Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Top 3 bài cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Bác trong bài thơ Chiều tối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.4 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý cảm nhận tâm hồn của Hồ Chí Minh qua bài thơ Chiều tối</b>
<b>a) Mở bài:</b>


- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:


+ Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và nhà cách mạng vĩ đại, nhà hoạt động lỗi lạc của phong
trào quốc tế, ngoài ra còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc.


+ Bài thơ Chiều tối là tác phẩm vô cùng tuyệt mỹ, cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống, ý chí vượt lên trên hồn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh.


- Dẫn dắt vấn đề: Vẻ đẹp tâm hồn Bác trong bài Chiều tối.


Ví dụ: Ai cũng mong muốn mình có một mái ấm gia đình, đó khơng có gì là xa lạ, khó hiểu
nhưng với Bác Hồ khiến tơi khá bất ngờ, suốt đời vì nước, vì dân, khơng một chút riêng tư,
bài thơ "Chiều tối" có lẽ đã hé mở cho chúng ta nhìn thấy một thống ước mơ thầm kín về
một mái ấm gia đình, một chỗ dừng chân trên con đường dài xa vạn dặm.


<b>b) Thân bài</b>


* Luận điểm 1: Tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên say đắm
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ


Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng"


- Khơng gian rộng lớn cao xa, thống đãng nhưng gợn buồn ở sự trống vắng, lẻ loi.


- Đây là những chi tiết quen thuộc trong thơ ca tạo ra cho bài thơ mang một màu sắc cổ điển
- Bức tranh cảnh vật mang nét đặc trưng của thơ cổ ước lệ, tượng trưng nhưng vẫn rất gần gũi
hoà hợp với nhân vật trữ tình:



+ Cánh chim mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn hay chính là sự mỏi mệt của người tù sau một
ngày đầy ải


+ Chòm mây lẻ loi hay chính là nỗi cơ đơn của người tù nơi đất khách quê người


=> Cảnh vật được bao phủ bởi tâm trạng của nhân vật trữ tình, người tù như tìm thấy sự đồng
cảm, sẻ chia từ thiên nhiên.


* Luận điểm 2: Tình yêu thương con người sâu sắc
"Cơ em xóm núi xay ngơ tối


Xay hết, lị than đã rực hồng"


- Hình tượng thơ đã có sự chuyển động của thiên nhiên chuyển sang cuộc sống con người,
tâm trạng nhà thơ đang buồn cũng trở nên vui tươi, dường như nhà thơ đã quên hẳn nỗi buồn
của riêng mình để hồ nhập vào niềm vui của mọi người.


- Hình ảnh cơ gái khơng phải thống qua để trang điểm cho bức tranh mà là trọng tâm của
bức tranh, cũng không phải cô gái khuê các, lãng mạn mà là người lao động, cái đẹp trong
cuộc sống đã đi vào trong thơ một cách tự nhiên tạo nên một vẻ đẹp khoẻ khoắn, sinh động.
- Bếp lửa rực hồng gợi nên một gia đình ấm áp, sum họp, nó là vẻ đẹp của cuộc sống, đồng
thời cũng là niềm khao khát mái ấm gia đình.


- Chuyển động thời gian bằng bút pháp liên tưởng rất đặc trưng của thơ Đường: dùng cái
sáng để tả cái tối. Chỉ khi bóng tối đã bao trùm thì bếp lửa mới rực hồng.


- Bản dịch thêm vào chữ "tối" không sai nhưng làm mất đi cái ý vị của thơ Đường.
* Luận điểm 3: Tinh thần sống lạc quan, ý chí kiên cường, sắt đá


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ Hình ảnh cánh chim bay về tổ, gợi chút gì đó ấm áp của sự đồn tụ.



+ Chịm mây cơ đơn nhưng lại “mạn mạn độ thiên khơng” -> gợi một tâm hồn khống đạt,
phong thái ung dung, tự tại, làm chủ mình trong mọi hồn cảnh.


+ Hình ảnh chiếc cối xay ngơ của cơ gái vùng sơn cước cũng vận động


-> Thời gian trôi dần theo cánh chim và chòm mây theo những vòng xoay của cối xay ngô,
quay mãi, và đến khi “bao túc ma hồn” thì “lơ dĩ hồng”.


+ Bình luận về chữ “hồng” - nhãn tự của bài thơ, nó nằm ở cuối bài nhưng lại gánh được 24
chữ kia, và mang lại thần sắc cho bài thơ.


=> Tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản luôn lạc quan tin tưởng và hướng về ánh sáng, về
những điều tốt đẹp.


* Đặc sắc nghệ thuật


- Hình ảnh thơ đậm chất cổ điển


- Ngôn ngữ hàm súc, chân thực, giàu sức gợi


- Bút pháp chấm phá cổ điển, hiện đại kết hợp hài hòa.
<b>c) Kết bài:</b>


- Nêu cảm nhận về tâm hồn của Bác


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3></div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>3. Vẻ đẹp của Hồ Chí Minh trong bài thơ Chiều tối</b>


Nhắc đến thơ Hồ Chí Minh có lẽ ta sẽ nghĩ ngay đến những vần thơ đầy trăng của Bác nhưng
đọc “<i>Chiều tối</i>” mới thấy, Bác không chỉ viết hay về những buổi đêm ngập tràn ánh trăng mà,


dưới tư cách là một nhà thơ, Bác còn mang một phong cách “thơ chiều” vô cùng riêng biệt.
“<i>Chiều tối</i>” là bài thơ thứ 31 trong tập “<i>Nhật kí trong tù</i>”, bài thơ ghi lại cảm xúc thiên nhiên
và cuộc sống lúc ngày tàn của Hồ Chí Minh trên đường chuyển lao vào khoảng cuối thu năm
1942, hình ảnh người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xiềng xích” đã để cảm xúc trải
ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác vừa cổ kính, vừa trữ tình. Qua bài
thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp của Hồ Chí Minh với một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống, con người cùng với ý chí kiên cường và tinh thần thép của người Cộng sản.


Mỗi bài thơ trong “<i>Nhật kí trong tù</i>” lại là một nét phác họa vẻ đẹp con người và tinh thần
của Hồ Chí Minh: vẻ đẹp của trái tim, khối óc, vẻ đẹp của tinh thần, ý chí, nghị lực, của lịng
khiêm tốn, đức hi sinh cao cả… Được viết vào một hoàn cảnh đặc biệt: Bác bị chính quyền
Tưởng Giới Thạch bắt giam vơ cớ, bài thơ là sự tỏa sáng của tâm hồn, nghị lực và trí tuệ của
Hồ Chí Minh trong hồn cảnh ngục tù.


“<i>Chiều tối</i>”, đúng như tiêu đề của nó, là một bức tranh thiên nhiên về cảnh chiều muộn ở nơi
rừng núi được người tù Hồ Chí Minh ghi lại trên hành trình chuyển lao. Vì lẽ đó, vẻ đẹp tâm
hồn Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ trước hết là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ với
những rung cảm tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống của con người:


<i>“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,</i>
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng;”</i>


Bác nâng niu, trân trọng biểu hiện của sự sống, tinh hoa của thiên nhiên, bởi vậy, ta luôn cảm
nhận được những hình ảnh thiên nhiên lúc nào cũng chiếm vị trí nổi bật trong thơ Bác. Thiên
nhiên mở ra trước mắt người đọc với những hình ảnh quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh
chim – chòm mây – bầu trời cùng với chút ánh sáng cuối cùng cịn sót lại của một ngày tàn
chỉ có thể nhìn thấy nơi đỉnh trời đem lại cảm nhân về một không gian giống như các nhà thơ
xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn. Dường như không
gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một mỗi buồn trong cảnh, và ngay
trong cách nhìn cảnh ta cảm thấy tâm hồn Hồ Chí Minh đã thực sự hài hịa với thiên nhiên.


Một cách rất tự nhiên, con mắt nhà thơ phải ngước lên cao để nhận ra một cánh chim mỏi mệt
đi tìm chốn ngủ và một chịm mây cơ đơn lặng lẽ trơi, nhìn cảnh như thế, dường như Bác đã
xóa nhịa đi cái ranh giới giữa người tù và du khách tự do, để tâm hồn mình gắn liền với thiên
nhiên, dễ dàng hịa nhập, quyến luyến. Có ai ngờ, ngay cả trong hoàn cảnh bị áp giải mà thiên
nhiên lại vẫn hiện lên trong thơ Bác một cách tuyệt đẹp như thế.


Không chỉ thiên nhiên mà cho dù là hồn cảnh nào Bác cũng khơng qn nghĩ đến con người:


<i>“Cơ em xóm núi xay ngơ tối,</i>
<i>Xay hết, lị than đã rực hồng.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cuộc sống đời thường giản dị, thân thuộc. Ánh sáng và niềm vui của sự sống con người hiện
lên ở trung tâm của bức tranh đã tỏa hơi ấm ra xung quanh, xua tan đi cái cô quạnh, cái mệt
mỏi, cái lụn tắt của cảnh chiều tối nơi núi rừng, khiến người tù cũng thốt khỏi xiềng xích mà
quyện mình với cuộc sống hạnh phúc của con người nơi xóm núi nhỏ.


Bên cạnh tình yêu, niềm say mê đối với thiên nhiên, con người, ở bài thơ, ta cịn thấy nổi bật
lên ý chí kiên cường, tinh thần sắt đá của Hồ Chí Minh.Ta bắt gặp một thống buồn bã, cơ
đơn, ảm đạm “rất người” của Bác khi nhìn vào hình ảnh “quyện điểu” và “cô vân” , thế
nhưng, trước ngọn lửa hồng, Bác quên đi việc mình vẫn đang phải bước đi trên con đường
đầy ải mà để lịng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trang thơ xua tan cái lạnh
lẽo của lòng người và cảnh vật. Với lộ trình “năm mươi ba cây số một ngày”, nơi dừng chân
có thể là một nhà lao mới hay một nhà kho ẩm ướt, nhưng thật kì diệu là trong hoàn cảnh như
vậy, Người vẫn làm thơ, vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng lên với một cánh chim, một
chịm mây, một làn hương rừng, một cảnh “làng xóm ven sơng đơng đúc thế”… Thử hỏi, nếu
khơng có một tinh thần thép, một bản lĩnh thép, thơ của người làm sao có thể “bay cánh hạc
ung dung” như vậy. Đó thực sự là một cuộc vượt ngục tinh thần của Bác, Người đã hoàn toàn
chủ động trước mọi hoàn cảnh, đó chính là vẻ đẹp của ý chí, nghị lực, là tinh thần thép của
người Cộng sản Hồ Chí Minh.



Đan xen giữa những câu thơ như một mạch cảm xúc ngầm chính là khát vọng thầm kín và
đầy tính nhân văn của Bác. Người tù Cách mạng dù kiên cường, dũng cảm đến đâu cũng luôn
mơ ước, khát khao về một tổ ấm, quây quần bên bếp lửa gia đình. Hình ảnh cánh chim về
rừng như đang tìm về tổ ấm của mình, cơ thơn nữ xay ngơ bên lò than rực hồng, tất cả làm
hiện lên khung cảnh bình dị mà ấm cúng nơi quê hương, nơi mái nhà sum vầy, đồn tụ. Nghĩ
về những hình ảnh đời thường, n bình ấy, ta có thể thấy được chất “người” vô cùng nhân
bản trong Bác.


Câu thơ kết thúc bằng ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm giác phấn chấn, lạc
quan. Có thể nói, chữ “hồng” ở cuối bài thơ đã tạo ra một luồng sáng chói rọi ngược trở lại
làm sáng rực bài thơ, làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, sự vội vã, nặng nề, cực nhọc nhất của
cuộc đời. Những hình ảnh đối lập giữa niềm vui và nỗi cô đơn, buồn bã, giữa chiều tối và
bình minh, mặt trời hồng đã thể hiện một phong cách thơ Hồ Chí Minh đầy tinh tế và nhạy
cảm, một sự kết hợp rất tự nhiên giữa màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại.


<i>Chiều tối</i> giống như bao bài thơ khác, thật nhỏ nhắn trong bố cục nhưng từng câu từng chữ
đều như một nét phác họa bức chân dung con người, tinh thần Hồ Chí Minh: một tâm hồn
nghệ sĩ dạt dào tình yêu với thiên nhiên, con người; một ý chí sắt đá vượt lên mọi hoàn cảnh,
một tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Bức chân dung ấy là sự hịa hợp
giữa chất thép và chất tình, thi sĩ và chiến sĩ, như trong bài “<i>Đọc thơ Bác</i>”, nhà thơ Hồng
Trung Thơng đã viết: “Vần thơ của Bác, vần thơ thép/ Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.
<b>4. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác trong bài Chiều tối </b>


Xưa nay viết về chiều muộn vốn là nguồn cảm hứng khơng vơi cạn của văn chương nghệ
thuật. Khó có thể kể hết những bức tranh chiều, những bản nhạc chiều, những áng thơ chiều
mà các nghệ sĩ, tao nhân đã để lại cho đời sống con người. Về mặt này, Hồ Chí Minh trong tư
cách một nhà thơ cũng khơng phải là ngoại lệ.


Có thể thấy ngay từ tập thơ <i>Nhật kí trong tù</i>, trái tim của thi nhân ấy đã không chỉ một lần
rung động trước vẻ gợi cảm của buổi chiều hôm để viết ra những vần thơ mà còn được nhiều


người nhớ mãi như “<i>Vãn chiều hơm”, “Hồng hơn</i>”,... Song trước tất cả và quen thuộc hơn
tất cả những bài thơ chúng ta vừa kể đến vẫn phải là bài thơ mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới
đây: “<i>Mộ</i>” (<i>Chiều tối</i>).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Cơ vân mạn mạn độ thiên không </i>
<i>Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc </i>


<i>Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng </i>
<i>(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ </i>
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa từng khơng </i>


<i>Cơ em xóm núi xay ngơ tối </i>
<i>Xay hết lò than đã rực hồng.)</i>


“Chiều tối“ là một bài thơ viết về những vẻ đẹp của buổi chiều hôm, nhưng điều lý thú là
trong hai câu thơ đầu tiên cũng như cả bài thơ lại không dùng đến một chữ “chiều“ nào. Vậy
mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm. Nhà thơ chỉ vờn
vẽ lên một vài nét tiêu sơ, gợi nên hình ảnh cánh chim chiều về tổ hay một chịm mây, áng
mây chầm chậm trơi ngang qua bầu trời. Ít nét thế thơi song lại là những nét rất tiêu biểu cho
những thời khắc cuối cùng của ban ngày, trước khi bóng tối bng màn xuống vạn vật.
Từ những câu thơ cuối cùng lan toả ra một cảm giác nhẹ nhàng, man mác bâng khuâng của
buổi chiều hôm khi mà mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Đó có thể là một buổi chiều
thực mà Bác đã gặp và ghi lại trong một cuộc chuyển giao từ nhà lao này sang nhà lao khác.
Nhưng cũng khơng thể khơng thấy rằng buổi chiều ấy cịn mang một vẻ đẹp đã trở nên vĩnh
hằng của những buổi chiều mà hình sắc cịn đọng lại trong những câu thơ cổ mà ở đó vẫn đi
về khơng ít những “quyện điểu“ với “cơ vân”. "<i>Chim hơm thoi thót về rừng /Đóa trà mi đã</i>
<i>ngậm trăng nửa vành</i>" (Nguyễn Du), "<i>Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi</i>" (Bà Huyện Thanh
Quan) hay như: "<i>Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn</i>" (Lý Bạch).


Và như thế, những dòng thơ đầu tiên hình như đã làm cho bài thơ “<i>Chiều tối</i>“ của Bác đã


nhuốm một phong vị cổ điển. Cảm xúc bài thơ vì thế mà càng trở nên mênh mang hơn, khơng
chỉ trong khơng gian mà cịn cả ở thời gian. Những xúc cảm như thế đã được nhà thơ gửi gắm
vào hai câu thơ về chiều hơm đó.


<i>Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</i>
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa từng khơng</i>


Có nhiều người cho rằng những dịng thơ ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo và thấm thía của một
người tù trên con đường đày ải đang thấm một nỗi xót xa khi thấy những cánh chim chiều
cũng tìm ra chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên bầu trời bao la.


Trong khi đó, người tù vẫn bị xiềng xích, trói buộc chẳng bằng cánh chim nọ, áng mây kia vì
chiều đã sắp hết rồi mà mình vẫn khơng có nổi một chốn dừng chân. Mặt khác, cũng có một
cách hiểu dường như hồn tồn ngược lại. Theo đó, có thể thấy đây là hai dịng thơ của một
tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc để lưu luyến, dõi nhìn theo
một cánh chim, một áng mây chiều để cảm thấy tim mình xao xuyến một tình cảm rất người,
cho dù đang phải sống một cuộc sống “khác loài”. Nên chăng ta hãy hiểu theo một cách hiểu
được nhiều người ủng hộ nhất, cách hiểu thứ hai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nét cổ điển thấy rõ qua việc tác giả vẽ lên không gian buổi chiều với những thi liệu quen
thuộc: cánh chim, chịm mây, bầu trời... bên cạnh đó là thể thơ thất ngôn đường luật cùng
nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã giúp cho thi nhân phát triển ý đồ nghệ thuật của mình. Nét
hiện đại: tất cả được vẽ nên thơ qua tình cảm bao la của Bác. Ví dụ: cánh chim trong thơ cổ
thường xuất hiện và bay hút vào vũ trụ, là cánh chim phiêu dạt, vô định trước bầu trời... thì
trong thơ Bác cánh chim rất gần gũi với con người. Bác thấy được trong cánh chim chiều
muộn bay về tìm chốn dừng chân là cánh chim "mỏi". Phải yêu thiên nhiên, cảnh vật và có
mối đồng cảm bao la thì mới nhìn được cái dáng mỏi mệt của cánh chim kia...


Rõ ràng hai câu thơ trên đã viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng đến
hai câu thơ sau đã có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Thời gian không ngừng trôi, mặc dù nhà thơ


trong nguyên tác đã không cần dùng đến chữ “tối” (Chữ “tối“ trong bản dịch là do người dịch
tự thêm vào). Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới thấy được rõ ràng sự rực hồng
của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối“ mà nghĩa ấy vẫn
cứ hiện lên rõ mồn một. Và như thế, cặp mắt của thi nhân sẽ thôi khơng ngước nhìn mãi về
phía bầu trời mà hướng về mặt đất để nhận thấy ấn tượng về một xóm núi, về một cơ gái xay
ngơ, một chiếc lị than trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị.


Bức tranh của cảnh vật sẽ nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt con người. Hình ảnh trung tâm
của hai câu thơ cũng sẽ không phải là một cánh chim chiều về tổ, một áng mây trôi mà là một
con người lao động. Và ngơn từ của những dịng thơ cũng sẽ theo đó mà đổi thay. Hai câu thơ
này khơng thấm thía hương vị thơ cổ điển như hai câu trên mà mang nhiều chất “bạch thoại”,
mộc mạc, đời thường, thể hiện rõ nhất ở chữ “bao túc” xuất hiện đến hai lần. Hai câu thơ này
một lần nữa không chỉ là để ghi lại những gì nhà thơ đã thấy trong một buổi chiều. Bởi không
nên quên rằng “<i>Chiều tối</i>” vẫn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của câu thơ nằm ở những
tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ.


Nhiều người đã thấy ở đây nỗi xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ đối với con người lao
động. Nhà thơ dường như đã đồng cảm với sự nhọc nhằn của họ. Đồng cảm ở cách nhà thơ
nói việc xay ngô, ở cách dùng chữ “ma bao túc” để bật lên những vòng quay nặng nề, luẩn
quẩn và ở âm điệu của những câu thơ mà đọc lên có thể cảm thấy vất vả, khó khăn. Và như
thế, chúng ta có thể cảm nhận được tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao
động, cho dù đó là những con người không phải là đồng bào của Bác, khơng quen thân, thậm
chí chưa hề gặp mặt. Song cũng nhiều người muốn hiểu hai câu thơ sau này theo nghĩa khác,
một hướng tiếp nhận khác.


Phải chú ý đến những chữ “hồn“ (hết) và hình ảnh của chiếc lị than đã rực đỏ lên, để nhận
ra rằng nhà thơ muốn nói đến cảm giác về một sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình
dị trong một căn nhà ấm cúng. Bếp lửa đã cháy lên và cơng việc lao động cũng đã hồn tất.
Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vơ song của Bác, khả năng mà khó có
ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng qn đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng


cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người. Nhưng hai ý kiến ấy ngẫm ra
cũng khơng hồn tồn đối lập, bởi vì đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi
Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía trong những câu thơ: "Chỉ
biết qn mình cho hết thảy" hay: Nâng niu tất cả chỉ quên mình".


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Bị trói, bị tù đày, bị giải đi "Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày".
Nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người ln
hướng ngoại, lấy tình u của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn.
Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và khơng bao giờ than van. Đó chính là tinh
thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.


Dường như với Bác, đấy là cuộc sống của chính mình. Vậy nói như nhà thơ Tố Hữu, Bác có
thể nâng niu tất cả, vì Bác sống như trời đất, vì Bác có một trái tim có thể ơm trọn mọi non
sông, kiếp người: Bác sống như trời đất của ta.


“Chiều tối” là bài thơ hay trong tập <i>Nhật kí trong tù</i>. Một bài thơ kết hợp giữa hiện thực và
lãng mạn, vừa hồn nhiên, vừa thâm trầm sâu sắc. Chất trẻ trung hiện đại kết hợp hài hòa với
hương vị cổ điển đậm đà. Hồn thơ vượt lên trên sự khổ ải để cảm nhận dạt dào vẻ đẹp của
thiên nhiên và sức sống của những mảnh đời thường trong lao động. Qua đó, ta thấy trong thơ
của Bác từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật đều ln luôn ở tư thế vận động và nhất quán
hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai...


“Cái kết này tuy không sáng bừng lên màu hồng lạc quan cách mạng như ai đó hiểu, cũng
vẫn ấm áp tình người, làm cho nỗi lịng người đi vơi bớt nỗi cơ đơn, tịch mịch. Cùng với hình
ảnh ấy một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình thấp thống đâu đó. Nghệ thuật của bài thơ
là một nghệ thuật gián tiếp cổ điển, nói cảnh để nói tình. Hình ảnh trong thơ cũng là tâm
cảnh. Nếu chỉ phân tích nó như một bức tranh hiện thực giản đơn, chắc chắn ta sẽ rời xa thế
giới nội tâm phong phú của nhà thơ”.


<b>5. Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Bác trong bài thơ Chiều tối</b>



Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của tác giả Hồ Chí Minh, bài thơ “Chiều tối” đã thể hiện
được nổi bật và sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Đây là bài thơ số 31 trên tổng số 134 bài
của “Nhật kí trong tù”, là một trong năm bài thơ được Người sáng tác trên đường chuyển lao
từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Qua bài thơ, vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ đã
được khắc họa rõ nét qua cách cảm nhận về thiên nhiên, cũng như ý nghĩa của toàn bộ bài
thơ.


Hồ Chí Minh là một con người yêu đời, yêu thiên nhiên, nhạy cảm trước những biến thái tinh
vi của tạo vật:


<i>“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ</i>
<i>Cô vân mạn mạn độ thiên khơng”</i>


<i>(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</i>
<i>Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>“Sơn thơn thiếu nữ ma bao túc</i>
<i>Bao túc ma hồn lơ dĩ hồng”</i>


<i>(Cơ em xóm núi xay ngơ tối</i>
<i>Xay hết, lị than đã rực hồng)</i>


Bác Hồ thể hiện sự chia sẻ nỗi vất vả của cơ gái xay ngơ nơi xóm núi, vui với niềm vui lao
động của cô. Nếu như trong các bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của thơ Đường, có xuất hiện hình
ảnh những người phụ nữ, nhưng họ thường xuất hiện ở trong sự khuê các. Còn Hồ Chí Minh,
Người lại nêu ra hình ảnh người phụ nữ trong lao động một cách thật tự nhiên.


Bên cạnh đó, độc giả cịn thấy được vẻ đẹp của niềm lạc quan bất diệt xuyên suốt cả bài thơ.
Trong một bài thơ, từ hình tượng thơ ta có thể nhận ra tư tưởng của tác giả đều có sự vận


động nhất quán, hướng tới sự sống tương lai. Tâm trạng có sự vận động từ buồn đến vui, từ
cơ đơn, lẻ loi đến ấm áp. Hình ảnh cánh chim đượm buồn nhưng là cánh chim bay về tổ, gợi
một chút gì đó ấm áp của sự đồn tụ. Chịm mây cơ đơn gợi nỗi buồn lẻ loi, nhưng chịm mây
ấy lại “mạn mạn độ thiên không” gợi một tâm hồn khoáng đạt, một phong thái ung dung, tự
tại, làm chủ mình trong mọi hồn cảnh. Từ hình ảnh cánh chim và chịm mây vận động, chiếc
cối xay ngơ của cơ gái vùng sơn cước cũng vận động. Thời gian trôi dần theo cánh chim và
chòm mây theo những vòng xoay của cối xay ngô, quay mãi, và đến khi “bao túc ma hồn”
thì “lơ dĩ hồng”. Bình luận về chữ “hồng”, đây được coi là nhãn tự của bài thơ, nó nằm ở cuối
bài nhưng lại gánh được 24 chữ kia, và mang lại thần sắc cho bài thơ.


</div>

<!--links-->
Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh (chị) cảm nhận gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng này? - văn mẫu
  • 2
  • 4
  • 51
  • ×