
càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”[47,tr 355]. Văn
hoá, nghệ thuật dân tộc phải là cái trước, cái cội rễ, là điều kiện để tiếp thu,
vươn tới và hội nhập với văn hoá nhân loại. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định
nhất của nền văn hố. Nó là quan hệ vĩnh hằng. Tính dân tộc được đặt lên hàng
đầu trong ba phạm trù “ <i>dân tộc - khoa học - đại chúng</i>” của tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hố mới Việt Nam có ý nghĩa rộng lớn và sâu xa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

người thì mình cũng phải có cái hay cho người ta hưởng, mình đừng chịu vay
mà khơng trả”. Tóm lại, “văn hố Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hố
Đơng phương và Tây phương chung đúc lại…Tây phương hay Đông phương có
cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh
nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hố Việt Nam có


tinh thần thuần t Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”[34, tr 9].


Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đề xướng và lãnh đạo xây dựng nền văn hóa
mới mà ngày nay chúng ta gọi là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
bao gồm các lĩnh vực văn hố chính trị, văn hố đạo đức, văn hố nghệ thuật,
văn hóa pháp luật, văn hố giáo dục, đời sống văn hố,…chống lại tất cả những
gì là phi văn hố.


<i>Thứ hai</i>, cùng với tính chất dân tộc, nền văn hố mới phải có <i>tính khoa </i>
<i>học</i>. Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về tính khoa học trong luận điểm của
Hồ Chí Minh. Nhưng muốn hiểu đúng, phải xuất phát từ thực tiễn lịch sử dân
tộc, bối cảnh thời đại và từ chính cuộc đời hoạt động văn hố của Hồ Chí Minh.
Từ khoa học ở đây bao gồm những ý nghĩa tiên tiến của chủ nghĩa xã hội, lẫn ý
nghĩa hiện đại, từ tư duy, lý luận khoa học, đội ngũ tri thức tiêu biểu cho một
nền công nghiệp, khoa học, nghệ thuật hiện đại, đội ngũ cơng nhân…đến văn
hố đỉnh cao. Khoa học cịn là sự tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của thời đại và đỉnh
cao của văn hóa nhân loại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

tưởng và hành động của mình, Hồ Chí Minh thường đề cập đến việc “mở rộng
kiến thức của mình về văn hố thế giới”. Người chỉ rằng, “Chúng ta có thể bắt
chước những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu - Mỹ” và “có cái gì tốt của Đơng
phương hay Tây phương ta phải học lấy để tạo nên một nền văn hố Việt
Nam”[38,tr 20]. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển văn hoá nhân loại vào
văn hoá dân tộc Việt Nam. Người đã học tập Khổng Tử, Giêsu, Mác, Lênin, Tôn
Giật Tiên và nhiều nhà chính trị lỗi lạc khác. Người đã viết và đánh giá nhiều
nền văn hoá Đông Tây. Người ca ngợi Tônxtôi, Tago, Sêchxpia và Picatxo.
Người giải thích tính nhân loại trong tác phẩm của danh họa Tây Ban Nha -
Picátxô là ở chỗ ông “sôi nổi trong tâm hồn một tình yêu say mê cái Thiện, cái
Mỹ”[19,tr 20].



<i>Thứ ba</i>, nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nền văn hố có


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

cơng tác văn hố:“ Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: Dân rất
tốt…Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm… Nói chuyện, tuyên
truyền, khẩu hiệu, viết báo… của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn
phép: “từ trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần chúng”[25, tr 459- 462].
Điều đó có nghĩa là cuộc sống cách mạng và sự sáng tạo của quần chúng nhân
dân luôn là nguồn nhựa sống, là máu, thịt của nền văn hoá mới. Người coi sáng
tác của quần chúng là “những hòn ngọc quý”. Người khẳng định: “Chỉ có nhân
dân mới ni dưỡng sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn
nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh ta”[47, tr52].


Dân tộc, khoa học, đại chúng - đó là ba đặc trưng luôn quan hệ, tác động
và ảnh hưởng lẫn nhau, tồn tại trong một thể thống nhất của nền văn hoá Việt
Nam, phản ánh tinh thần nhân văn đậm nét: nền văn hoá mới Việt Nam <i>do nhân </i>
<i>dân, gắn liền với nhân dân, tất cả vì nhân dân.</i>


Về tính chất nền văn hố cũng đã được điều chỉnh nhiều lần. Khi miền
Bắc bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã nêu rõ:
“… để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội
chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”[29, tr60]. Từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng vấn đề này đã được điều chỉnh lại: <i>nền văn hoá </i>
<i>mới là nền văn hố có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc</i>. Đây là
quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III (Tháng 9- 1960) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (Tháng 6-
1991). Từ Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII trở đi, tính chất của nền văn
hoá được xác định là một nền văn hoá <i>tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc</i>. Đến
năm 1992, trong bản Hiến pháp mới của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tính chất của nền văn hoá lại được xác định là <i>dân tộc, hiện đại, nhân văn. </i>



Dù có thay đổi, điều chỉnh trong cách diễn đạt thì tính chất tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc của nền văn hoá chúng ta đang xây dựng vẫn bao hàm trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

sự nối tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tính chất của nền
văn hoá được đề ra trong các thời kỳ trước, đã được cô đúc lại một cách ngắn
gọn. Trong sự nghiệp cách mạng mới hiện nay của Đảng và dân tộc, chúng ta
khẳng định nền văn hoá mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hai tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân
tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ
nghĩa, là tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là kế thừa
và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát triển truyền thống ấy cho phù
hợp với những điều kiện lịch sử mới của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay,
xây dựng nền văn hố với hai tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc sẽ
làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một nền văn hố ngang tầm thời đại, phục
vụ tích cực cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh, đồng thời góp phần làm phong phú thêm kho tàng
văn hố nhân loại. Đó cũng chính là thực hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về
sự phát triển biện chứng của văn hoá, cũng như quan điểm <i>“có vay, có trả”</i>


trong văn hố.


<b>1.1.3 Chức năng của văn hoá </b>


Văn hoá là trình độ phát triển nhất định trong lịch sử phát triển xã hội và
con người, là tất cả những giá trị vật chất - tình thần do con người sáng tạo ra và
liên quan trực tiếp đến con người. Với những nội dung như vậy, văn hóa luôn
luôn và là động lực thúc đẩy, vừa là mục tiêu phát triển của xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

qua việc thức tỉnh định hướng, tổ chức và quy tụ con người. Những năm đầu
hoạt động cách mạng, nhiều giá trị văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác


- Lênin đã làm sáng nhận thức của Hồ Chí Minh. Rồi đến lượt mình, suốt đời Hồ
Chí Minh thực hiện sứ mệnh của người đi gieo ánh sáng, gieo mầm cách mạng,
thức tỉnh lương tâm đồng bào, đồng chí, chăm lo việc trồng người, đào tạo
những thế hệ con người mới. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc văn hố là một vũ
khí sắc bén để lên án chế độ thực dân, đế quốc, tuyên truyền, tổ chức lớp lớp
nhân dân đứng lên làm cách mạng. Văn hoá tạo khả năng cho các dân tộc bị áp
bức xây dựng tình đồn kết, vùng dậy với sức mạnh, tài năng, sáng tạo và lòng
dũng cảm để tiến hành sự nghiệp giải phóng. Chúng ta chiến thắng hết kẻ thù,
đó là “sự chiến thắng của văn minh đối với bạo tàn” tức là chiến thắng bằng sức
mạnh văn hoá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

những vĩ nhân “đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại ” như
UNESCO đã ghi nhận.


Văn hố mới, đời sống mới mà Hồ Chí Minh đã phát động trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp và mãi đến tận cuối đời, đó thực chất là
Người muốn đưa văn hoá vào cuộc sống của nhân dân như một động lực để sửa
đổi lối làm việc và những thói hư tật xấu trong văn hố như lười biếng, xa hoa,
gian xảo, tham ơ, dị đoan, mê tín. Người Việt Nam yêu nước, dũng cảm đáp lại
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, sáng
mắt, sáng lịng đi vào cuộc kháng chiến với tinh thần hồ hởi và niềm tin thắng
lợi, là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của động lực văn hoá.


Chức năng của văn hoá mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho
rằng, văn hố có ba chức năng chủ yếu:


<i><b>Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

người vì mình”[29, tr 310] “Lo trước thiên hạ, vui sau triên hạ” “trong mọi
việc…chỉ có một mục đích là phụng sự đồng bào, phụng sự Tổ quốc”[27,tr 498]


“sẵn sàng đem hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của giai cấp, của Tổ
quốc”[29, tr112] “ sống hồ bình, hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới”.


Hai mươi năm sau, trong lời kêu gọi nhân dân chống Mỹ cứu nước,
Người đã nhắc lại lý tưởng độc lập, tự do bằng một mệnh đề mới: <i>khơng có gì </i>
<i>q hơn độc lập tự do</i>. Tuy nhiên, lý tưởng mà Người xây dựng cho Đảng và
nhân dân ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc phải đi tới
chủ nghĩa xã hội để làm cho độc lập dân tộc được vững bền, để sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người được thực hiện trọn vẹn.


<i>Lý tưởng</i> là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, của cả dân
tộc. Mọi hoạt động anh hùng cũng như mọi sự nghiệp lớn chỉ có thể bắt nguồn
tư một mục tiêu lớn, một lý tưởng lớn. Khi đã nhạt phai lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội thì bất cứ người nào cũng trở nên nhỏ bé, tầm thường và sẽ
khơng cịn ý nghĩa trong sự vận động của lịch sử, dù đó là người được coi là lỗi
lạc, đã từng được yêu mến quý trọng một thời. Lịch sử đã để lại khơng ít những
dẫn chứng về điều đó. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ln quan
tâm đến việc bồi dưỡng lý tưởng và những tư tưởng lớn cho cán bộ, Đảng viên
và tầng lớp nhân dân và cũng đặt chức năng cao quý đó vào văn hố.


Văn hố khơng những tác động vào tư tưởng mà cịn tác động vào tình
cảm của con người.


<i>Tình cảm lớn</i>, theo Hồ Chí Minh, là lòng yêu nước, thương dân, thương
nhân loại bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thắng thắn, thuỷ chung; đề
cao cái chân, cái thiện, cái mỹ…Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ:
với gia đình, quê hương, dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy
trị….


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

xây dựng niềm tin cho con người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ


nghĩa Mác- Lênin, tin vào nhân dân, tin vào tiền đồ của cách mạng. Do đó, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Phải làm thế nào cho văn hoá đi sâu vào tâm lý quốc
dân” để xây dựng những tình cảm lớn. Hơn nữa chính những tư tưởng đúng đắn
lại được tiếp nhận không chỉ bằng lý trí mà cịn bằng tình cảm, từ đó trở lại
thành tình cảm lớn, tạo nên sự bền vững trong mỗi người. Mà điều này văn hố
lại có nhiều khả năng nhất.


<i><b>Hai là, nâng cao dân trí </b></i>


Văn hố ln gắn với dân trí. Nói đến văn hố là nói đến dân trí. Khơng
có văn hố khơng có dân trí. Văn hố nâng cao dân trí theo từng nấc thang, phục
vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Dân trí là trình độ hiểu biết, trình
độ kiến thức của người dân, của cộng đồng. Trình độ đó phải từ chỗ biết chữ đến
chỗ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động của mỗi người, nhằm
phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, điều mà Đảng ta xác định
hiện nay là mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Những hiểu biết đó bao gồm nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hố, nhiệm
vụ chun mơn, khoa học - kỹ thuật, lịch sử, thực tiễn thế giới và Việt Nam….


Khi đất nước đã được độc lập, Hồ Chí Minh nói: “Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí…


Muốn giữ vững nền độc lập,


Muốn làm cho dân mạnh dân giàu,


Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình…phải có kiến
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết
phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[25,tr 36].



</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

hưởng”[27, tr342]. “Nội dung của văn hố phải có ý nghĩa giáo dục” [27, tr59].
“Phải dạy cho đồng bào:


1- Thường thức vệ sinh để đồng bào bớt đau ốm
2- Thường thức khoa học để bớt mê tín


3- Bốn phép tính để làm ăn có ngăn nắp
4- Lịch sử , địa lý nước ta


5- Đạo đức của công dân, để thành người công dân đúng đắn”[27, tr 599].
Vấn đề nâng cao dân trí trước kia đã được nhiều nhà yêu nước đặt ra.
Phan Chu Trinh là người tiêu biểu nhất đề ra chủ trương <i>“Khai dân trí, chấn dân </i>
<i>khí, hậu dân sinh” </i>ngay dưới chế độ thực dân phong kiến, nhưng đã không thực
hiện được. Dịng văn hố cách mạng xuất hiện trong thời kỳ trước cách mạng
tháng Tám chỉ có thể làm chuyển biến dân trí được phần nào. Vấn đề nâng cao
dân trí thực sự chỉ có thể được thực hiện khi chính quyền về tay nhân dân, khi
chính trị được giải phóng. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong thế giới hiện đại càng địi hỏi nâng cao dân trí hơn nữa và
khơng có điểm tận cùng. Tuỳ từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng
cao dân trí có điểm chung và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước có trình độ văn hố cao. Mục tiêu đó hiện nay đã được Đảng ta chỉ rõ:
“vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Đó cũng chính
là chức năng chủ yếu của văn hoá.


<i><b>Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành </b></i>
<i><b>mạnh, luôn hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để khơng ngừng </b></i>
<i><b>hồn thiện bản thân mình. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

chất và phong cách con người mới sử dụng được kiến thức để tham gia vào việc


tạo ra những giá trị văn hóa và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị
văn hoá của xã hội.


Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra phong
cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện. Trước hết là đối với cán bộ,
Đảng viên. Người nói “Cán bộ, Đảng viên muốn cho dân tin, dân u, dân phục
thì khơng phải viết lên trán chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Do đó, “văn hố phải gắn
liền với lao động sản xuất, văn hoá phải làm … cho quốc dân có tinh thần vì
nước qn mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng”, phải “Trung với nước,
hiếu với dân”,“ cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, “thương u con người”
và “có tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung”…. Đó là những phẩm chất đạo
đức - chính trị, những phong cách trong lao động, sinh hoạt và trong mọi quan
hệ xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

hoá phải đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với những kẻ địch “nguy
hiểm”, to lớn và hung ác đó. Từ nhận thức đó, Người đã chỉ ra trách nhiệm của
văn hoá cách mạng là: “phải tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch
của văn hố đế quốc”[27, tr173] “phải tẩy hết cho sạch những thói hư, tật xấu
của xã hội cũ”“văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa
xỉ”[32, tr142]. “Thói quen phơ trương lãng phí trong lúc ma chay, cưới hỏi…tệ
đánh vợ ép duyên con, thói tảo hôn”[29, tr537]; “phải gạt bỏ những thái độ sai
lầm như thoả mãn với thành tích ban đầu, bảo thủ, tự mãn với kinh nghiệm đã
có, có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng… lười biếng không
chịu học tập”[29, tr314]; phải làm thế nào cho “văn hoá đi sâu vào trong tâm lý
quốc dân”,“phải soi đường cho quốc dân đi”.


Theo Hồ Chí Minh, con người nếu được sống trong một môi trường xã
hội mà ở đó quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng
tốt đẹp thì sẽ là mơi trường hết sức thuận lợi cho họ phát triển mọi mặt, hoàn


thiện bản chất, nâng cao năng lực bản thân. Vì vậy, Người chủ trương văn hóa
phải tham gia tích cực vào qúa trình xây dựng, tạo lập một quan hệ xã hội mới,
tạo ra một môi trường văn hoá cao, hướng con người vươn tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lý tưởng, từ cái chưa hoàn thiện vươn
tới cái hồn thiện ln ln ở phía trước, đặc biệt là sự hoàn thiện bản thân mỗi
người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

sâu vào thực tế cuộc sống, hiểu được tư tưởng, tình cảm, tâm lý, yêu cầu của
nhân dân, từ đó phục vụ nhân dân một cách tốt nhất.


Nhận thức rõ chức năng quan trọng của văn hóa, văn nghệ, Hồ Chí Minh
coi đội ngũ những nhà văn hố, những người làm cơng tác văn hố, những văn
nghệ sỹ là lực lượng nịng cốt trong sự nghiệp to lớn này. Năm 1951, trong triển
lãm Hội hoạ toàn quốc, Người gửi thư cho các họa sỹ và khẳng định: <i>“Văn hoá- </i>
<i>nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng </i>
<i>như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng </i>
<i>sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”</i>[27, tr368]. Bức thư của
Người đã thể hiện hết sức ngắn gọn và tập trung quan điểm của Mác - Lênin và
Đảng ta về vai trị, chức năng, đối tượng phục vụ của văn hố - văn nghệ, về yêu
cầu tính chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công của văn nghệ sỹ.


Để hồn thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình, Người yêu cầu “chiến sĩ
nghệ thuật phải có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng đắn. Nói tóm lại là phải
đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết”[27, tr 368].
Về sáng tác, muốn có tác phẩm tốt, Người nhắc nhở văn nghệ sĩ cần phải thấu
hiểu, đi sâu vào đời sống nhân dân. Như thế mới bày tỏ được cái tinh thần anh
dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao
tinh thần ấy”[27, tr368]. Hồ Chí Minh cho rằng: “Văn hoá giáo dục là một mặt
trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thống nhất nước nhà”[29, tr190].



</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

động mạnh của cơ chế thị trường, người cầm bút khơng tránh khỏi nhiều khi vì
đồng tiền mà đánh mất thiên chức cao quý của mình, thì quan điểm đó của Hồ
Chí Minh là càng cần thiết.


<b>1.2 TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ </b>
<b>VĂN HỐ TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY</b>


<b>1.2.1 Giá trị tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hố </b>


Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của
cách mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn
hoá của dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc và
sáng tạo, rất trí tuệ và rất nhân văn trong đó tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố là một hệ thống các quan
điểm lý luận cơ bản mang tính khoa học và cách mạng về văn hoá và xây dựng
nền văn hoá Việt Nam, làm cơ sở cho chỉ đạo phát triển nền văn hoá Việt Nam
theo hướng Dân tộc - Khoa học - Đại chúng, một nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Hệ thống lý luận đó bao gồm từ quan
niệm văn hố, tính chất, chức năng, các hình thức biểu hiện và các lĩnh vực khác
nhau của văn hố. Nó chắt lọc, tổng hợp và kết tinh được những giá trị phương
Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, mà cốt lõi là
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác- Lênin với tinh hoa và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Phương thức tư duy văn hoá của Hồ Chí Minh hết sức uyển chuyển, sinh
động, biện chứng. Tồn bộ nội dung tư tưởng văn hố của Hồ Chí Minh đều thể
hiện tính linh hoạt biện chứng đó. Đó là sự thống nhất biện chứng mối quan hệ
của kinh tế - chính trị - văn hố, giữa xưa và nay, giữa truyền thống và hiện đại,
giữa hành vi và ngơn ngữ, giữa nói và làm…. Phương thức tư duy này sẽ là định
hướng, gợi mở chúng ta suy nghĩ tìm lời giải đáp cho việc xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam phù hợp với bối cảnh và điều kiện lịch sử hiện tại.



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

của văn hoá nước nhà. Những tư tưởng ấy đã và đang định hướng lớn cho việc
xây dựng và phát triển nền văn hoá nước ta.


Trước những năm 30 của thế kỷ XX, văn hoá Việt Nam bị khủng hoảng
về đường lối. Sự xuất hiện người Cộng sản Nguyễn Ái Quốc và sự lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc kết hợp với phong trào giải phóng giai cấp vơ sản của
Người là định hướng quan trọng nhất khắc phục sự khủng hoảng triền miên của
văn hoá Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ này. Để chuẩn bị cho nền văn
hoá Việt Nam mới, Nguyễn Ái Quốc đã xác định Chủ nghĩa Mác- Lênin là hệ
tư tưởng cách mạng và là người đầu tiên truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin vào
Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử văn hoá Việt Nam đã tạo ra một cách nhìn
duy vật biện chứng vào các quá trình văn hoá. Cho đến trước khi <i>Đề cương văn </i>
<i>hoá 1943 </i>của Đảng xuất hiện, các tư tưởng văn hoá của Nguyễn ái Quốc - Hồ


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

mới phải tạo ra được những con người tài đức vẹn tồn. Đối với Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa xã hội có nghĩa là <i>một xã hội văn hố</i>. Tức là một xã hội quan tâm
đến trình độ phát triển của con người. Đó là những con người phong phú từ đời
công đến đời tư, với nhân cách người cách mạng là: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư. Đó là những con người ở mọi lứa tuổi, từ em thơ đến cụ già, mọi
tầng lớp xã hội đều phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, sống thuỷ chung tình nghĩa.
Những con người này là sức sống của nền văn hoá mới. Trong giai đoạn cách
mạng hiện nay, khi chúng ta đang phấn đấu xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc thì tư tưởng Hồ Chí Minh chính là linh hồn của chiến lược
phát triển nền văn hoá mới Việt Nam, sẽ giúp nhân dân ta tiếp cận với các giá trị
tiến bộ của nhân loại và giữ gìn được bản sắc dân tộc. Những lời dạy của Người
khơng chỉ có tầm chiến lược mà cịn có ý nghĩa chỉ đạo cụ thể trong cơng việc
hàng ngày của chúng ta. Chính Người là người Việt Nam đầu tiên đã đem ánh
sáng văn hoá mới soi sáng tâm hồn Việt Nam, đem văn hoá dân tộc kết hợp với
văn hoá thế giới truyền thụ cho mọi tầng lớp nhân dân ta từ thành thị đến thôn


quê xa vắng.


Một giá trị cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố chính là “sự
kết tinh truyền thống văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, những tư
tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc
khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết
lẫn nhau” [46, tr 5]. Như vậy, cái cội rễ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là bản sắc
văn hố dân tộc, lấy di sản văn hoá dân tộc làm gốc. Hồ Chí Minh đã tiếp thu
tinh hoa văn hố nhân loại, gắn quyện giá trị văn hoá dân tộc với tinh hoa văn
hoá nhân loại, văn hoá phương Đơng với văn hố phương Tây, tạo nên sản phẩm
tư tưởng đặc sắc văn hố - Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39></div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

yêu nước được Hồ Chí Minh nêu lên như một chân lý, một động lực, là ngọn cờ
quy tụ cả dân tộc đứng lên chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Hồ Chí Minh từng
nói rằng chiến thắng đế quốc, đó là sự chiến thắng của văn minh chống bạo tàn.
Văn minh ở đây đồng nghĩa với văn hoá mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước. Hồ
Chí Minh đã nói tới và sử dụng chủ nghĩa yêu nước như một vũ khí và rèn vũ
khí ấy ngày càng sắc bén không chỉ trong sự nghiệp cứu nước, trong việc xây
dựng đạo đức cách mạng phân định thiện ác, đúng sai, tốt xấu, mà cả trong công
cuộc xây dựng nước mạnh, dân giàu và nền văn hoá Việt Nam. Tháng 7 năm
1958, khi về thăm Hà Bắc, Người nói: “ Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta
cũng gọi Tổ quốc là đất nước, có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất
lại có nước thì dân giàu nước mạnh” [45, tr47].


Tinh thần yêu nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục là tinh thần yêu
nước chân chính, “khác hẳn với tinh thần vị quốc của bọn phản động. Nó là một
bộ phận của tinh thần quốc tế” [21, tr127]. Đó là sự hấp thụ tinh hoa văn hoá của
nhân loại trong giữ gìn bản sắc dân tộc. Nguyễn Ái Quốc - người yêu nước, đã
hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, quê hương điều đó
không cần phải chứng minh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Ở Bác Hồ lòng yêu thương con người mênh mông, sâu xa, không biên
giới, bất kể họ là ai, xuất thân địa vị nào, hễ bị đau khổ là Người thương. Từ
người phu làm đường, vợ người bạn tù,… đến những kẻ đã từng đứng trong
guồng máy thống trị của bọn Quốc dân đảng Trung Hoa, như ban trưởng họ
Mạc, sở trưởng họ Lưu,… Người đều gọi chung là “nạn hữu”. Lịng u thương
đó là cơ sở vững chắc cho niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của con
người, dù nhất thời họ bị lầm lạc, nhưng với sức cảm hoá của cách mạng và gia
đình, Người tin rằng họ đều có thể vươn tới cái tốt đẹp, cái lương thiện.


Chủ nghĩa nhân văn cách mạng Hồ Chí Minh được biểu hiện trước hết ở
khát vọng và ý chí đấu tranh khơng biết mệt mỏi để giải phóng con người, giải
phóng họ thốt khỏi cái đói, cái dốt, khỏi thân phận nơ lệ. Đó mới thực là chủ
nghĩa nhân văn chân chính, ước mơ ngàn đời của nhân loại.


“Nâng niu tất cả, chỉ quên mình”, ham làm những việc ích quốc, lợi dân,
khơng ham địa vị, công danh, phú quý, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ,… đó
là những điều quý báu mà Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta về đạo lý làm
người: phải biết yêu thương lẫn nhau và sống có tình nghĩa. “Nếu thuộc bao
nhiêu sách và sống với nhau khơng có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác - Lênin được!”. Người đã sống sâu sắc điều Người đã nói. Để đi đến đại
nghĩa cứu nước cứu dân Hồ Chí Minh - trong tư tưởng và hành động - luôn đặt
cái chung lên trên cái riêng, lấy cái chung làm tiêu chuẩn không kể điều ấy nhỏ
hay to, lợi hay hại cho mình. Lớn, bé khơng phải là thước đo mà nhân nghĩa mới
là tiêu chí. Hồ Chí Minh thường giáo dục cán bộ, nhân dân: “lúc Đảng giao cho
việc thì bất kể to nhỏ đều ra sức làm cho cẩn thận. Thấy việc phải làm thì làm,
thấy việc phải nói thì nói” [25, tr 476].


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

ra một nền văn hố Việt Nam … có tinh thần thuần tuý Việt Nam, hợp với tinh
thần dân chủ” [3, tr32].



Tư duy văn hố Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở để thâu hoá. Trong khi
chống Pháp, Người vẫn yêu mến và đề cao văn hoá Pháp; chống Mỹ mà vẫn ca
ngợi truyền thống cách mạng Mỹ. Bản thân Người là hình ảnh kết tinh của tinh
hoa văn hoá nhân loại. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Hán đến mức có thể
làm thơ trữ tình, viết chữ thảo,… quả là rất hiếm; nhưng ở Hồ Chí Minh cũng lại
đã in đậm chất văn hoá phương Tây, nhất là văn hoá Pháp.


Trong cuộc đời cách mạng phong phú của Hồ Chí Minh, Người ln nêu
cao tinh thần khoan dung, độ lượng. Với kẻ thù xâm lược, Người ln truy tìm
cái chung, cái đồng nhất, để các bên đều chấp nhận được. Người nói: Trước lịng
bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu. Người Việt và người Pháp cũng
tin tưởng vào đạo đức Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Với người lầm lạc, Người rộng
lịng khoan thứ: Năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài, dài hay ngắn đều chung
lại nơi bàn tay. Với người đối lập, Người vẫn bao dung, cảm hoá: sử dụng
Nguyễn Hải Thần, tha chết cho Ngơ Đình Diệm, cử người đi tìm Trần Trọng
Kim để mời cộng tác…. Với các tôn giáo, Người thành thật tơn trọng đức tin của
những người có đạo, khẳng định lý tưởng cao đẹp, những giá trị đạo đức - nhân
văn của các vị sáng lập, không bài bác, phủ định mà khéo léo hướng lý tưởng
của các tơn giáo đó vào mục tiêu giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho
nhân dân. Về đức Phật, Người viết: Tơn chỉ, mục đích của đạo Phật nhằm xây
dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm. Đức Phật là đại
từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn. Về chúa Giêsu, Người viết: Gần hai mươi thế kỷ
trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu thế, độ dân, hy sinh
cho tự do, bình đẳng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

lịng chân thành, khiêm tốn, giản dị, nhân ái, vị tha. Đó là sức mạnh bền bỉ của
con người vượt qua mọi khó khăn, giữ vững được niềm tin, làm chủ chính mình
và hoàn cảnh nhằm để đi tới mục đích của cuộc đời và sự nghiệp. Trong tác
phẩm <i>Hồ Chủ Tịch, hình ảnh của</i> <i>dân tộc</i>, đồng chí Phạm Văn Đồng đã khái


quát tài tình lối sống giản dị, lão thực của Hồ Chí Minh trong ba chữ: khắc khổ,
cần lao và tranh đấu. “ Ngót ba mươi năm bơn tẩu bốn phương trời, Người vẫn
giữ thuần phong, ngơn ngữ, tính tình của người Việt Nam”. Người thích ở nhà
sàn, thích đi bộ, tắm sơng, hút thuốc lá và thích uống một ly rượu thuốc trong
bữa cơm. Người không quên mùi vị thức ăn đặc biệt Việt Nam như cà muối, dưa
chua, tương ớt,… Người khéo dùng tục ngữ, ca dao và những lời giản dị, thống
thiết, dễ đi sâu vào tâm hồn người Việt Nam …


Con người giản dị, vĩ đại ấy cũng là một người cực kỳ lịch sự, thanh tao,
cao quý trong cách ứng xử, với bạn bè quốc tế, với các cụ già, phụ nữ, thanh
niên và nhi đồng. Ứng xử là biểu hiện tổng hợp của văn hoá, qua cách ứng xử,
người ta thấy ngay tầm văn hoá của một con người, một dân tộc. Phong cách
ứng xử Hồ Chí Minh là kết tinh cao đẹp nhất của ứng xử văn hoá Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Đối với nhân dân ta, mặc dù được cả nước tơn kính, suy tơn, trong ứng xử
với đồng chí, đồng bào, Người vẫn ln nêu cao truyền thống kính già, u trẻ,
tôn trọng phụ nữ, thể hiện một phong cách khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp hiếm
có của một nhân cách văn hoá lớn. Ngày xưa, “Triều đình trọng tước, hương
thôn trọng xỉ” (tuổi). Bác Hồ hiểu và quý trọng tập quán tốt đẹp đó, Người luôn
tỏ thái độ tôn trọng đối với các bậc đại lão ở nông thôn.


Một trong những tiêu chí đánh giá trình độ văn hố - văn minh của một
con người cũng như của xã hội là thái độ đối với phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln đánh giá cao cơng lao, vai trị của chi em phụ nữ. Người viết: Non sông
gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt
đẹp, rực rỡ. Nói phụ nữ là nói đến phân nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ
nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ là
xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. Điều đó khơng chỉ thể hiện một nhãn
quang chính trị rộng lớn mà cịn thể hiện tính cao cả của tầm văn hố - nhân văn
Hồ Chí Minh.



Lời nói đi đơi với việc làm - một tính cách đặc trưng ở lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Với nhiệt tình cách mạng cháy bỏng và tri thức khoa học sâu sắc, với tài
năng nhiều mặt, Hồ Chí Minh ln ln gương mẫu thực hiện những điều do
chính Người đề ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

đổi cách mạng xã hội, và đến lượt nó, nó phải “thay thế triệt để những nếp sống,
thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm”. Đó chính là
q trình đưa đất nước ta từ “một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn
hố cao”. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh, phải mở rộng chủ nghĩa yêu nước và
các quan hệ quốc tế. Tiếp biến các giá trị văn hoá quốc tế, làm cho văn hoá dân
tộc “trở thành một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Đưa khoa học công nghệ vào
cơ cấu nền văn hoá, “phải dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học - kỹ thuật,
làm cho các cháu ngay từ nhỏ đã biết yêu khoa học”; phải biết đem sức hiểu biết
khoa học của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động. Theo Hồ Chí
Minh, phải kết hợp lao động trí óc với lao động chân tay vì lao động trí óc có
một vai trị quan trọng và vẻ vang. Vấn đề quan trọng nhất của nền văn hố mới
khơng chỉ là dân sinh, dân khí mà cịn là dân trí. Để cho văn hố mới được nảy
sinh, gia đình, làng xóm, phố phường, đất nước, cá nhân, cộng đồng phải được
thống nhất trong đa dạng.


Tinh thần của Người về xây dựng và phát triển văn hoá mới nước nhà đã
thấm sâu trong đường lối, chính sách của Đảng và trong hoạt động thực tiễn của
chúng ta. Gần đây nhất, tinh thần đó đã ghi dấu ấn sâu sắc trong Nghị quyết Đại
hội lần thứ VIII của Đảng và trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V
về <i>“Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân </i>
<i>tộc”</i>. Nó mãi mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển
nền văn hố nước ta. Đặc biệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hố có một ý
nghĩa to lớn trong q trình nhân dân ta tiến hành cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá,
mở rộng cơ chế thị trường, hội nhập với các nền văn hoá trong khu vực và loài


người tiến bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền văn hố ngày nay tuy cịn khơng ít những
mặt “chưa kịp” nhưng đã và đang trên đà phát triển của nó. Nền văn hoá mới
Việt Nam ngày nay do Bác Hồ sáng lập, đặt nền móng, chỉ đạo việc xây dựng và
trong giai đoạn cách mạng vừa qua đã hoàn thành trọn vẹn nhất, rực rỡ nhất
ngay ở Bác Hồ. Do đó, để giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hố
nhân loại trong tiến trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, việc nghiên cứu các tư tưởng văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.


<b>1.2.2. Khai thác giá trị tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về văn hố để phát triển </b>
<b>đất nƣớc trong điều kiện hiện nay </b>


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) của Đảng ta đã nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các
nhân tố văn hoá, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị
quyết trung ương 5, khoá VIII, khẳng định rằng: “ Từ nay đến năm 2000, đặt
trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn
hoá lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng và Nhà nước,
trong các đoàn thể quần chúng và từng gia đình”. Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng một lần nữa yêu cầu: “ Nâng cao tính văn hố trong mọi hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”. Kết luận của Hội nghị Trung ương
10, khoá IX, nhấn mạnh: Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng
đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội. Trong Diễn văn đọc tại lễ
kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Đảng vừa qua, Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh
cũng u cầu phải phấn đấu để mỗi tổ chức Đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan Nhà
nước đều là “một tấm gương văn hoá trong xã hội ”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

dựng được tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã
hội, trước hết phải xuất phát từ mỗi cá nhân.


Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố mà tác giả luận văn đã đề
cập ở phần trên, chúng ta càng thấy rõ vai trò quan trọng biết dường nào của
việc vận dụng tư tưởng của Người về văn hoá vào xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay. Không phải ngẫu nhiên Bác Hồ luôn nhấn
mạnh: “ Phải làm thế nào cho văn hoá đi sâu vào trong tâm lý quốc dân, nghĩa là
văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ…văn
hoá phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do… làm thế nào cho
quốc dân có tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung mà qn lợi ích riêng
mình,… làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và
đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình nên
được hưởng”[35, tr 319].


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<i><b>Chương 2</b></i>



<b>VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HỐ TRONG </b>
<b>XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - </b>


<b>MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<b>2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ NƢỚC TA </b>
<b>HIỆN NAY </b>


<b>2.1.1.Yêu cầu phát triển văn hố đi đơi với phát triển kinh tế, khắc phục </b>
<b>mâu thuẫn giữa văn hoá và kinh tế </b>


Văn hoá là sản phẩm của lịch sử trong hoạt động của con người, những


cộng đồng người, nhưng văn hố khơng chỉ chịu ảnh hưởng của kinh tế mà còn
chịu ảnh hưởng của rất nhiều mặt trong đời sống xã hội. Tuy vậy, hoạt động
kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hoá. Tuyệt đối hoá văn hoá hay kinh tế
cũng không đúng. Xét về nguồn gốc, bản chất thì “ văn hố và kinh tế có quan
hệ hữu cơ, là mục tiêu, động lực của nhau” [40, tr16]. Nhưng kinh tế và văn hoá
là một mâu thuẫn biện chứng của sự phát triển, nên không thể thuần t nhìn ở
mặt tích cực hoặc ở mặt tiêu cực.


Lâu nay, khi nhìn nhận các giá trị xã hội, các nhân tố trong phát triển,
khơng ít người chỉ nhấn mạnh một chiều cơ sở kinh tế, vai trò của kinh tế, mà ít
chú ý đến các giá trị văn hố, vai trị của văn hố. Văn hố chưa được đặt đúng
vị trí như nó vốn có trong sự phát triển. Đây đó vẫn cịn tồn tại những quan niệm
coi văn hoá thuộc loại phi sản xuất, là lĩnh vực thứ yếu, thậm chí “là cái đi
của kinh tế” [54, tr32] chịu sự quy định một cách đơn giản của kinh tế.


Thực tiễn ngày càng giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn vai trò, vị trí của
văn hố trong sự phát triển. Sự hiểu biết và trí tuệ do con người tích luỹ được,
cùng tâm hồn cao thượng, đạo lý tốt đẹp trong mối quan hệ của con người với
đồng loại, với xã hội và tự nhiên được xây dựng, bồi đắp lên suốt chiều dài lịch
sử, là yếu tố cấu thành văn hố, làm lên nền tảng tình thần xã hội, giữ vai trò cực
kỳ quan trọng, vừa là mục tiêu vừa là giá trị thúc đẩy sự phát triển của kinh tế -
xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lịng nhân ái, lẽ
phải và cơng bằng.


Đảng ta trong q trình lãnh đạo cách mạng đã sớm nhận thức được vai
trị, vị trí rất quan trọng của văn hoá. Đại hội VI (1986) của Đảng đã nêu “trình
độ phát triển của kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội,
nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế ”[5,


tr86]. Đến Đại hội VII (1991), Đảng đã khẳng định: phải kết hợp hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội …Coi phát triển kinh tế là cơ sở
và tiền đề để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục
khẳng định: “tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng - an ninh” [10, tr89]. Nhận thức ngày càng rõ sự quan
trọng phải kết hợp hài hoà phát triển kinh tế với văn hoá, tại Đại hội X (2006),
Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội
trên bình diện cả nước cũng như phải từng lĩnh vực địa phương. Những luận
điểm trên đánh dấu sự đổi mới tư duy lý luận sâu sắc của Đảng. Bởi lẽ trước đây
chúng ta thường cho rằng, cơ sở kinh tế là nền tảng xã hội trên đó mọc lên và
xây dựng lên kiến trúc thượng tầng trong đó có văn hố. Vì vậy, văn hố mặc dù
có gây ảnh hưởng đối với kinh tế nhưng chung quy đều chịu sự quyết định chặt
chẽ của kinh tế. Quan niệm này là đúng, song từ đó khơng thể kết luận văn hố
thuần tuý nằm trong kiến trúc thượng tầng. Do đó, khi phê phán nhóm “văn hố
vơ sản ” ở Nga đầu những năm 20, Lênin đã chỉ ra rằng, khái niệm văn hoá lớn
hơn ý thức hệ. Có nghĩa là văn hố cịn có các yếu tố nằm ngoài kiến trúc
thượng tầng, nằm ngoài ý thức hệ, như tri thức khoa học tự nhiên, các quy tắc tư
duy ngôn ngữ…


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

là kinh tế thị trường, mở cửa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
thời chiến, văn hố dân tộc có mặt phát triển cao độ nhưng khơng phải là khơng
có những hạn chế. Tuy vậy, khi chuyển sang kinh tế thị trường, nhiều vấn đề
văn hoá dân tộc đang đặt ra phải nghiên cứu. Các hiện tượng kinh tế, xã hội, văn
hoá trong xã hội ta hiện nay có mặt tích cực và tiêu cực bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân.


Kinh tế thị trường ở mặt tích cực của nó, khơng những tạo ra kinh tế thịnh


vượng mà còn thúc đẩy nền văn hoá phát triển, đã làm nảy sinh những hiện
tượng văn hố tích cực như: tính chủ động sáng tạo, óc kinh doanh, tơn trọng lợi
ích kinh tế, tính hiệu quả, tính cạnh tranh, sịng phẳng, dân chủ, đề cao pháp
luật, tính thực tế. Đó là một bước tiến so với thời bao cấp. Dưới tác động của
kinh tế thị trường và quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, quốc tế hố, hệ
thống giá trị văn hoá nước nhà đang sắp xếp lại cho phù hợp. Nhiều nét mới có
giá trị trong văn hố - đạo đức được hình thành, củng cố và phát triển: tính năng
động trong các hoạt động kinh tế, xã hội; tính tích cực cơng dân được khơi dậy
và phát huy, thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, trông chờ từng tồn tại
dai dẳng trong cơ chế cũ; thế hệ trẻ có ý thức vươn lên lập thân, lập nghiệp; mặt
bằng dân trí được nâng cao; năng lực sở trường cá nhân được khuyến khích;
khơng khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên; phong trào hướng về cội
nguồn, tưởng nhớ anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa người có cơng, giúp đỡ
người hoạn nạn ngày càng phát triển; cuộc vận động bài trừ hủ tục, mê tín dị
đoan, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hố, làng ấp văn hoá ngày
càng được nhân dân hoan nghênh và hưởng ứng tích cực…


Hoạt động văn hoá, nghệ thuật, xuất bản, phát thanh, truyền hình,…có
những bước phát triển mới, cả về số lượng và chất lượng, cả về xây dựng đội
ngũ, phát huy tác động tích cực làm cho đời sống văn hố trở nên phong phú và
sôi động hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Qúa trình tồn cầu hố
đang làm tăng mối quan hệ, sự phụ thuộc giữa các quốc gia, nhất là sự phụ thuộc
của các nước đang phát triển vào các nước phát triển. Giai cấp tư sản và chủ
nghĩa đế quốc đã và đang lợi dụng cái tất yếu này để thực hiện mưu đồ chính trị,
buộc các nước đang phát triển phải phụ thuộc vào mình. Tồn cầu hoá mang lại
hạnh phúc cho nhân loại đồng thời cũng tạo ra cơ hội phát triển kinh tế, kỹ thuật,
tạo ra những khả năng chuyển giao công nghệ hiện đại, phát triển văn minh vật
chất. Toàn cầu hoá mang lại những ý nghĩa tiến bộ xã hội nhất định. Đối với các


nước đang phát triển, tham gia tồn cầu hố cịn là cơ hội tốt để tiếp thu khoa
học, công nghệ hiện đại, là điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu giữ, phát
triển nền văn hoá dân tộc. Những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc, nhờ các
phương tiện kỹ thuật hiện đại mà trở thành tài sản, giá trị chung của nhân loại,
và ngược lại, các giá trị chung của văn hoá nhân loại cũng dễ dàng được tiếp
biến trong mỗi nền văn hoá riêng.


Tuy nhiên, trong q trình tồn cầu hố, sự yếu kém và phụ thuộc vào
kinh tế dễ biến các nước đang phát triển trở thành cái bóng mờ của các nước
phát triển. Do chiếm ưu thế về kinh tế, về khoa học, công nghệ, các nước phát
triển đương nhiên cũng chiếm ưu thế trong việc áp đặt những giá trị tư tưởng,
văn hoá, lối sống… của mình lên các nước nghèo phụ thuộc mình. Hơn nữa đối
với các nước đang phát triển, do đời sống cịn nhiều khó khăn, vất vả người dân
rất dễ bị chống ngợp, bị lơi cuốn bởi những giá trị vật chất, bởi lối sống hưởng
thụ từ các nước phát triển tràn vào. Điều này có thể làm thay đổi nếp sống cổ
truyền của dân tộc, làm phai nhạt những giá trị truyền thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

nhiệm, tôn thờ đồng tiền. Lợi dụng tồn cầu hố, lợi dụng tự do, dân chủ, các thế
lực phản động có cơ hội thổi phồng những thiếu sót, sai lầm trong q trình xây
dựng đất nước của các nước đang phát triển; công khai cơng kích đường lối,
chính sách của các nước này nhằm lừa bịp dư luận, kích động lơi kéo quần
chúng và những hoạt động chống lại lợi ích quốc gia, phá vỡ khối đoàn kết dân
tộc, phá vỡ sự thống nhất của các nền văn hố.


Tồn cầu hố kinh tế tư bản còn chứa đựng một mưu đồ nhất thể hố nền
văn hố tồn cầu. Có thể nói, trong sự phát triển thế giới ngày nay, các nước
phát triển đứng đầu là Mỹ, dựa vào sức mạnh kinh tế của mình muốn áp đặt tồn
cầu hố văn hố. Người ta tun truyền về lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ. Họ muốn
áp đặt giá trị, lợi ích văn hố, lối sống của mình cho tồn nhân loại.



Trong q trình hợp tác, giao lưu văn hoá, các trào lưu văn hoá của thế
giới du nhập và khó tránh khỏi vàng thau lẫn lộn, tốt xấu đều có cả, trong khi
các nước đang phát triển lại chưa có một mạng lưới sàng lọc hữu hiệu, thì thực
nguy hại. Những yếu tố độc hại dễ thẩm lậu vào các tầng lớp xã hội, nhất là giới
trẻ, tạo ra những mâu thuẫn thế hệ trong sự phát triển, đồng thời ảnh hưởng đến
việc giữ gìn và phát huy truyền thống. Trong khi đó, giá trị truyền thống tuy có
lịch sử lâu đời thì lại khó hấp dẫn đối với đời sống hiện đại, đặc biệt với tầng lớp
trẻ. Cho nên, nếu khơng có sự chỉ đạo sáng suốt, sự định hướng giá trị tốt dễ dẫn
đến việc các giá trị truyền thống bị lấn át, dần dần bị thay thế, làm mất bản sắc
văn hoá dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

có quy mơ khu vực và quốc tế, như hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)… và
hiện nay đã gia nhập WTO; tăng cường quan hệ với các nước phát triển và nhiều
nước, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế khác; có quan hệ thương mại với hơn
140 nước, quan hệ hợp tác văn hố với hơn 60 nước…, đó chính là những bước
đi căn bản đầu tiên được thực hiện một cách có ý thức vào quá trình này.


Hơn một thập kỷ đổi mới vừa qua chúng ta đã và đang thu được nhiều
thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là ở hai
lĩnh vực kinh tế và văn hố. Đời sống kinh tế khơng ngừng được cải thiện trong
đời sống tinh thần. Trong tiến trình đổi mới và mở cửa hội nhập quốc tế, văn hoá
Việt Nam đã có cơ hội hợp tác và giao lưu với rất nhiều nền văn hoá thế giới, sự
giao tiếp các sản phẩm văn hoá, sự tiếp thu các công nghệ mới về lĩnh vực
truyền thông, về hệ truyền thông đại chúng… Nhờ vậy văn hoá Việt Nam đã đến
được với bạn bè thế giới, chiếm được cảm tình và được bạn bè thế giới hoan
nghênh. Điều đó chứng tỏ con đường mà chúng ta đang đi là đúng đắn.


Tuy nhiên, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc, vẫn còn
nhiều điều nhức nhối. Quá trình hội nhập tồn cầu hố địi hỏi chúng ta phải


hiểu biết mình và làm cho thế giới hiểu mình. Hội nhập sẽ khơng có ý nghĩa khi
ta không giữ được bản sắc dân tộc, cũng như khơng phát huy được bản sắc đó ra
bên ngoài.


<b>2.1.2. Những biểu hiện tiêu cực của văn hoá Việt Nam hiện nay </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

trường. Coi kinh tế thị trường tác động tiêu cực là chính. Ngược lại, có quan
điểm lại “quy các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn phản văn hoá cho các yếu tố về
trình độ dân trí thấp, quen sống trong cơ chế bao cấp, đất nước còn lạc hậu... chứ
không phải do kinh tế thị trường, về bản chất kinh tế thị trường không dẫn tới
suy thoái về văn hoá” [41, tr 41], kinh tế thị trường hầu như chỉ có mặt tích cực.
Hai quan điểm trên có phần cực đoan. Hiện nay, kinh tế thị trường đang tác
động mạnh mẽ cả mặt tích cực và tiêu cực lên đời sống văn hố xã hội, và mặt
tích cực là ưu trội hơn. Hơn nữa, trên lĩnh vực văn hố, khơng chỉ có hiện tượng
“ngoại lai” chuyển vào mà có cả sự nảy sinh trên hiện thực kinh tế cổ truyền
đang chuyển đổi và phát triển ở nước ta. Đó là một hiện thực biện chứng.


Các hiện tượng kinh tế, xã hội văn hoá trong xã hội nước ta hiện nay có
mặt tích cực và tiêu cực đều bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Những hiện tượng
như mại dâm, buôn lậu, làm giàu bất chính, tuyệt đối hố giá trị tiền bạc, coi
thường các giá trị nhân văn của dân tộc, tuy có những nguyên nhân về phẩm
chất cá nhân, ở sự nghèo nàn lạc hậu... nhưng rõ ràng so với nền kinh tế tự
nhiên, nền kinh tế bao cấp thì kinh tế thị trường là một trong những nguyên
nhân làm tăng hiện tượng nói trên. Bản chất của kinh tế thị trường là mở rộng
giao lưu, chú trọng lợi ích kinh tế, quan hệ tiền hàng, quan hệ lợi nhuận, nhưng
nó có mặt trái là kích thích lợi nhuận và lợi ích vật chất, biến cả nhân phẩm con
người thành hàng hoá. Kinh tế thị trường mở rộng giao lưu, không chỉ mặt tốt
mà cả mặt xấu, tác động nhanh chóng, mạnh mẽ vào đời sống dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

thông tin này là để tăng cường hiểu biết thế giới và học tập kinh nghiệm của các


nước phát triển. Kết quả là khơng ít người đã ngộ nhận những điều tưởng là tốt
đẹp của thế giới bên ngồi mà khơng thấy được thực chất của nó. Dần dà, li ti
những thơng tin ấy sẽ bào mịn bản sắc dân tộc và làm lu mờ ý thức chính trị - tư
tưởng ở mỗi người dân, nhất là lớp trẻ. Nghĩa là sự bùng nổ thông tin, sự giao
lưu văn hoá đang từng ngày, từng giờ tác động vào ý thức chính trị, tư tưởng và
từ đó làm biến dạng lý tưởng, đạo đức và lối sống dân tộc đã được chúng ta dày
công xây dựng. Về mặt cảm tính có thể thấy rằng hiện nay tư duy và năng lực
kinh tế của một số người Việt Nam tỏ ra thích nghi và năng động với kinh tế thị
trường hơn là tư duy và năng lực tinh thần văn hoá của họ. Các cấp uỷ đảng và
chính quyền cũng tập trung vào sự tăng trưởng kinh tế hơn là chăm lo phát triển
đời sống tinh thần văn hoá. Phải nói rằng sự tăng trưởng kinh tế trong những
năm gần đây đã nâng mức thu nhập đầu người lên rất nhiều nhưng cũng làm bộc
lộ bao nhiêu vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc.


Hiện nay, vấn đề mà giới khoa học cũng như Đảng và nhân dân ta quan
tâm bậc nhất là vấn đề đạo đức trong kinh tế thị trường. Đạo đức là một vấn đề
thuộc về bản chất của con người và xã hội. Nó nảy sinh, vận động và biến đổi
cùng với quá trình vận động và phát triển của xã hội và con người trong những
giai đoạn khác nhau, những chế độ xã hội khác nhau, trong những nền văn hoá
khác nhau. Thật sự nền kinh tế thị trường cũng có mặt tác động tiêu cực đến đời
sống đạo đức truyền thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

Thực tế hiện nay cũng cho thấy một sự biến động thái quá của các giá trị
đạo đức. Từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị xã hội sang coi trong các giá trị
vật chất kinh tế. Từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực
(hy sinh vì tập thể, vì cộng đồng là đạo đức cao nhất) sang coi trọng con người
cá nhân, thậm chí là cá nhân vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Từ chỗ lấy lý tưởng, đạo
đức làm mẫu chuyển sang coi nhẹ những giá trị đạo đức, phẩm giá, coi trọng giá
trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền, coi tiền là trên hết,
lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người thay cho giá trị đạo đức truyền


thống.


Đồng tiền xâm nhập vào nhiều mối quan hệ của đạo đức xã hội, thậm chí
trở thành nguyên tắc ứng xử và tiêu chuẩn hành vi của khơng ít người. Hiện
tượng “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”,“có tiền mua tiên cũng được”[4, tr3] đang
phát triển hơn bao giờ hết. Đã có khơng ít các trường hợp vì đồng tiền và danh
vọng mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trị, tình đồng chí, đồng
nghiệp. Chính vì thế mà những hiện tượng tham ô, hối lộ, mắc ngoặc, buôn lậu,
lừa đảo, làm hàng giả, bệnh thành tích… đã bị phê phán ngăn ngừa từ nhiều năm
nay vẫn chưa có kết quả khả quan. Bn lậu và tham nhũng phát triển. Ma tuý,
mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng.


Đáng lo ngại hơn là một bộ phận giới trẻ ngày nay thích sống theo kiểu
phương Tây, theo kiểu Mỹ, kiểu lai căng. Với họ những bản nhạc thất tình sầu
não…hấp dẫn hơn là những bản nhạc và sinh hoạt mang tính truyền thống. Tệ
nạn xã hội đang huỷ hoại một bộ phận không nhỏ trong lớp trẻ hiện nay, đặc biệt
ở các thành phố lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

tranh với các hệ thống đạo đức khác của đạo đức mới đang diễn ra phức tạp và
nhiều khó khăn.


Sự thâm nhập, thẩm lậu của các luồng văn hố khác nhau cịn tạo ra nhiều
khuynh hướng lệch lạc trong sáng tác nghệ thuật. Những khuynh hướng này
cũng có phần nào đó cho thấy đạo đức, lối sống có văn hố đang bị xâm hại, tạo
ra tâm lý bi quan, mất niềm tin vào cuộc sống, đưa đến lối sống trụy lạc, buông
thả của một số người…


Không những thế những di tích kiến trúc nghệ thuật như: phố cổ, cố đơ,
thành phố, đình chùa, miếu mạo, lăng tẩm… không được bảo tồn, tu bổ chu đáo,
nên đang xuống cấp trầm trọng. Các lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian cổ


truyền, các trò chơi dân gian đang dần bị quên lãng trong ý thức của giới trẻ…


Có thể nói, trong hoàn cảnh xã hội hiện tại, do tác động hai mặt của kinh
tế thị trường, nhiều giá trị truyền thống đang bị mai một, cái cũ và cái xấu đang
xâm nhập vào các quan hệ giữa con người với con người. Chính vì thế, đáng lẽ
những giá trị cao quý của lễ hội truyền thống cần được khẳng định, thì thực tế
lại chưa thể hiện được điều đó. Vẫn cịn tồn tại rất nhiều những biểu hiện tiêu
cực, phản văn hoá của các kiểu lễ hội, mà những kẻ “buôn thần bán thánh” đã
triệt để lợi dụng (bày trị xóc thẻ, bán thẻ, đoán số, đồng cốt…) để kiếm lợi bất
chính. Cùng với những hiện tượng tiêu cực trên, những biểu hiện “ thương mại
hoá trong lễ hội” của một số cá nhân và tập thể cũng bộc lộ một cách trắng
trợn… và điều đó chưa được ngăn chặn có hiệu quả.


Tất cả những biến động đó đang tạo ra một thực trạng khơng có lợi cho
việc hình thành một môi trường sống, một mơi trường văn hố lành mạnh và
mang tính nhân văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

nhưng đồng thời phải xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thích ứng với kinh tế thị trường mở cửa, với cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
…Hai nhiệm vụ này phải thực hiện đồng thời và thích ứng lẫn nhau. Tại Hội
nghị TW 4 khoá VII và Đại hội VIII của Đảng xác định, văn hoá là nền tảng tinh
thần, là mục tiêu và động lực điều tiết cho sự phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa.


Chiến lược xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không
tách rời chiến lược xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì nền văn hố đó khơng chỉ là kết quả mà còn trực tiếp là động lực điều
tiết kinh tế thị trường theo hướng công bằng, văn minh nhằm bảo đảm phúc lợi
cho toàn dân chứ không phải một thiểu số; bảo đảm sự cân bằng giữa phát triển
vật chất với tinh thần; bảo đảm duy trì, phát triển các giá trị truyền thống cũng


như tinh hoa nhân loại. Nghĩa là sự phát triển kinh tế được đo bằng hiệu quả xã
hội - văn hoá.


Nền kinh tế - xã hội được xây dựng theo phương hướng đó sẽ thực sự trở
thành động lực và đồng thời là mục tiêu của đổi mới xã hội chủ nghĩa. Thơng
qua đó, bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hố sẽ thấm đượm
khơng chỉ trong đời sống văn hoá - nghệ thuật mà trong mọi hoạt động xây
dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, giáo dục
và đào tạo để “ sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta đều có tư duy độc lập, có
cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam ”[9, tr 30].


<b>2.2. XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH </b>


<b>2.2.1. Những định hƣớng cơ bản của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh </b>
<b>về văn hoá. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Nguy cơ của nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu. Nguy cơ “diễn biến hồ bình”.
Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho văn hoá là hết sức to lớn, nặng nề, cần phải có một
hệ quan điểm và giải pháp phát triển văn hố thích ứng.


Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, Đảng ta xác định:
“Nhiệm vụ trung tâm của văn hoá, văn nghệ nước ta là góp phần bồi dưỡng con
người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách
cao đẹp, có bản lĩnh ngang tầm sự nghiệp đổi mới của đất nước, mau chóng bắt
kịp xu thế phát triển của thời đại ngày nay....Việc tạo ra mơi trường văn hố của
chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự kết hợp hài hoà giữa các giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại, thầm nhuần tư tưởng dân tộc, nhân văn là trách nhiệm to lớn của
toàn Đảng và toàn dân tộc ta, đặc biệt là của ngành văn hoá, văn nghệ ”[8, tr 14].


Riêng lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, đồng chí Tổng bí thư khẳng định:


“Thấm nhuần quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: “văn hoá, nghệ thuật cũng
là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy” cần nâng
cao tính chiến đấu trong sáng tác, lý luận, phê bình, đồn kết rộng rãi, tập hợp
mọi văn nghệ sỹ, mọi nhà hoạt động văn hố u nước, vì mục tiêu độc lập của
Tổ quốc, tự do của nhân dân, hạnh phúc của đồng bào”[8, tr14].


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

định rõ nền văn hoá mới là nền văn hố có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) và văn
kiện đại hội Đảng VIII của Đảng xác định vị trí, vai trị của văn hố “là nền tảng
tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời là mục tiêu chủ nghĩa xã hội”[8, tr 5]. Những tư tưởng và tấm gương của
Hồ Chí Minh về văn hố đã được thể hiện trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của
Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về văn hoá đã xác
định: “ Văn hoá Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động, sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của các cộng đồng dân tộc sống
trên đất nước Việt Nam ”. Đó là thiên nhiên thứ hai do con người tạo ra bằng lao
động, trí thức và tình cảm của mình và trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên
cũng như trong giao lưu, tiếp thu tinh hoa nhân loại nhắm hướng tới các giá trị
chân, thiện, mỹ. Đảng ta chỉ ra rằng: Nền văn hoá mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân
xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là nền văn hố
u nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Quán triệt tư tưởng của Người trong sự nghiệp xây dựng văn hoá hiện
nay, chúng ta cần chú ý một số định hướng sau:


<i><b>Xây dựng văn hoá phải bắt đầu từ mỗi con người với tư cách là chủ thể </b></i>
<i><b>của văn hoá </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

mọi việc đều do người làm ra. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta là con người phát triển tồn diện, cả đức, trí, thể, mỹ. Khơng


phải ngẫu nhiên mà ngay sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn dưới ánh
sáng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm đào tạo con người theo
tinh thần “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Đặc biệt sau khi giành chính quyền cách mạng, Người trăn trở
với công việc nâng cao dân trí, hun đúc dân khí, đào tạo nhân tài. Người đặt lên
hàng đầu việc xây dựng tâm lý cho người Việt Nam với nội dung tinh thần độc
lập tự cường. Người chú trọng xây dựng đạo đức và một nền chính trị dân
quyền. Đó là “quả tim đích thực của nền văn hoá” và sẽ trở thành động lực tiến
bộ của loài người. Đúng như một người Mỹ đã rút ra sức mạnh của con người
Việt Nam: “ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật chất là sức mạnh thời
đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: Thời đại năng lượng nguyên tử, thời đại
chinh phục vũ trụ, thời đại tin học… Dù là thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và
người Việt Nam đều khơng có. Sức mạnh duy nhất của họ là sức mạnh con
người” [15, tr43].


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

giáo dục, y tế, chống tham nhũng và các tiêu cực trong xã hội. Giáo dục tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
cán bộ, Đảng viên, thanh thiếu niên. Coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu
để tăng tiềm lực con người Việt Nam, đặc biệt là tiềm lực trí tuệ. Giáo dục để
tạo ra những con người lao động có trí tuệ cao. Phải giáo dục toàn diện cả tri
thức và nhân cách. Chú trọng các môn khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt
nâng cao chất lượng giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Coi trọng giáo dục lịch sử dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống, nhân ái,
tinh thần cộng đồng... nêu cao truyền thống tôn sư trọng đạo, đào tạo sử dụng
nhân tài, chăm lo xây dựng, đào tạo đội ngũ tri thức, cán bộ khoa học. Xây dựng
con người là một việc khó, tinh vi, phức tạp và cách làm tốt nhất là nêu gương.
Sinh thời Hồ Chí Minh vừa chỉ dẫn vừa nêu gương người tốt, việc tốt, vừa tự
mình nêu gương. Người thường xuyên khen người tốt việc tốt qua thư từ động
viên, khuyến khích, biểu dương thành tích của thanh niên, thiếu niên, nhi đồng,
các cụ phụ lão, đồng bào công giáo, Phật giáo, các chiến sỹ, đồng bào dân tộc


thiểu số… Người nói: “ Xưa những người u nước khơng vì tuổi già mà lại
ngồi không… không làm được công việc nặng nề, thì khua gậy đi trước, khuyến
khích bọn thanh niên…” hay “đâu cần thanh niên có, việc khó thanh niên
làm”[59, tr 284].


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64></div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

<i><b>Giữ vững và phát huy bản sắc văn hố dân tộc trong q trình giao lưu, </b></i>
<i><b>hội nhập quốc tế. </b></i>


Đây là một vấn đề khơng hồn toàn mới, chỉ là nhận thức mới về một đề
tài cũ, nhưng lại luôn được bàn tới. UNESCO đã lưu ý rằng “văn hoá là trung
tâm của các cuộc tranh luận hiện nay về bản sắc, sự gắn kết về mặt xã hội và sự
phát triển của một nền văn hoá tri thức” [55, tr7].


Văn hoá khắc hoạ bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng,
khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Như vậy, văn hố mang bản sắc dân tộc.
Và yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hoá. Bản sắc văn
hoá dân tộc là “cái hồn”, là sức sống nội sinh; là cái thẻ căn cước của mỗi dân
tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó có thể biểu lộ một cách trọn
vẹn nhất sự hiện diện của mình trong giao lưu và hội nhập.


Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã rèn đúc, tơi luyện
cho mình phẩm chất tốt đẹp. Đó là khả năng chế ngự thiên nhiên; tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo trong chống giặc ngoại xâm; sự hình thành một hệ giá trị
cốt lõi của văn hoá dân tộc với tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường, tình
thần đồn kết, ý thức cố kết cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
quốc, lịng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa và đạo lý, lấy nhân nghĩa làm
gốc, trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng Nhà - Làng - Nước, trọng dân,
đề cao dân, lấy dân làm gốc, hoà hợp để hoà đồng, cần cù, khiêm tốn, giản dị
trong lối sống…. Tất cả tạo thành nhân cách của con người, của dân tộc Việt Nam.



Bản sắc văn hoá Việt Nam là tố chất hợp luyện cùng chiều với lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó là một hằng số,
là những giá trị bất biến, mà có những giá trị mới được hình thành trong quá
trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn hoá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

chúng ta với thế giới. Tuy nhiên, do mở rộng sự hợp tác, giao lưu kinh tế, văn
hoá nên đã có sự thẩm lậu của những luồng văn hố, tư tưởng, lối sống ngoại
lai, tạo ra sự tương tác với những yếu tố văn hoá bản địa. Sự tương tác ấy đã đưa
đến những kết quả khác nhau, trong đó có vấn đề những giá trị đạo đức, lối sống
cổ truyền của dân tộc đang có những biến động tiêu cực. Nếu khơng có một bản
lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển văn hoá đúng đắn thì việc giao lưu đó
sẽ dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, chỉ còn là bản
sao vụng về, mờ nhạt của một thứ văn hoá vay mượn. Vấn đề đặt ra ở đây là làm
thế nào để mở rộng giao lưu, hội nhập mà không đánh mất cái bản sắc dân tộc mình?
Chúng ta khơng nên e ngại sự áp đảo của tồn cầu hố, khơng “dị ứng”
với những biểu hiện khác lạ của những nền văn hố bên ngồi. Hội nhập vào thế
giới một cách chủ động, tự tin, tự nhiên, sẵn sàng đối thoại với các nền văn hoá,
với tư duy đa dạng văn hoá là một tất yếu của giao lưu hợp tác. Muốn vậy phải
trên cơ sở lấy văn hoá dân tộc làm gốc. Chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy
đủ việc giữ gìn, phát huy cốt cách văn hoá dân tộc mới đi tới được văn hoá nhân loại.
Chúng ta phải xuất phát từ tư duy phương Đông được đánh dấu bởi hồi
bão tìm kiếm tính thống nhất của vũ trụ, sự hài hoà giữa những mâu thuẫn. Để
giao lưu hội nhập phải có một thái độ “cầu đồng tồn dị”, tìm mẫu số chung thay
vì khoét sâu sự cách biệt. Do đó, chúng ta phải quay trở về với ánh sáng tư
tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Nếu như giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy điểm chung của Khổng Tử, Các Mác, Giêsu, Tôn Giật Tiên là mưu cầu
hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội, thì đến cuối thế kỷ XX
nhân loại lại tìmg thấy một lý tưởng chung ở Hồ Chí Minh là hướng con người
tới Chân - Thiện - Mỹ, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân loại. Trong mối
quan hệ Đông - Tây, dân tộc và nhân loại cần phải xác định có cái chung và cái


riêng, vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh để tập trung giải quyết sự cân
bằng, hài hoà giữa các yếu tố ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

cứ một sự lệch lạc nào cũng đưa đến những tổn hại cho việc xây dựng nền văn
hoá mới. Phải lấy bản sắc văn hoá dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh. Nền tảng
có chắc, bản lĩnh có vững thì mới tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại được đúng
đắn; muốn chắt lọc được những gì thực sự là tinh tuý, vứt bỏ những gì là phế
thải của bất cứ loại phản văn hố nào từ bên ngồi. Nói đến dân tộc trước hết là
nói đến văn hố. Văn hoá gắn với dân tộc, bắt rễ sâu xa trong đời sống dân tộc,
là diện mạo của dân tộc. Hay nói cách khác, bản sắc dân tộc thể hiện ở văn hoá.
Bản sắc của dân tộc được hiểu như là “thẻ căn cước” của một dân tộc. Một khi
đánh mất “ thẻ căn cước”, coi như đánh mất chính bản thân mình. Đây chính là
nhận thức của Đảng ta trong đổi mới: “Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hoá
đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh
mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác, của dân tộc khác”[8, tr6].
Điều này cũng có nghĩa dân tộc bị “hồ tan” vào “ngơi nhà văn hố chung” bị
trộn lẫn vào mẫu hình “văn hố đồng phục”. Hơn thế nữa, như có học giả cảnh
báo: “Mất nước nhiều khi giành lại được nhưng nếu để đánh mất bản sắc văn
hố dân tộc thì sẽ là mất hết và mãi mãi”[22, tr145]. Nói tới bản sắc phải hiểu đó
là những giá trị bền vững được thử thách, tôi luyện, cọ xát trong thực tiễn, và đối
với Việt Nam thì đó phải là những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được sàng lọc qua thực tiễn hàng ngàn năm. Bác nói: “Khơi phục cái cũ thì
nên khơi phục cái gì tốt, cịn cái gì khơng tốt thì phải loại dần ra”[31, tr103]. “
Mình có thể bắt chước những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu Mỹ nhưng điều
cốt yếu là sáng tác…”[14, tr 86].


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

tr32]. Chúng ta đang xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mở
rộng giao lưu kinh tế nước ngoài, tức là phát huy tinh thần đổi mới trong tư
tưởng văn hố của Hồ Chí Minh, vừa tạo ra những yếu tố mới trong giao lưu mà
trước đây chưa đặt ra lệ. Giao lưu văn hoá tốt, có nghĩa rằng ta phải có cái gì là


tinh hoa và đặc điểm Việt Nam để góp phần vào kho tàng văn hoá của lồi
người, chứ khơng phải suy nghĩ, sáng tạo theo cái đầu, nói theo cái mồm của
người khác. “Thơng minh” theo kiểu đó là một sự lặp lại, một lối sao chép hay
lai căng. Mà như thế là phá hoại và hạ thấp văn hoá dân tộc đi ngược lại xu thế
của văn minh loài người. Không phải ngẫu nhiên mà khoa học kỹ thuật càng
phát triển thế giới càng đề cao bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Đề cao để
chứng minh sự phong phú đa dạng của trí tuệ, tâm hồn con người, để thấy sự
khác biệt nhưng không tách biệt giữa các nền văn hố khác nhau. Giữ gìn bản
sắc văn hố nghĩa là khơng “sao chép”, khơng đóng cửa, cố thủ trong tính riêng
biệt, khước từ giao lưu văn hoá. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn với mở rộng
giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong văn hố các dân
tộc khác. Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh một ngun tắc văn hố “có vay thì phải
có trả”.“Vay” thì phải sáng tạo và khơng được trở thành kẻ bắt chước. “Trả” thì
phải xứng đáng là một dân tộc trong số ít của thế giới có nền văn hố tiêu biểu.
Giới thiệu văn hoá, đất nước, con người Việt Nam với thế giới, làm phong phú
nền văn hoá nhân loại vừa là trách nhiệm, vừa là vinh dự. Suy cho cùng “giúp
bạn cũng chính là giúp mình”. Qúa trình “vay” “trả” qua lại lẫn nhau giúp ta có
điều kiện giao lưu hội nhập tạo nên hiện đại, song vẫn rất truyền thống (Việt
Nam) của chúng ta ln ln có ý thức và niềm tự hào về bản sắc dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

đại, kế thừa và đổi mới phát triển, dân tộc và quốc tế, nội sinh và ngoại sinh
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.


<i><b>Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng </b></i>
<i><b>lãnh đạo</b></i>


Quan điểm này chứa đựng nhiều nội dung sâu sắc, phong phú. Nó vừa
liên qua đến mỗi người và mọi người, từng ngành và mọi nghề, mọi lĩnh vực và
đặc biệt là thực tiễn đời sống của nhân dân. Nó phản ánh bổn phận toàn dân
tham gia sáng tạo văn hoá và quyền được hưởng thụ văn hoá của người dân.



Trước hết, toàn dân và gắn với nhân dân, cùng với thực tiễn đời sống của
họ bao gồm thực tiễn lao động sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác... là nguồn
nhựa sống và sinh khí vơ tận ni dưỡng sự sáng tạo cho các nhà văn. Những
người hoạt động văn hoá, trước hết và đặc biệt là văn nghệ sĩ khơng được qn
điều đó. Bởi vì cách mạng là sáng tạo là đổi mới. Thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý. Sự nghiệp văn hoá, văn nghệ là một bộ phận của sự nghiệp đổi mới. Vì
vậy, phải “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hoá ” [5, tr 10].


Văn hố là sự nghiệp của tồn dân, bởi quần chúng nhân dân không chỉ
sáng tạo của cải vật chất cho xã hội, mà còn là những người sáng tác nữa. Hồ
Chí Minh đã từng nhắc nhở rằng: tục ngữ, vè, ca dao... là những hòn gọc quý,
vừa rất ngắn lại rất hay chứ không “trường thiên đại hải”, dây cà ra dây muống.
Văn nghệ phải cần phương pháp dày cơng tìm tịi, nghiên cứu, học tập, hấp thu
cho được những tinh hố đó, tạo nên những tác phẩm có giá trị, mang hơi thở cuộc
sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<i>nào?</i> <i>Lấy tài liệu đâu mà viết?</i>. Hồ Chí Minh căn dặn, văn hố phục vụ quần


chúng nhân dân khơng phải chỉ dừng lại ở phản ánh chân thực cuộc sống, mà
định hướng giá trị cho quần chúng. Văn nghệ phải thể hiện khát vọng của nhân
dân về Chân - Thiện - Mỹ. Những tác phẩm văn nghệ như vậy khơng chỉ có
nghĩa cho cuộc sống hơm nay, mà cịn có tác dụng lưu truyền cho con cháu mai sau.


Nói sự nghiệp văn hoá là của tồn dân là nói tới trách nhiệm của mỗi
người và tất cả mọi người; là sự nghiệp của gia đình, nhà trường, địa bàn dân cư,
tập thể, cộng đồng và mọi tổ chức xã hội. Tuỳ theo điều kiện, khả năng và chức
năng của mình, các tổ chức, cá nhân động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia
tích cực, thường xuyên, bền bỉ, xây dựng văn hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống


kinh tế - xã hội, trong mọi môi trường, vừa để tạo mơi trường văn hố lành
mạnh, vừa có khả năng giành thắng lợi trong sự nghiệp văn hoá. Phải đặc biệt
chú trọng vai trị của gia đình trong xây dựng văn hố. Gia đình là tế bào, là hạt
nhân của xã hội. Nhân cách con người được hình thành từ trong mơi trường văn
hố gia đình. Mặt khác, cần phải phát huy cao độ nguồn lực con người, nội lực
trong toàn dân, huy động các ngành, các cấp vào sự nghiệp xây dựng văn hoá,
đặc biệt là đội ngũ trí thức. Theo Hồ Chí Minh, đã là bậc trí thức - lớp người
“tiên tri tiên giác” được xã hội tơn vinh thì có trách nhiệm phải “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”. Đảng và Chính phủ có trách nhiệm to lớn, giúp đỡ trí thức
bằng cách giáo dục để trí thức có lập trường vững vàng, quan điểm đúng đắn, tư
tưởng sáng suốt, tác phong dân chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Sự nghiệp văn hoá mà chúng ta xây dựng là góp phần bồi dưỡng con
người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách
tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng, tạo ra trên đất nước đời sống tinh thần cao đẹp,
trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, điều quan trong
hàng đầu là phải do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của
cá nhân anh hùng nào.


Trong thời đại Hồ Chí Minh, Đảng ta - với đường lối đúng đắn và sáng
tạo - đã làm cho văn hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy, thêm sức mạnh mới
góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Giờ đây, trong tình
hình mới, đường lối, chính sách định hướng các hoạt động văn hoá của Đảng và
cùng với việc Đảng cổ vũ, động viên ý thức trách nhiệm xây dựng văn hố của
tồn dân là vơ cùng quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp
văn hố. Bởi vì chỉ có Đảng -“đạo đức và văn minh”- thì mới khơi dậy, tạo điều


kiện cho nhân dân được hưởng thụ và thắp sáng các giá trị văn hoá đi cùng dân
tộc và thời đại.


<b>2.2.2 Một số giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam </b>
<b>hiện nay </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

và sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để thực
hiện nhiệm vụ này địi hỏi phải có những biện pháp tổng thể, tích cực của các
lực lượng xã hội trên các lĩnh vực khác nhau.


Dưới góc độ triết học, luận văn chỉ đề cập một số giải pháp chung nhằm
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Đó là
những giải pháp để chuẩn bị mọi điều kiện cho sự chủ động hội nhập nhằm mục
đích vừa phát triển được vừa giữ được bản sắc văn hoá dân tộc.


<i><b>Phải thúc đẩy quá trình tích cực hố đời sống tinh thần - văn hố, làm cho </b></i>
<i><b>văn hố thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội </b></i>


Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã làm rất nhiều việc để
nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, tồn dân về vai trị, vị trí chiến lược quan
trọng của sự nghiệp xây dựng văn hoá.


Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) của Đảng đánh
dấu bước tiến lớn trong nhận thức của tồn Đảng về văn hố. Hội nghị đã tổng
kết sâu sắc thực trạng văn hoá nước ta, đặc biệt là thời kỳ 10 năm đổi mới (nhất
là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến nay) dựa trên cơ sở Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) về văn hoá, văn nghệ,
căn cứ vào thực tiễn, đối chiếu u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố; đã chỉ ra những gì <i>được</i> và <i>chưa được</i> trong lĩnh vực văn hoá cùng với việc
lý giải những nguyên nhân (đặc biệt là các nguyên nhân chủ quan) của thực


trạng đó. Văn kiện Hội nghị đã xác định rõ những vận hội mới cũng như những
thử thách gay gắt đối với sự nghiệp xây dựng văn hoá trong bối cảnh nước ta và
thế giới hiện nay và sắp tới. Nêu lên những quan điểm chỉ đạo lâu dài, vạch ra
phương hướng, mục tiêu chiến lược của sự nghiệp văn hố. Văn kiện cịn chỉ rõ
nhiệm vụ bao quát cũng như những việc cần làm nhằm làm cho văn hoá thực sự
trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

tồn bộ đời sống văn hố, đời sống tinh thần của dân tộc, của đất nước ta trong
những năm sắp tới. Quán triệt những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khố VIII có thể coi là “bước đột phá” để
tạo chuyển biến sâu sắc trong tồn Đảng, tồn dân về vai trị, vị trí chiến lược
của văn hố trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.


Bên cạnh những thành tựu nổi bật của đất nước trong lĩnh vực phát triển
kinh tế, giữ vững và củng cố sự ổn định của chính trị - xã hội trước những biến
động lớn xảy ra trên thế giới trong những năm gần đây, trong đó có phần tác
động to lớn của sức mạnh văn hố, chúng ta có thể thấy nổi bật lên những vấn
đề nhức nhối: đó là sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, sự phai nhạt về lý tưởng của một bộ phận đảng viên và nhân dân,
sự suy thoái về đạo đức, lối sống, nhiều tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng....


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Đây là một việc làm tốt đẹp nhằm củng cố truyền thống gia đình, xã hội. Phải
giáo dục nhận thức khoa học, trau dồi phương pháp tư duy khoa học, tư duy lý
luận biện chứng duy vật. Nó bao gồm cả giáo dục tri thức khoa học, trang bị học
vấn mở mang dân trí trong nhà trường và ngoài xã hội. Phải coi giáo dục, đào
tạo và khoa học là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy cơng nghiệp hố,
hiện đại hố mà Đảng đã nêu ra, đây cũng là sự thể hiện sinh khí, bản lĩnh Hồ
Chí Minh về tư tưởng giáo dục.



Mặt khác, các cấp uỷ đảng và chính quyền cần triển khai rộng rãi đường
lối, nhiệm vụ văn hoá của Đảng bằng những cuộc vận động văn hố trong tồn
dân một cách thường xun, sinh động, phù hợp với thực tiễn xã hội. Các phong
trào này cần được tiến hành rộng khắp từ cơ sở, trong các đoàn thể nhân dân,
đặc biệt là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, kết hợp, lồng ghép với nội
dung của các cuộc vận động đã có như người tốt, việc tốt; Uống nước nhớ
nguồn; Đền ơn đáp nghĩa; Xố đói giảm nghèo; xây dựng gia đình văn hố, làng
- xã - ấp văn hố; Tồn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở các khu dân cư;
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.... Trong các cuộc vận
động này cán bộ, đảng viên phải là người đi đầu, giáo dục, tổ chức và gương
mẫu thực hành.


<i><b>Xây dựng mơi trường văn hố theo chuẩn mực chân, thiện, mỹ</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

vì khoa học là sự hiểu biết khách quan về tự nhiên, xã hội, nó ln gắn liền với
chân lý, với cái đúng trong nhận thức và trong thực tiễn. Việt Nam đang đi tắt,
đón đầu để tiếp thu các kinh nghiệm của các nước tiên tiến. Bài học quan trọng
là khi xây dựng môi trường khoa học cần đứng trên quan điểm toàn diện. Cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay chắc chắn sẽ góp phần thúc đẩy việc
xây dựng những cái đúng trong mơi trường văn hố.


Cái đúng trong mơi trường văn hố của chúng ta khơng chỉ gắn với khoa
học và cơng nghệ. Nó cịn gắn với pháp luật. Nhà nước mà chúng ta đang xây
dựng là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Pháp
luật sẽ điều chỉnh sự cân bằng và bình đẳng xã hội. Sống và làm việc theo đạo lý
và pháp luật sẽ làm mơi trường văn hố ở nước ta gắn với một xã hội thực sự
dân chủ. Cái gì luật cấm thì mọi cơng dân khơng được làm. Cịn cái gì luật cho
phép, khơng cấm thì mọi người có thể làm.


Mơi trường văn hố theo chuẩn mực cái đúng còn bao gồm cả việc xây


dựng một hệ tư tưởng khoa học. Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là một thành tựu khoa học xuất sắc, là một chuẩn mực giá trị văn hoá
chung của thời đại ta, của nhân dân ta. Đảng ta đã định hướng sự phát triển của
cái đúng bằng sự phát triển của khoa học, xây dựng kinh tế tri thức, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xác định thế giới quan khoa học là chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.


Mơi trường văn hố của chúng ta cịn là mơi trường đạo đức, ở đó người
nọ quan tâm giúp đỡ người kia. Đây là một lẽ sống từ ngàn xưa cha ông ta bằng
máu, mồ hôi và nước mắt mới xây dựng lên được. Xây dựng các quan hệ đạo
đức trong môi trường văn hố, chúng ta khơng chỉ phát huy các giá trị truyền
thống mà cịn cải tạo nền văn hố từng bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng lạc hậu và
phản động. Vì thế trong mơi trường văn hố hiện nay, chúng ta phải đồng thời
làm cả hai việc trong các quan hệ đạo đức là “<i>xây</i>” và “<i>chống</i>”; “<i>tiếp nhận</i>” và


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

công dân trong các giai tầng khác nhau, thì cùng với việc xây dựng và bồi dưỡng
những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa,
trái với yêu cầu của đạo đức mới, những hiện tượng vẫn thường gọi là tệ nạn,
tiêu cực, thái hoá biến chất trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt -
xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn thường đan xen, đối chọi
nhau, thông qua hành vi của những người khác nhau. Hơn nữa những đan xen và
đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi người. Xây dựng đạo đức mới
trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những
chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã hội, nhất
là trong những tập thể - nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó
bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời phải chống lại những cái xấu, cái
sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan trọng là phải phát hiện sớm,
hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch lành mạnh về đạo đức,
hơn nữa còn phải thấy trước những gì có thể xảy ra để phòng tránh, hạn chế,
ngăn chặn.



Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng
rãi. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã phát động nhiều phong trào như vậy. Năm 1952,
đó là phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ơ - lãng phí - quan liêu;
năm 1963, đó là cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản
lý kinh tế - tài chính, chống tham ơ - lãng phí - quan liêu”, gọi tắt là cuộc vận
động “3 xây, 3 chống”. Qua đó lơi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây
gì, chống gì rất cụ thể, rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi
người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao đạo đức cách mạng. Thực tiễn chứng
minh những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn. Bởi vì, “đạo đức cách
mạng khơng phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

gắn với cái <i>mỹ. </i>Đảng ta quan niệm cái đẹp là nhu cầu của cuộc sống, cái đẹp tạo
ra ý chí và tình thương vơ cùng sâu sắc. Khía cạnh thẩm mỹ của mơi trường văn
hoá bao quát một phạm vi rộng lớn từ cảnh quan thiên nhiên đến “bản sắc dân
tộc và tính hiện đại của kiến trúc trong xây dựng khu dân cư, khu cơng nghiệp,
đơ thị…”. Khía cạnh thẩm mỹ của mơi trường văn hố gắn liền với sự thể hiện
các lực lượng bản chất con người, các hoạt động hàng ngày của con người. Do
đó, xây dựng mơi trường văn hố sẽ gắn liền với giáo dục thẩm mỹ, giáo dục các
giá trị văn hoá tinh thần vô cùng phong phú, thể hiện tâm hồn và cốt cách Việt
Nam trong lối sống, lối ứng xử với tự nhiên, ứng xử giữa con người với con
người. Đó là tinh thần u nước, lịng tự tơn dân tộc; tình thương yêu con người,
tôn trọng cuộc sống con người và đề cao nhân phẩm con người; tinh thần đoàn
kết cộng đồng, tương thân, tương ái, đức tính cần cù, tiết kiệm; tinh thần hiếu
học, ham học hỏi, ham hiểu biết; kỹ năng sáng tạo, linh hoạt, thích ứng
nhanh....Những giá trị đó cần được giữ gìn, phát huy trong điều kiện lịch sử mới
góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần cho dân tộc ta giữ vững độc lập và phát
triển bền vững. Như vậy, tình cảm thẩm mỹ của nhân dân luôn là động lực quan


trọng để xây dựng mơi trường văn hố lành mạnh, phong phú và đa dạng. Cảm
xúc thẩm mỹ, thị hiếu, năng lực, nhu cầu, lý tưởng thẩm mỹ là sức sống của môi
trường văn hố. Có lý tưởng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ đúng đắn sẽ tạo điều
kiện cho mơi trường văn hố phát triển một cách hài hồ, sinh động, là nền tảng
cho việc phát huy các giá trị văn hoá truyền thống và tiếp nhận tinh hoa văn hố
nhân loại.


<i><b>Kết hợp việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa </b></i>
<i><b>văn hoá nhân loại </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

giới đã chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của các nước này không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế. Điều này khơng thể khơng làm cho phương Tây giật mình. Hơn lúc
nào hết, văn hố phương Đơng đang trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn của
các học giả phương Tây. Một học giả phương Tây gốc Trung Quốc cho rằng,
sức mạnh trong cất cánh kinh tế của Nhật Bản và “<i>bốn con rồng nhỏ</i>” Đông Á
không chỉ được đặc trưng bởi các giá trị tinh thần bản địa như: Khổng giáo, Phật
giáo, Lão giáo, cùng với các truyền thống dân tộc khác, mặc dù vai trị của các
giá trị này là khơng thể phủ nhận được. Cần phải thấy rằng, đặc trưng cho sức
mạnh tinh thần đó chính là ý thức thương mại, bn bán và sự cạnh tranh gay
gắt. Nói cách khác, đó chính là các giá trị tinh thần phương Tây được du nhập
cùng với công nghệ phương Tây.


Ở Việt Nam, theo Đào Duy Anh: “<i>Ta muốn trở nên là một nước cường </i>
<i>thịnh vừa về vật chất vừa về tinh thần thì phải giữ di sản văn hoá làm gốc, làm </i>
<i>nền tảng; lấy văn hoá mới làm dụng, nghĩa là phải khéo điều hoà tinh t của </i>
<i>văn hố phương Đơng với những điều sở trường về khoa học và kỹ thuật của </i>
<i>văn hoá phương Tây”</i> [1, tr98]. Tuy nhiên, đây là một việc khó. Nếu làm khơng
khéo cũng dễ mắc sai lầm và phải trả giá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<i>“Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền </i>


<i>văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư </i>
<i>tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hố lành </i>
<i>mạnh cho sự phát triển xã hội. </i>


<i>Kế thừa phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản </i>
<i>văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tơn tạo các di tích lịch sử, văn hố </i>
<i>và danh lam thắng cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở </i>
<i>giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá </i>
<i>dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự </i>
<i>hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu thêm nền </i>
<i>văn hố Việt Nam” </i>[9, 32].


Do đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc cần gắn liền với xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại. Điều đó
cũng có nghĩa là dân tộc phải gắn với hiện đại, phải thấm nhuần chủ nghĩa quốc
tế vô sản, phải phát triển theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Để từng bước
xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc, Đảng và nhân dân ta đã xác định, mở
cửa, giao lưu nhằm chủ động hội nhập văn hoá là một trong những định hướng
tối ưu cho việc phát triển nền văn hoá dân tộc tiên tiến và hiện đại. Vì lẽ đó, giao
lưu văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại được xác định trên một số vấn đề
sau:


<i>Thứ nhất, hội nhập văn hố vì một nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc </i>
<i>dân tộc. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

nghiệp lạc hậu, khoa học công nghệ chậm phát triển, cơ cấu xã hội có tính chất
khép kín…nên hệ giá trị văn hố Việt Nam có nhiều thiếu hụt, nhẹ về tư duy
logíc, tác phong làm việc bị ảnh hưởng nặng bởi tác phong nông nghiệp... Do
vậy, chúng ta phải nhanh chóng bổ khuyết những thiếu hụt trong hệ giá trị văn
hoá, tăng cường giao lưu văn hoá theo nguyên tắc vừa giao lưu với thế giới vừa


bảo tồn bản sắc đưa đất nước tiến lên thành một nước cơng nghiệp hiện đại, có
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà chất dân tộc. Cần lưu ý rằng, hội nhập, giao lưu
văn hoá, thực chất là sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa các yếu tố
nội lực và ngoại sinh trong q trình phát triển. Để có thể tiếp thu sức mạnh bên
ngoài mà vẫn giữ vững chủ quyền dân tộc và văn hố, thì trong hội nhập, các
yếu tố nội sinh phải là chủ thể, giữ thế chủ động. Yếu tố nội sinh phải đóng vai
trị quyết định trong việc định hướng các mối quan hệ của chúng với các yếu tố
ngoại sinh. Hội nhập trên tư thế hoàn toàn chủ động là điều kiện của việc xử lý
đúng mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Điều đó cũng
có nghĩa là chủ thể phải có đủ kiến thức, trình độ, bản lĩnh, đối thoại một cách tự
tin. Lấy nền văn hoá của mình làm gốc, lấy tiêu chí văn hố dân tộc làm bộ lọc,
tiếp thu các giá trị văn hoá hiện đại trên thế giới, lấy cái tiên tiến bổ sung những
thiếu hụt của mình, tạo thuận lợi cho sự phát triển văn hoá Việt Nam.


Bài học sống còn trong thời đại ngày nay cho thấy, nhiều nước châu Á,
châu Phi, châu Mỹ la tinh đã đồng nhất hiện đại hoá với phương Tây hoá. Kết
quả là sự xâm nhập tuỳ tiện các giá trị bên ngồi khơng hợp với chính mình đã
làm cho những chuẩn mực giá trị truyền thống bị mai một, biến chất và lâm vào
rối loạn. Để tránh những điều đó, Việt Nam tiếp thu những tinh hoa văn hố đặc
sắc, tiên tiến và hiện đại của các nước nhưng khơng sao chép máy móc và xơ
cứng; phải năng động cải biến, sáng tạo thành các giá trị văn hố mới của mình;
sáng tạo ra những hình thức mới để biểu đạt sâu sắc nội dung giá trị văn hoá
Việt Nam, tạo thế và lực để phát triển văn hoá dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

Trên thế giới có bao nhiêu dân tộc thì có bấy nhiêu nền văn hoá với những
đặc sắc riêng, độc đáo của mình, với những hệ thống giá trị mà mỗi dân tộc gìn
giữ và là lý tưởng vươn tới.


Giao lưu văn hoá làm lưu thông huyết mạch văn hoá giữa các dân tộc.
Trong q trình giao lưu đó, mỗi dân tộc sẽ thực hiện sự lựa chọn, đồng hố và


dị hóa, tiếp thu và gạt bỏ theo cơ chế tiến hoá. Một nền văn hoá lành mạnh sẽ là
một nền văn hoá biết cách thu nạp những tinh hoa đặc sắc. Điều quan trọng nhất
là nó có đủ sức đồng hoá các tinh hoa ấy của các nền văn hố khác phù hợp và
có lợi cho mình, biến cái bên ngoài thành cái bên trong, tạo ra nội lực cho sự
phát triển.


Tính đa dạng của môi trường sống, điều kiện sống, nguồn gốc chủng
tộc… làm cho văn hoá thế giới càng thêm phong phú về hình thức cũng như nội
dung trên các phương diện: từ tình cảm, tâm lý, cách ăn ở, sinh hoạt cho đến
tính cách, tập quán, lễ nghi; từ phương thức lao động cho đến phong cách tư duy
sáng tạo; từ lối sống thực tế cho đến những thăng hoa kỳ diệu trong thế giới
ngôn ngữ, ý niệm, biểu tượng…; từ cách thức xã hội cho đến những dự án, các
mơ hình lý tưởng trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp lý, đạo đức, khoa
học, nghệ thuật.v.v.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

trong các bộ sử, kinh tế, triết học, tôn giáo, đạo đức, pháp luật, các sáng chế,
phát minh khoa học, công nghệ; những kho tàng nghệ thuật về các loại hình kiến
trúc, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc, văn chương, sân khấu, điện ảnh… với các sắc
thái riêng của các dân tộc châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á,… sẽ làm cho
văn hố Việt Nam có một sức sống dồi dào và ngày càng trở nên sâu rộng.


Những bí ẩn của kiến trúc, hội hoạ thời Ai Cập cổ đại; những cơng trình
kiến trúc tiêu biểu cho ý chí và tài năng phi thường của nhân dân Trung Hoa;
bảo tàng nghệ thuật Luvơrơ của Pháp, Ermitage của Nga…là những hiện thân
của những kiến tạo nghệ thuật tuyệt vời. Những kỳ quan đó là những thành tựu
lớn của văn hoá nhân loại mà chúng ta cần tiếp thu có chọn lọc để làm phong
phú cho nền văn hoá Việt Nam.


Những giá trị của Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo…ngày nay đang có
những phát triển mới trên quê hương của nó. Việc trao đổi, tiếp thu có chọn lọc


những vấn đề mới sẽ giúp chúng ta có những biến đổi để phù hợp với điều kiện
mới của Việt Nam và xu thế chung của thời đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<b>KẾT LUẬN </b>



Có thể nói, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, gần trịn cả thế kỷ
XX, nhân dân Việt Nam đã tiến hành một cuộc cách mạng trường chinh dài nhất
trong lịch sử dân tộc để giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, xây dựng
và phát triển xã hội mới. Cùng với q trình này, trên lĩnh vực văn hố đã diễn
ra một sự biến đổi to lớn, sâu sắc, tồn diện và cơ bản chưa từng có trong suốt
4000 năm lịch sử giữ nước và dựng nước….


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

Mười năm qua, nhân dân Việt Nam phấn đấu xây dựng nền văn hố mới
theo mơ thức đậm đà bản sắc dân tộc ấy để chuẩn bị hành trang bước vào thế kỷ
XXI. Suốt mười lăm năm qua, cùng với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
và mở rộng cơ chế thị trường, xây dựng kinh tế và quốc phòng vững mạnh, củng
cố an ninh quốc gia, an ninh xã hội, các hệ giá trị đang vận động mạnh mẽ trong
văn hoá Việt Nam. Dù vận động như thế nào, hướng xây dựng nền văn hoá cao -
nền văn hoá của chủ nghĩa xã hội là mục đích bất di bất dịch mà hơn nửa thế thế
kỷ qua nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và đã chiến đấu kiên cường, hy sinh vơ
bờ bến, lao động qn mình để thực hiện nó. Nền văn hố Việt Nam hiện nay và
những năm đầu của thiên niên kỷ tới là nền văn hoá của nhân dân, do nhân dân
sáng tạo, là nền văn hố có cốt lõi tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh: là nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất, đa dạng, vì
các giá trị cao quý của con người. Đó là một nền văn hoá phản ánh sự phát triển
cân đối nhịp nhàng giữa con người và tự nhiên, giữa các lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội, giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và sắc tộc, dân tộc và quốc tế,
giữa vật chất và tinh thần, giữa lẽ sống và mức sống. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội và đã vạch ra chiến lược văn hoá
toàn diện cho sự phát triển của cả dân tộc sống trong hồ bình, tình hữu nghị, ấm


no, tự do, hạnh phúc cho những năm tiếp của thế kỷ sau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>



1. Đào Duy Anh (2001), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.


2. Hồng Chí Bảo (6-2005), <i>“Văn hố ứng xử Hồ Chí Minh - Giá trị và ý </i>
<i>nghĩa”</i>, Tạp chí Cộng sản, Số 11, tr31.


3. <i>Báo Cứu quốc</i>, Số ra ngày 25-11-1946


4. Báo Sài Gịn giải phóng (11-1998), Vụ án Tân Trường Sanh.


5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.


6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991


7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.


8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1993), Văn kiện hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII, Lưu hành nội bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.


9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Lần thứ VIII, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.



10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


11. Hà Đăng (2005), <i>“ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng văn </i>


<i>hoá trong Đảng hiện nay”</i>, Tạp chí Cộng sản, Số 15, tr31.


12. Nguyễn Khoa Điềm (Cb)(2001), <i>Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên </i>
<i>tiến đậm đà bản sắc dân tộc</i>, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


13. Vũ Khiêu (Cb)(2001), Văn hoá Việt Nam - xã hội và con người, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

15. Phạm Minh Hạc, <i>Phát triển giáo dục, phát triển con người</i>


16. Phạm Minh Hạc (Cb)(2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


17. Hồng Hà (1976), <i>Thời Thanh niên của Bác Hồ</i>, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
18. Hội đồng Trung ương (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.


19. GS.TS Đỗ Huy (1997), <i>Tư tưởng Văn hố Hồ Chí Minh</i>, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội


20. GS.TS Đỗ Huy (2000), <i>Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển </i>
<i>nền văn hoá mới ở Việt Nam</i>, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


21. GS.TS Đỗ Huy (2002), Nhận diện văn hố Việt Nam và sự biến đổi của nó
trong thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.



22. GS. Phạm Xuân Nam (1998), Những vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.


23. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V,


<i>“Về một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt”</i>, Ngày
14-1-1993.


24. Hồ Chí Minh (1997), Tồn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
26. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
29. Hồ Chí Minh (1996), Tồn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
30. Hồ Chí Minh (1994), Biên niên sử, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
31. Hồ Chí Minh (1963), Bàn về văn hoá văn nghệ, Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà
Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

34. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên sử, Xuất bản lần thứ 2, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.


35. Hồ Chí Minh: Về văn hố (1997), Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội,
tr 319-320.


36. Hồ Chí Minh (1997), Về văn hố văn nghệ, Viện bảo tàng Hồ Chí Minh xuất
bản, Hà Nội, tr 320.


37. Đỗ Mười (2 - 1993), <i>“ Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người </i>
<i>vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”</i>, Văn kiện hội nghị lần thứ 4


Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Lưu hành nội bộ, tr 12 – 13.


38. GS. Đinh Xn Lâm, PTS Bùi Đình Phong (1998), <i>Hồ Chí Minh- Văn hoá </i>
<i>và đổi mới</i>, Nxb Lao động, Tp Hồ Chí Minh.


39. Bùi Đình Phong (2005), Trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.


40. Lê Khả Phiêu (8-1998), Tạp chí Cộng sản, Số 15.
41. Tạp chí Cộng sản, số 3, 2-1998, tr 41-42]


42. Tập thể tác giả (1978), Hồ Chí Minh trong lịng nhân dân thế giới, Nxb Sự
thật, Hà Nội.


43. Tập thể tác giả (1993), <i>Văn hoá xã hội con người</i>, Hà Nội


44. Tập thể tác giả(1993), <i>Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc</i>, Hà Nội.
45. Tập thể tác giả(1993), Bác Hồ với Hà Bắc, Viện nghiên cứu Tư tưởng Hồ
Chí Minh xuất bản, Hà Nội.


46. Tập thể tác giả (1995), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc
- Nhà văn hoá lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội


47. Tập thể tác giả(1995), <i>Bác Hồ với Văn nghệ sỹ</i>, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
48. Tập thể tác giả( 1996), Báo cáo Tổng kết chương trình KX 06, Hà Nội


49. Tập thể tác giả (1999), Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

51. Trần Ngọc Thêm (1997), <i>Cơ sở văn hoá Việt Nam</i>, Nxb Giáo dục, Hà Nội.


52. Hồ Bá Thâm( 2003), Bản sắc văn hoá dân tộc, Nxb Văn hố Thơng tin, Hà Nội.
53. Đặng Hữu Toàn (2001), “<i>Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo </i>
<i>chuẩn Chân - Thiện - Mỹ trong bối cảnh tồn cầu hóa, phát triển kinh tế thị </i>
<i>trường”</i>, Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế Giá trị truyền thống trong bối cảnh tồn
cầu hố, Hà Nội


54. Nguyễn Phú Trọng (2002), <i>Vì một nền văn hố Việt Nam dân tộc, hiện đại</i>,
Nxb Văn hố Thơng tin, Hà Nội.


55. Toạ đàm <i>“Đa dạng hoá văn hoá, phát triển và tồn cầu hố”</i> (25-5-2003),
Báo Lao động.


56. Hồ Sỹ Vịnh (1999), Văn hoá Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.


57. Hồ Sỹ Vịnh (2001), “<i>Xây dựng bản lĩnh văn hố Việt Nam để thích nghi với </i>
<i>xu thế tồn cầu hố”</i>, Báo cáo tại hội thảo Quốc tế Gía trị truyền thống trong bối
cảnh tồn cầu hố, Hà Nội.


58. GS.TS Huỳnh Khái Vinh (1998), Những vấn đề thời sự của văn hố, Nxb
Văn hố Thơng tin, Hà Nội.


59. Lê Xuân Vũ (2004), Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hố Việt Nam , Nxb
Văn hoá, Hà Nội.


60. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hố tìm tịi và suy ngẫm, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.


</div>

<!--links-->

×