Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

29 thai chet luu trong tu cung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.93 KB, 8 trang )

Tên bài: THAI CHẾT LƯU TRONG TỬ CUNG
Bài giảng: lý thuyết
Thời gian giảng: 02 tiết
Địa điểm giảng bài: giảng đường
Mục tiêu học tập: sau khi học xong bài này, sinh viên phải:
1. Nói được định nghĩa thai chết lưu
2. Trình bày được các triệu chứng của thai chết lưu trong nửa đầu và nửa sau thai kỳ
3. Nói được biến chứng rối loạn đông máu và nhiễm khuẩn trong thai chết lưu
4. Nêu được hướng xử trí thai chết lưu
Định nghĩa về thai chết lưu không thống nhất giữa các nước khác nhau. Chúng ta quan niệm
thai chết lưu là tất cả các trường hợp thai bị chết mà còn lưu lại trong tử cung trên 48 giờ. Có tác giả
coi thai chết lưu là những trường hợp thai bị chết sau 20 tuần tuổi thai, có trọng lượng trên 400g.
Đặc điểm cơ bản của thai chết lưu là vô khuẩn, mặc dù thai chết và lưu lại trong tử cung
nhưng được nút nhầy cổ tử cung bịt kín làm cho mầm bệnh không xâm nhập lên trên cao được. Trái
lại một khi đã vỡ ối, nhiễm khuẩn xảy ra rất nhanh và rất nặng. Trong nhiều trường hợp thai chết lưu
rất khó tìm thấy ngun nhân. Khi thai bị chết lưu gây ra hai nguy cơ lớn cho người mẹ:
+ Rối loạn đơng máu dưới dạng chảy máu vì đơng máu rải rác trong lịng mạch.
+ Nhiễm khuẩn nhanh và nặng khi ối vỡ lâu.
Bên cạnh đó, cịn có những ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lý tình cảm người mẹ, đặc biệt là ở
những trường hợp hiếm con. Thai bị chết trong tử cung luôn luôn là sang chấn cho người mẹ, cần có
sự hỗ trợ của những người xung quanh, đặc biệt là nhân viên y tế.
Tỷ lệ thai chết lưu ở Bệnh viện Phụ Sản Trung ương vào khoảng 4,4% (1994-1995) so với
tổng số trường hợp đẻ tại bệnh viện. Tỷ lệ thai chết lưu là 0,76% ở trung tâm Foch (Pháp). Miền Tây
nước Úc, tỷ lệ này là 0,7% (chỉ tính những trường hợp bị chết sau 20 tuần so với tổng số đẻ)
1. Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thai chết lưu và cũng có nhiều trường hợp thai chết lưu mà khơng
tìm được ngun nhân. Người ta cho rằng có từ 20 đến 50% số trường hợp thai chết lưu không tìm
thấy ngun nhân.
1.1. Ngun nhân từ phía mẹ
- Mẹ bị các bệnh lý mạn tính: viêm thận, suy gan, thiếu máu, lao phổi, bệnh tim, huyết áp cao...
- Mẹ bị các bệnh nội tiết: Basedow, thiểu năng giáp trạng, đái tháo đường, thiểu năng hay cường


năng thượng thận.
- Nhiễm độc thai nghén từ thể nhẹ đến thể nặng đều có thể gây ra thai chết lưu. Tỷ lệ thai chết lưu
càng cao nếu nhiễm độc thai nghén càng nặng và không được điều trị hay điều trị không đúng. Bệnh
kéo dài nhiều ngày làm cho thai suy dinh dưỡng và bị chết. Tỷ lệ thai chết rất cao khi nhiễm độc thai
nghén có biến chứng như tiền sản giật, sản giật, rau bong non.


- Mẹ bị các bệnh nhiễm ký sinh trùng như sốt rét ( trong sốt rét ác tính, thai bị chết gần như 100%
), nhiễm vi khuẩn ( như giang mai ), nhiễm virus (viêm gan, quai bị, cúm, sởi...) Trong các trường hợp
này thai có thể bị chết vì:
+ Tác động trực tiếp của nguyên nhân gây bệnh lên thai, lên bánh rau.
+ Tình trạng sốt của người mẹ, thai rất kém chịu đựng với tình trạng sốt của người mẹ. Khả năng
thải nhiệt của thai là rất kém. Hệ thống điều nhiệt của thai chưa hoạt động. Mỗi khi người mẹ bị sốt vì
bất cứ nguyên nhân gì cũng làm thai dễ bị chết lưu.
- Mẹ bị ngộ độc cấp tính hay mạn tính. Mẹ dùng một số thuốc có thể làm cho thai bị chết nhất là
một số thuốc chữa ung thư khi mới có thai. Mẹ bị chiếu tia xạ vì lý do điều trị bệnh hay vơ tình
- Tử cung: tử cung dị dạng cũng là một nguyên nhân gây thai chết lưu, có thể gặp ở tất cả các kiểu
dị dạng của tử cung. Tử cung nhi tính, tử cung kém phát triển làm cho thai bị ni dưỡng kém, có thể
bị chết lưu.
- Một số yếu tố thuận lợi làm cho thai chết lưu là:
+ Tuổi của mẹ: tỷ lệ thai chết lưu tăng cao ở những người mẹ trên 40 tuổi, nguy cơ thai chết
lưu cao gấp 5 lần so với nhóm phụ nữ trẻ.
+ Dinh dưỡng kém, lao động vất vả, đời sống khó khăn.
+ Trong tiền sử có thai chết lưu, nguy cơ thai chết lưu trong lần có thai tiếp theo cao gấp 3
đến 4 lần.
1.2. Nguyên nhân từ phía thai
- Rối loạn thể nhiễm sắc: là nguyên nhân chủ yếu của thai dưới 3 tháng bị chết. Rối loạn nhiễm
sắc thể có thể là do di truyền từ bố, mẹ; có thể là do đột biến trong quá trình tạo nỗn, tạo tinh trùng,
thụ tinh và phát triển của phôi. Tỷ lệ rối loạn nhiễm sắc thể tăng lên rõ ràng theo tuổi của mẹ, đặc biệt
là ở các bà mẹ trên 40 tuổi.

- Thai dị dạng: não úng thuỷ, vô sọ, phù thai rau.
- Bất đồng miễn dịch mẹ con do yếu tố Rh, thai rất dễ bị chết lưu ở các lần có thai tiếp theo.
- Thai già tháng: bánh rau bị lão hố, khơng bảo đảm nuôi dưỡng thai dẫn đến thai chết lưu nếu
không được xử trí kịp thời.
- Đa thai: thai có thể bị chết trong trường hợp truyền máu cho nhau, thai cho máu dễ bị chết lưu. Hơn
nữa trong quá trình phát triển, một thai có thể bị chết khi cịn bé, tiêu đi mà khơng có biểu hiện lâm
sàng. Trong khi thai bên cạnh vẫn tiếp tục phát triển bình thường. Do đó khi bé, làm siêu âm phát hiện
ra song thai, đến khi thai lớn chỉ còn thấy một thai trên siêu âm. Các trường hợp như thế này khơng
phải là hiếm.
- Yếu tố giới tính: hình như thai trai có nguy cơ bị chết lưu cao hơn thai gái, có lẽ liên quan đến vấn
đề di truyền qua thể nhiễm sắc giới.

1.3. Nguyên nhân từ phía thai


- Dây rốn: mọi bất thường ở dây rốn đều có thể làm thai chết lưu. Dây rốn thắt nút, dây rốn ngắn
tuyệt đối, dây rốn quấn quanh cổ, quanh thân, quanh chi. Dây rốn bị chèn ép, đặc biệt hay gặp trong
trường hợp thiêủ ối, dây rốn bị xoắn quá mức.
- Bánh rau: bánh rau xơ hoá, bánh rau bị bong, u mạch máu màng đệm của bánh rau. Máu của thai
chảy sang mẹ
- Nước ối: đa ối cấp tính hay mạn tính, thiểu ối.
Người ta thấy rằng có từ 20% đến 50% số trường hợp thai chết lưu là khơng tìm thấy ngun nhân,
mặc dù có đầy đủ các phương tiện thăm dò hiện đại.
2. Giải phẫu bệnh: tuỳ theo giai đoạn thai bị chết mà có các hình thái sau:
2.1. Thai bị tiêu: trong những tuần đầu, ở giai đoạn rau toàn diện, nếu thai bị chết thì có thể bị
tiêu đi hồn tồn, chỉ để lại một bọc nước.
2.2. Thai bị teo đét: thai chết vào tháng thứ 3, thứ 4 sẽ bị teo đét, khô lại. Da thai vàng xám như
màu đất, nhăn nheo bọc lấy xương. Nước ối ít đi, đặc sánh vẩn đục, cuối cùng sẽ khô đi để lại một lớp
sáp trắng bệch bao quanh cái thai.
2.3. Thai bị úng mục: sau 5 tháng thai chết sẽ bị úng mục. Lớp ngoại bì sẽ bị bong, lột dần từ

phía chân lên phía đầu thai. Lớp nội bì thấm hemoglobin nên có màu đỏ tím. Các nội tạng bị giữa nát,
làm cho đầu ọp ẹp, các xương sọ chồng lên nhau, ngực xẹp, bụng ỏng. Bánh rau vàng úa, teo đét, sơ
cứng lại. Màng rau vàng úa. Nước ối ít dần đi, sánh lại, có màu hồng đỏ. Dây rốn teo nhỏ lại. Có thể
dựa vào hiện tượng lột da để biết thời gian thai chết:
+ Ngày thứ 3: lột da bàn chân.
+ Ngày thứ 4: lột da chi dưới.
+ Ngày thứ 8: lột da toàn thân.

2.4. Thai bị thối rữa: nếu ối bị vỡ lâu, thai nằm lại trong tử cung sẽ bị nhiễm khuẩn rất nhanh và
rất nặng. Nhiễm khuẩn lan toả rất nhanh gây nhiễm độc cho mẹ. Có thể gặp vi khuẩn kỵ khí gây hoại
thư sinh hơi ở trong tử cung. Thai có thể bịt lỗ trong của tử cung, hơi bị tích lại làm cho tử cung căng
lên, chứa hơi.
3. Triệu chứng
3.1. Thai dưới 20 tuần bị chết
Nhiều trường hợp thai chết lưu âm thầm, khơng có triệu chứng, làm cho chẩn đốn khó khăn.
- Bệnh nhân có các dấu hiệu có thai như: chậm kinh, nghén, bụng to dần, hCG trong nước tiểu
dương tính, siêu âm đã thấy thai và hoạt động tim thai.
- Ra máu âm đạo tự nhiên, ít một, khơng đau bụng, máu đỏ sẫm hay nâu đen. Đây là dấu hiệu phổ
biến của thai dưới 20 tuần bị chết lưu.
- Tử cung bé hơn tuổi thai:
+ Bệnh nhân thấy bụng bé đi hay không thấy bụng to lên mặc dù mất kinh đã lâu.


+ Khi khám thấy thể tích tử cung bé hơn so với tuổi thai, mật độ tử cung đôi khi chắc hơn so với tử
cung có thai sống.
- Xét nghiệm tìm HCG trong nước tiểu chỉ âm tính sau khi thai đã chết một thời gian. Khoảng thời
gian để cho hCG trở thành âm tính phụ thuộc chủ yếu vào ngưỡng phát hiện hCG của phản ứng (với
phản ứng Galli - Mainini cũng chỉ âm tính sau khi thai đã chết hàng tuần)
- Siêu âm là thăm dị có giá trị, cho chẩn đốn sớm và chính xác. Trên siêu âm có thể thấy âm vang
thai rõ ràng mà khơng thấy hoạt động của tim thai. Hoặc chỉ nhìn thấy túi ối mà khơng thấy âm vang

thai - cịn gọi là hình ảnh túi ối rỗng. Hình ảnh túi ối rỗng càng chắc chắn là thai lưu nếu kích thước
lớn (đường kính trên 35 mm), bờ túi ối méo mó, không đều. Trong những trường hợp nghi ngờ, chúng
ta nên kiểm tra lại bằng siêu âm sau 1 tuần xem tiến triển của túi ối để có kết luận chính xác.

3.2. Thai trên 20 tuần bị chết
Triệu chứng thường rõ ràng làm bệnh nhân phải đi khám ngay. Nhờ vậy cũng dễ dàng xác định
được thời gian tiềm tàng, là khoảng thời gian thai đã chết.
- Bệnh nhân có các dấu hiệu có thai, đặc biệt là đã thấy thai cử động. Người thầy thuốc đã sờ nắn
thấy phần thai, nghe thấy tim thai bằng ống nghe sản khoa, đã xác định được chiều cao tử cung.
- Bệnh nhân không thấy thai cử động nữa. Đây là dấu hiệu chính buộc bệnh nhân phải chú ý, phải
đi khám bệnh. Cũng nhờ đó mà chúng ta có thể dễ dàng xác định được thời gian thai chết (thời gian
tiềm tàng).
- Hai vú tiết sữa non tự nhiên làm cho bệnh nhân phải chú ý đến hiện tượng này.
- Ra máu âm đạo là dấu hiệu hiếm gặp đối với thai trên 20 tuần bị chết.
- Bệnh nhân cảm thấy bụng không to lên,thậm chí bé đi nếu thai chết đã lâu ngày.
- Nếu bệnh nhân có bị một số bệnh kèm theo như nhiễm độc thai nghén, bệnh tim... thì bệnh sẽ tự
thuyên giảm , bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn.
- Thăm khám thấy:
+ Tử cung bé hơn so với tuổi thai, đặc biệt có giá trị nếu thấy chiều cao tử cung giảm đi qua hai lần
đo ở hai thời điểm khác nhau, do cùng một người đo.
+ Khó sờ nắn thấy phần thai.
+ Không nghe thấy tiếng tim thai bằng ống nghe sản khoa.
- Siêu âm cho kết quả chính xác. Khơng quan sát thấy cử động của tim thai. Đầu méo mó, có thể
thấy dấu hiệu hai vòng ở xương sọ thai do da đầu bị bong ra. Nước ối có thể thấy ít, thậm chí khơng
cịn. Hiện nay đây là một thăm dò chủ yếu, cho chẩn đoán chắc chắn và rất sớm.
- Các phương pháp thăm dị X quang như chụp bụng khơng chuẩn bị, chụp buồng ối... ngày nay ít
cịn được xử dụng. Các phương pháp này có thể gây hại cho mẹ, nhất là cho thai nếu thai cịn sống.
Do đó người ta chỉ áp dụng các phương pháp này khi đã chẩn đoán là thai lưu, hay khi thai đã gần đủ
tháng.
Trên phim chụp bụng khơng chuẩn bị có thể thấy:



+ Xương sọ bị chồng lên nhau, dấu hiệu Spalding I, xuất hiện khi thai chết độ 10 ngày.
+ Cột sống thai bị gấp khúc, dấu hiệu Spalding II.
+ Vòng sáng quanh đầu thai, dấu hiệu Devel
+ Có thể thấy bóng hơi trong buồng tim hay mạch máu lớn, dấu hiệu Roberts.
- Định lượng fibrinogen trong máu để đánh giá ảnh hưởng của thai chết lưu lên q trình đơng
máu. Nếu thai chết vẫn cịn ở trong tử cung thì phải định lượng fibrinogen máu hàng tuần. Đây là xét
nghiệm quan trọng không thể thiếu được trước khi can thiệp cho thai ra.
4. Chẩn đoán phân biệt
Đối với thai trên 20 tuần chết lưu, chẩn đốn phân biệt ít đặt ra. Đối với thai dưới 20 tuần chết
lưu, có thể bị nhầm với:
- Chửa ngồi dạ con vì có ra máu đen ở âm đạo, tử cung bé hơn tuổi thai. Thai chết lưu khi sắp bị
sảy cũng gây đau bụng.
- Chửa chứng, đặc biệt là nhầm với chửa chứng thối triển. Nhiều khi khơng thể phân biệt được nếu
dựa trên lâm sàng và siêu âm. Chỉ khi nạo và xét nghiệm giải phẫu bệnh lý tổ chức nạo ra mới cho
chẩn đoán xác định được. Bệnh cảnh lâm sàng của thai chết lưu và chửa trứng thoái triển nhiều khi
giống hệt nhau.
- Tử cung có u xơ, khám thấy tử cung to hơn bình thường kèm theo ra máu âm đạo bất thường.
- Thai còn sống, đây là vấn đề hết sức lưu ý vì lúc nào cũng có thể bị nhầm, nhất là khi vội vàng
trong chẩn đoán. Tất cả các triệu chứng cơ năng hay thực thể, kể cả thăm dị siêu âm để chẩn đốn
thai chết lưu đều có thể bị sai, bị nhầm. Cách tốt nhất để tránh nhầm lẫn đáng tiếc này là chúng ta
khơng nên vội vàng hấp tấp trong chẩn đốn, trong xử trí. Nhiều khi phải thăm khám, thăm dị nhiều
lần, bằng nhiều người để có chẩn đốn chính xác.
5. Tiến triển
5.1. Ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm người mẹ
Thai chết lưu trong tử cung bao giờ cũng gây ra các hậu quả tâm lý, tình cảm cho người mẹ vì:
+ Mất đi một đứa con đang được mong đợi. Hậu quả tâm lý này càng nặng nề ở những người hiếm
con hay vô sinh.
+ Tâm lý lo sợ khi mang cái thai đã bị chết.

Thầy thuốc cần giải thích cặn kẽ, làm an lịng, thơng cảm với người mẹ. Tất cả các vấn đề này cần
được làm cẩn thận trước khi can thiệp lấy thai ra.
5.2. Rối loạn đông máu
Rối loạn đông máu xảy ra là một biến chứng nặng của thai chết lưu. Thromboplastin có nhiều
trong nước ối, trong bánh rau và màng rụng đi vào tuần hoàn người mẹ, hoạt hố q trình đơng máu,
gây ra đơng máu rải rác trong lòng mạch và tiêu sợi huyết. Một yếu tố nữa can thiệp vào quá trình rối
loạn đơng máu là các yếu tố hoạt hóa hệ thống tiêu sơị huyết có rất nhiều trong tổ chức thai chết. Hiện
tượng thromboplastin tràn ngập vào tuần hoàn người mẹ (Jimenez và Pritchard, 1968; Lerner và Cs
1967) đặc biệt hay gặp khi tử cung có cơn co, khi có can thiệp vào buồng tử cung. Đông máu rải rác


trong lịng mạch này có đặc điểm là q trình tiêu sinh sợi huyết thứ phát chiếm ưu thế, dẫn đến biểu
hiện lâm sàng là chảy máu, fibrinogen trong máu tụt thấp hay khơng có. Nguy cơ bị rối loạn đông
máu khi fibrinogen trong máu tụt xuống dưới 1 g/l, thường xuất hiện sau khi thai chết khoảng 9 tuần.
Nồng độ sản phẩm phân huỷ fibrin (FDP) trong máu tăng dần lên. Số lượng tiểu cầu có xu hướng
giảm xuống, nhưng không phải lức nào cũng gặp hiện tượng này. Q trình đơng máu rải rác trong
lịng mạch có thể diễn ra từ từ. Người ta thấy rằng nếu thời gian tiềm tàng trên 4 tuần và thai càng lớn
thì nguy cơ rối loạn đông máu càng cao. Pritchard qua nghiên cứu hồi cứu đã thấy rằng rất ít khi xảy
ra rối loạn đơng máu trong vịng 1 tháng sau khi thai bị chết. Bên cạnh đó, q trình đơng máu rải rác
trong lịng mạch có thể diễn ra cấp tính khi các chất gây rối loạn đơng máu có điều kiện ồ ạt tràn vào
tuần hồn người mẹ. Đó là khi can thiệp vào buồng tử cung hay khi tử cung có cơn co. Biểu hiện lâm
sàng là chảy máu từ tử cung, máu không đông. Chảy máu xuất hiện sau khi can thiệp vài giờ. Định
lượng fibrinogen trong máu rất thấp hay khơng có, các sản phẩm phân huỷ của fibrin (FDP) tăng cao,
giảm plasminogen, giảm hoạt tính yếu tố anti-thrombin III, đơi khi có giảm tiểu cầu.
5.3. Nhiễm khuẩn khi ối vỡ lâu
Không sợ nhiễm khuẩn khi còn màng ối. Nhưng khi đã vỡ ối, nhiễm khuẩn sẽ rất nhanh và nặng.
Ngoài các vi khuẩn hay gặp như: tụ cầu, trực khuẩn, proteus..., cịn có thể gặp vi khuẩn yếm khí như
Clostridium perfringens. Nhiễm khuẩn nặng, lan rộng có thể làm cho người mẹ bị chống nội độc tố,
đặc biệt là do vi trùng Gram âm.
5.4. Một số đặc điểm chuyển dạ của thai chết lưu

- Đầu ối hình quả lê, lịi qua cổ tử cung, thõng vào trong âm đạo là do màng ối khơng cịn khả năng
giãn. Đầu ối quả lê khơng giúp ích cho cổ tử cung mở, làm dễ chẩn đoán nhầm độ mở cổ tử cung khi
khám.Tuy nhiên không bao giờ được bấm ối khi cổ tử cung chưa mở hết.
- Nước ối màu đỏ hồng, đôi khi lẫn rất nhiều phân xu nếu thai bị chết lưu vì suy thai mạn tính.
- Dù là ngơi gì thai cũng có thể đẻ đường dưới được. Nếu thai ở tư thế ngang, cột sống sẽ bị gấp lại
cho phép thai lọt và sổ được. Một khi cần giúp đỡ cho thai ra thì áp dụng các thủ thuật huỷ thai như
chọc óc, kẹp sọ, cắt thai...
- Sau khi sổ rau phải tiến hành kiểm sốt tử cung một cách chủ động, có hệ thống vì bao giờ cũng
bị sót rau.
- Chú ý cho bệnh nhân xử dụng kháng sinh để tránh nhiễm khuẩn.

6. Điều trị
6.1. Điều chỉnh lại tình trạng rối loạn đơng máu nếu có.
Nếu fibrinogen bị giảm thấp, chúng ta cần điều chỉnh lại trước khi can thiệp lấy thai ra. Các thuốc
có thể xử dụng được:
- Fibrinogen truyền tĩnh mạch.
- Máu tươi toàn phần.
- Các thuốc chống tiêu sinh sợi huyết như EAC, Transamine...


Các tác giả Mỹ đã xử dụng heparin để điều trị với liều từ 5000 đến 10000 đơn vị mỗi ngày. Chúng
ta chưa áp dụng heparin để điều trị. Vấn đề này cần được nghiên cứu thêm để có thể áp dụng được mà
không gây ra tai biến.
6.2. Nong cổ tử cung, nạo thai lưu
Nong cổ tử cung, nạo được áp dụng cho các trường hợp thai lưu mà thể tích tử cung bé hơn tử
cung có thai 3 tháng, hay chiều cao tử cung dưới 8 cm. Thủ thuật nạo khó khăn hơn so với nạo thai
sống vì xương thai to, rắn, vì rau xơ hố bám chặt vào tử cung. Phải giảm đau cho bệnh nhân trước
khi nạo, dùng thuốc co tử cung và kháng sinh sau thủ thuật. Cần chú ý theo dõi chảy máu sau nạo.
Chảy máu thường xuất hiện sau thủ thuật vài giờ. Điều trị nội khoa chảy máu (fibrinogen, máu, thuốc
chống tiêu sinh sợi huyết...) có kết quả trong hầu hết các trường hợp, bảo tồn được tử cung.

Trước khi điều trị nội khoa cần bảo đảm chắc chắn là khơng có sót rau, khơng có rách ở cổ tử
cung, tử cung. Khơng thấy hiện tượng chảy máu tái phát sau khi điều trị nội khoa.
6.3. Gây sảy thai, gây chuyển dạ
Gây sảy thai, gây chuyển dạ được áp dụng cho tất cả các trường hợp thai chết lưu to hơn, không
thể nong nạo được. Có nhiều phương pháp để cho thai ra.
6.3.1. Phương pháp đặt túi nước khơng nên áp dụng vì có nguy cơ gây nhiễm khuẩn và làm vỡ ối.
6.3.2. Phương pháp Stein:
Stein cổ điển bao gồm cho bệnh nhân tắm nước ấm, thụt tháo, dùng estrogen và quinin trước khi
cho truyền oxytocin. Hiện nay phương pháp Stein đã được cải tiến, đơn giản hoá đi nhiều. Thường
người ta hay tiến hành như sau:
+ Dùng estrogen, cụ thể là Benzogynestryl 10mg/ngày, trong 3 ngày liền.
+ Đến ngày thứ tư truyền oxytocin tĩnh mạch gây cơn co tử cung. Liều oxytocin truyền mỗi ngày
tối đa là 30 đơn vị, truyền từng đợt trong 3 ngày liền. Các đợt cách nhau 7 ngày. Thông thường là thai
bị tống ra trong 1 đến 2 ngày truyền đầu tiên.
6.3.3. Truyền oxytocin tĩnh mạch đơn thuần.
Bệnh nhân được truyền oxytocin tĩnh mạch ngay mà không có chuẩn bị bằng estrogen trước. Cũng
với cách thức truyền oxytocin như trong phương pháp Stein. Kết quả thành công của phương pháp
này cũng như kết quả của phương pháp Stein. Ưu điểm của phương pháp này là không phải dùng
estrogen, rút ngắn được thời gian nằm viện. Kết quả truyền oxytocin càng cao nếu chỉ số Bishop
thuận lợi (≥ 6), con rạ, tuổi thai lớn. Phương pháp có hiệu quả, chắc chắn, tránh được tác dụng không
mong muốn của các thuốc thuộc nhóm prostaglandin.
6.3.4. Dùng prostaglandin là phương pháp được ưa chuộng hiện nay. Người ta thích dùng các
prostaglandin thuộc nhóm E2 như: Cytotec (misoprostol), Prostine, Nalador, Cervagème hơn là các
thuốc thuộc nhóm F2α. Đường dùng thuốc có thể là đặt âm đạo, tiêm bắp, truyền tĩnh mạch. Phải giữ
màng ối đến khi cổ tử cung mở hết. Đơn giản và kinh tế là dùng Cytotec đặt âm đạo, 100 µg mỗi lần
và cứ 12 giờ đặt một lần. Thời gian trung bình để thai ra là 12,6 giờ, chỉ có 8% số trường hợp thai ra


sau 24 giờ (nhưng trước 48 giờ)(nghiên cứu áp dụng cho những trường hợp thai chết lưu có tuổi thai
từ 18 đến 40 tuần). Tác dụng không mong muốn của thuốc là không đáng kể.

Với tất cả các phương pháp này, tỷ lệ thành công càng cao nếu tử cung càng to, tuổi thai càng lớn,
xung quanh ngày dự kiến đẻ. Đứng trước các trường hợp khó khăn, người thầy thuốc không được vội
vàng, hấp tấp cho thai ra. Ép buộc cho thai ra bằng mọi giá sẽ làm cho người thầy thuốc có nguy cơ
gặp phải những khó khăn, biến chứng nặng nề, nguy hiểm. Chúng ta không nên quên rằng có những
trường hợp thai chết lưu xuất hiện chuyển dạ tự nhiên, cuộc đẻ thường kết thúc mà khơng có nhiều
khó khăn. Vì thế nếu khơng có nguy cơ rối loạn đông máu, thái độ chờ đợi hy vọng có chuyển dạ tự
nhiên cũng là một cách điều trị có thể chấp nhận được. Trong những trường hợp gặp khó khăn khi gây
chuyển dạ, chúng ta có thể chờ đợi một vài tuần, hy vọng có chuyển dạ tự nhiên xuất hiện với điều
kiện các xét nghiệm về đơng máu bình thường.
Dự phịng thai chết lưu là một vấn đề rất phức tạp. Rất nhiều trường hợp không tìm được
nguyên nhân, làm cho bệnh nhân và thầy thuốc lúng túng trong những lần có thai tiếp theo. Thai chết
lưu phải được xem như là một nguy cơ cho lần có thai tiếp theo. Cần thận trọng trong chẩn đốn và
tránh vội vàng trong xử trí cho thai ra.
Phương pháp giảng dạy: thuyết trình, tích cực
Phương pháp đánh giá: bộ câu hỏi lượng giá
Tài liệu học tập:
-

Bài giảng sản phụ khoa, tập I, bộ môn Phụ Sản Trường Đại học Y Hà Nội

-

Giáo trình phát tay



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×