Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Han Yong-Un và Hàn Mặc Tử 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.76 KB, 6 trang )

Han Yong-Un và Hàn Mặc Tử: "Thơ ca của niềm im lặng"
2
Nhưng im lặng cũng như chân không trong văn chương không phải là sự bất động,
cái chết hay sự trống rỗng.
Đây là một niềm im lặng mà Han Yong-Un gợi nên:
Lá ngô đồng bay lặng lờ qua không gian lặng gió – đó là dấu chân ai?
Tương tự thế, đây là câu thơ của Tử:
Ai đi lẳng lặng trên làn nước…
Khơng nói khơng rằng nín cả hơi!
Niềm im lặng mà cả hai tạo nên là cả một thế giới huyền bí.
“Dấu chân ai” của Long Vân và “ai đi” của Tử vừa có vừa khơng, vừa hư vừa thực.
Ai ở đây không chỉ là sáng tạo của nhà thơ mà còn là phải nhận được hồi đáp sáng
tạo của người đọc.
Nói theo Jeon Bo Sam, viện trưởng viện nghiên cứu tư tưởng Han Yong-Un, thì:
“Niềm im lặng ở đây khơng đơn giản là thiếu vắng tiếng động, mà đó là một tiếng
kêu mới, vang ngân đến tận đôi tai của chúng ta”(3).


Tiếng kêu mới (un nouveau cri)! Phải rồi, đó là tân thanh của Nguyễn Du. Tiếng
kêu mới của mọi nhà thơ xứng danh thi sĩ. Nhà thơ, đó là người biết tạo nên khúc
tân thanh từ những niềm im lặng của con người.
Niềm im lặng ở đây là một nghịch lý. Niềm im lặng là cái ẩn giấu trong ngôn ngữ,
là cái khơng nói ra. Và khi ta cảm nhận được niềm im lặng ấy rồi thì ta cũng sẽ tìm
thấy một thứ ngơn ngữ ẩn giấu trong đó. Cái ẩn giấu là cái vơ hình. Ngơn ngữ dừng
lại trong im lặng để cái vơ hình ấy lan dần. Từ đó mà niềm im lặng cất lên tiếng hát.
Thơ ca như vậy biến nhà thơ và người đọc trở thành kẻ chiêm nghiệm và trầm mặc.
Chúng ta có thể tìm kiếm niềm im lặng ấy qua những ngấn tích sau đây trong thơ
Han Yong-Un là Hàn Mặc Tử:
- Niềm im lặng của Nim và Ai
Thơ Han Yong-un là cuộc trò chuyện bất tận với Nim. Đó là Nim bên trong tâm
hồn ơng. Nên cuộc trị chuyện ấy biến thành cuộc độc thoại nội tâm.


Hàn Mặc Tử cũng thường trò chuyện với một đối tượng trữ tình là Ai. Ai đó là
người yêu dấu, là một hồn linh huyền bí mà cũng có thể là một cái tơi khác của nhà
thơ.
- Niềm im lặng của Trăng và Thơ


Đây là niềm im lặng của thiên nhiên và cái đẹp. Hình ảnh thiên nhiên vừa phù du
vừa vĩnh cửu, vừa bình n vừa biến ảo ln ln được biểu hiện trong ngôn ngữ
của hai nhà thơ. Và bản thân thơ ca, người thơ, bản thân cái đẹp cũng trở thành tiêu
điểm trong cuộc hành trình của họ.
- Tình yêu của niềm im lặng
Niềm im lặng sâu thẳm nhất là cái chết. Đối với hai nhà thơ tâm linh này, cái chết
không đối lập với đời sống. Hơn nữa, trong cái chết và im lặng có đời sống và tình
u.
1. NIỀM IM LẶNG CỦA NIM VÀ AI
Tập thơ Niềm im lặng của Nim xuất hiện vào những năm 20 thế kỷ trước đáp ứng
đòi hỏi của một thực tại đang cần một tiếng thơ mới ở Hàn Quốc. Tuy phong trào
Thơ Mới đã được thiết lập từ năm 1908 với bài Từ biển cả đến trẻ thơ của Choe
Namson, nhưng cả Choe cũng như các thi sĩ Chu Yohan, Kim Ok và Kim Sowol, dù
sáng tạo nhiều bài thơ được mọi người u thích, cái trữ tình của họ vẫn thiếu chiều
sâu tư tưởng, thiếu một triết lý giúp nó kết nối mộng và thực.
Với Niềm im lặng của Nim, Han Yong-Un đã giải thốt cho dịng thơ đương đại
đang có nguy cơ tắc nghẽn bằng một thứ thơ tự do mới lạ, vừa trữ tình vừa tâm linh,


vừa thực tại vừa huyền bí, mà chẳng cần mơ phỏng các trào lưu văn học phương
Tây. Tất nhiên, không phải tác phẩm của họ không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài.
Bản dịch Gitanjali (Thơ Dâng) của R. Tagore phổ biến ở Hàn Quốc vào năm 1923
cũng như nhiều tập thơ khác của thi hào Ấn Độ đã gây cảm hứng nồng nhiệt; đó là
thơ soi chiếu thực tại huyền bí bằng giọng điệu của tình u. Trong Niềm im lặng

của Nim có thể nghe thấy dư vang của Gitanjali và Người giữ vườn.
Ở Ấn Độ, Tagore là một thánh sư (Gurudeva), còn ở Hàn Quốc, Han Yong-Un là
một cao tăng, một thiền sư. Tập thơ Niềm im lặng của Nim với chín mươi bài thơ
được soạn ra như để làm mới lại khái niệm Nim, một đại từ có ý nghĩa rất đặc biệt
và biến hóa trong tiếng Hàn. Trong thơ tình, Nim là người yêu, bạn tình. Trong thơ
đạo lý, Nim là minh chủ, là nhà vua. Trong thơ tơn giáo, Nim là Phật, Chúa, Vĩnh
cửu.
Có thể nói NIM vừa là chủ thể vừa là đối tượng trong tình u, là chính bản thân
tình u. Do đó, đất nước, cuộc đời, cái linh thiêng… đều có thể gọi là Nim. Tùy
trường hợp, có thể dịch Nim sang tiếng Việt là ngài, người, ai, anh, em…
Với Hàn, “đó là một điều ta ước vọng”.
Vậy thì Nim là du khách, ta là con thuyền:


Ta là con thuyền
Em là du khách
Em bước lên ta bàn chân bùn lấm
Ta ôm em mà thầm lặng băng sông
Khi ta ôm em, dù sâu hay cạn
Dù nước kia chảy xiết thế nào
Ta vẫn khơng ngừng vượt sóng…
(Bài 14)
Đó là một người khách huyền bí. Gần cũng như xa. Có mặt cũng như vắng mặt.
Người khách của niềm im lặng. Ta là kẻ đưa đón, kẻ chờ đợi. Ta sẽ già. Cịn người
khách thì vĩnh cửu.
Người đọc có quyền nhìn thấy người khách như mình muốn, như bạn tình, như lịch
sử, như lý tưởng, như thần linh… Và có thể đọc bài thơ như một độc thoại nội tâm.
Vậy thì, Nim là của ta nhưng Nim cũng thuộc về mọi người. Trong bài Ngộ nhận,
Nim lại là một vầng trăng non đang lượn lờ trên cành cây cao. Và khi ta năn nỉ Nim
hãy xuống đi cho thì nàng nói:



Nào phải em không muốn xuống đâu,
Nhưng em là Nim của mọi người, anh ạ
Phải đâu muốn từ chối lời anh mời gọi ngát thơm hơi…
(Bài 26)



×