Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

07 chan doan ngoi the kieu the

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.08 KB, 4 trang )

1. Tên bài: CHẨN ĐỐN NGƠI, THẾ, KIỂU THẾ
2. Bài giảng: lý thuyết
3. Thời gian giảng: 01 tiết
4. Địa điểm giảng bài: giảng đường
5. Mục tiêu học tập: sau khi học bài này, sinh viên phải:
- Viết ra được định nghĩa của ngôi - thế - kiểu thế
- Kể ra được 5 loại ngôi thai cùng các điểm mốc tương ứng
- Mơ tả được cách khám để chẩn đốn ngơi, thế của của thai
- Kể tên các loại ngôi thai có thể đẻ được đường âm đạo
6. Nội dung chính
6.1. Tư thế thai nhi trong buồng tử cung
- Thai được bao bọc bởi một khối lượng nước ối lớn. Thai nằm trong buồng tử cung theo tư
thế đầu cúi gập, lưng cong, chi trên gấp trước ngực, chi dưới gấp trước bụng. Tư thế thai nhi có hình
giống một quả trứng, hai cực của trứng là đầu và mông.
- Buồng tử cung cũng hình trứng, cực to là đáy và cực nhỏ là eo tử cung. Bình thường thai nhi
nằm khớp với buồng tử cung, nghĩa là trục của thai và trục tử cung trùng với nhau và trùng với trục
của eo trên của khung chậu, nhưng trong 3 tháng đầu do thai nhi còn nhỏ, nằm trong khối lượng nước
ối nhiều, nên tư thế nằm của thai chưa ổn định, trong 3 tháng giữa thai nằm dọc theo trục tử cung
nhưng đầu của thai to hơn mông nên nằm ở đáy tử cung và mơng nằm ở phía eo tử cung (ngôi ngược).
Trong 3 tháng cuối, mông phát triển nhiều hơn, lại cộng thêm với hai chi dưới, do đó cực mơng to hơn
cực đầu, nên mơng lại quay lên nằm ở cực đáy tử cung và cực đầu nhỏ hơn quay xuống phía eo tử
cung. Sở dĩ thai nhi nằm được theo một tư thế như vậy là vì giữa thai nhi và tử cung có một sự bình
chỉnh theo qui luật Iajot “ như một vật thể đặc nằm trong một thể đặc khác, nếu vật ngoài co giãn
được và vật trong có những vận động riêng, nếu diện tiếp xúc giữa hai vật thể trơn, nhẵn, thì vật đặc ở
trong ln bình chỉnh hình thể và thể tích để phù hợp với hình thể và dung tích của vật thể bên ngồi
”.
Như vậy, tư thế thai nhi nằm trong buồng tử cung phụ thuộc vào 3 yếu tố
- Hình thể tử cung
- Hình thể thai nhi
- Sự cử động của thai nhi và sự co bóp của tử cung.
Nếu một trong 3 yếu tố đó thay đổi thì tư thế thai nhi nằm trong buồng tử cung sẽ khơng bình


thường. Thí dụ đáy tử cung có u xơ, làm cho đáy tử cung bé lại, lúc đó cực đầu của thai sẽ quay lên
phía đáy tử cung, cực mơng to sẽ quay xuống phía eo tử cung. Trong trường hợp não úng thuỷ thì đầu
quay về phía đáy tử cung vì to hơn mơng, mơng nhỏ hơn sẽ quay về phía eo tử cung. Nếu thai chết,
mất vận động thì sự bình chỉnh của thai khơng theo quy luật nữa.
6.2. Vị trí của thai nhi đối với khung chậu người mẹ


Dựa vào vị trí của thai nhi đối với khung chậu người mẹ, có thể xác định được ngơi, thế và
kiểu thế của thai nhi.
6.2.1. Ngôi
- Định nghĩa: Ngôi là phần thai nhi trình diện trước eo trên trong khi có thai và khi chuyển
dạ.
- Phân loại: có hai loại ngôi: ngôi dọc và ngôi ngang
* Ngôi dọc: là ngôi mà trục của thai nhi ăn khớp với trục của tử cung.
Ngơi dọc gồm có: ngơi dọc đầu nằm ở dưới: tuỳ theo độ cúi của đầu thai nhi ta có
* Ngơi chỏm: đầu cúi hẳn, mốc của ngơi là xương chẩm gần thóp sau, đường kính lọt của
ngơi là Hạ chẩm - Thóp trước: 9,5 cm, ngơi chỏm có khả năng đẻ được đường âm đạo.
* Ngôi mặt: đầu ngửa hẳn, mốc của ngơi là mỏm cằm, đường kính lọt của ngơi là Hạ cằm Thóp trước: 9,5 cm. Ngơi mặt có khả năng đẻ được đường âm đạo nếu là ngôi mặt cằm vệ và không
đẻ được theo đường âm đạo nếu là ngôi mặt cằm cùng.
* Ngôi trán: đầu ở tư thế trung gian, mốc của ngôi là gốc mũi, đường kính nếu lọt là Thượng
chẩm - Cằm: 13,5 cm. Ngôi trán không thể đẻ được theo đường âm đạo.
* Ngơi thóp trước: mốc của ngơi là thóp trước, nằm chính giữa tiểu khung, đầu cúi hơn so
với ngôi trán, cũng chỉ là một dạng của ngôi trán, nếu ngôi đã cố định vào tiểu khung cũng khơng thể
đẻ được theo đường âm đạo vì đường kính nếu lọt của ngôi trán là chẩm cằm 13cm.
Ngôi dọc đầu nằm ở trên và ngôi ngược hay ngôi mông. Ngơi ngược có ngơi ngược hồn tồn
và ngơi ngược khơng hồn tồn.
Ngơi ngược hồn tồn: Khi có cả mơng và hai bàn chân thai nhi ở eo trên.
Ngôi ngược không hồn tồn: có kiểu mơng, kiểu đầu gối, kiểu chân.
+ Ngơi ngược khơng hồn tồn kiểu mơng: hai chân thai nhi vắt ngược lên hai vai, chỉ có
mơng thai nhi trình diện trước eo trên.

+ Ngơi ngược khơng hồn tồn kiểu đầu gối: thai nhi như quì trong buồng tử cung, chỉ có hai
đầu gối trình diện trước eo trên.
+ Ngơi ngược khơng hồn tồn kiểu chân: thai nhi như đứng trong buồng tử cung, hai bàn
chân trình diện trước eo trên. Trên thực tế hiếm gặp ngôi ngược kiểu đầu gối và kiểu chân. Trong quá
trình chuyển dạ hai ngơi này sẽ thành ngơi ngược hồn tồn.
Mốc của ngơi ngược là đỉnh xương cùng, đường kính lọt của ngơi là cùng chầy 9 cm. Ngơi
ngược có khả năng đẻ được đường âm đạo nếu thai nhỏ vì cái khó trong ngôi ngược là phần đầu to lại
ra sau nên dễ mắc đầu hậu.
* Ngôi ngang: Trục của thai nằm ngang với trục của tử cung.
Ngơi ngang cịn gọi là ngơi vai vì vai trình diện trước eo trên, mốc của ngôi là mỏm vai.
Ngôi ngang không đẻ được theo đường âm đạo.
Tóm lại có 5 loại ngơi cụ thể: Ngôi chỏm, ngôi trán, ngôi mặt, ngôi ngược và ngôi ngang.
6.2.2. Thế


- Định nghĩa: Là tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với bên trái hoặc bên phải khung
chậu của người mẹ vì vậy mỗi một ngơi có hai thế: Thế phải hoặc thế trái.
- Cách xác định:
Xác định mốc của ngôi nằm ở bên phải hay bên trái của khung chậu người mẹ mà ta có thế
phải hay thế trái, ngồi ra ta cịn có thể dựa vào lưng của thai nhi để xác định thế của thai trên lâm
sàng.
Ví dụ: xương chẩm ở bên trái khung chậu là thế trái, ta gọi là Chẩm chậu - trái. Mỏm cằm ở
bên phải khung chậu là thế phải ta gọi là Cằm - chậu - phải.
Trên lâm sàng ngôi chỏm: lưng bên nào thế ở bên đó, ngơi mặt lưng bên nào thế bên đối
diện.
6.2.3. Kiểu thế
- Định nghĩa: là tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với các điểm mốc của khung chậu
người mẹ.
- Một số vị trí giải phẫu các mốc của eo trên
+ Mỏm chậu lược: ở phía trước gần khớp mu

+ Khớp cùng chậu: ở phía sau là khớp giữa xương cùng và xương chậu, mỗi bên có một
khớp cùng chậu.
+ Điểm giữa gờ vơ danh: chính giữa gờ vơ danh.
- Phân loại:
+ Kiểu thế trước: mốc của ngôi thai tương ứng với mỏm (............) chậu lược.
+ Kiểu thế ngang: mốc của ngôi thai nằm tương ứng với điểm giữa gờ vô danh.
+ Kiểu thế sau: mốc của ngôi thai nằm tương ứng với khớp cùng chậu.
Nhưng khung chậu gồm 2 xương chậu hợp lại nên tất cả có 6 kiểu thế.
- Cách gọi tên:
Ví dụ: Ngôi chỏm
Thế trái:
+ Kiểu thế trước: CCTT
+ Kiểu thế sau: CCTS
+ Kiểu thế ngang: CCTN
Thế phải
+ Kiểu thế trước: CCFT
+ Kiểu thế sau: CCFS
+ Kiểu thế ngang: CCFN
6.2.4. Kiểu thế sổ:
Khi ngơi đã xuống eo dưới thì cũng dựa vào vị trí điểm mốc của thai nhi mà có các kiểu sổ
(tuỳ theo ngơi).
- Ngơi chỏm có 2 kiểu sổ: chẩm vệ và chẩm cằm


- Ngơi ngược có 2 kiểu sổ: cùng ngang trái và cùng ngang phải
- Ngơi mặt: có 1 kiểu sổ là cằm - vệ và 1 kiểu không thể sổ được là cằm - cùng.
7. Phương pháp giảng: truyền thống, áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, Overhead...
8. Phương pháp lượng giá: Test trắc nghiệm
9. Tài liệu học tập: Sách giáo khoa, tài liệu phát tay.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×