Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

vẻ đẹp tâm hồn nguyễn trãi qua thơ nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.49 KB, 85 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
BÙI TẤN TÀI
MSSV: 6106427
VẺ ĐẸP TÂM HỒN NGUYỄN TRÃI QUA
THƠ NÔM
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: ThS. BÙI THỊ THÚY MINH
Cần Thơ, năm 2013
2
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. L
ịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương một
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH HỒN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
1.2. Bối cảnh văn học
1.3. Nguyễn Trãi - tác gia và tác phẩm
1.3.1. Tác gia Nguyễn Trãi
1.3.1.1. Cu
ộc đời Nguyễn Trãi
1.3.1.2. S


ự nghiệp văn chương
1.3.2. Khái quát chung về tác phẩm Quốc âm thi tập
1.4. Nguyễn Trãi trên đường phát triển nền văn học chữ Nôm
1.5. Hai dòng văn học chủ yếu trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
1.5.1.Ch
ủ nghĩa yêu nước
1.5.2. Chủ nghĩa nhân đạo
Chương hai
VỂ ĐẸP TÂM HỒN NGUYỄN TRÃI QUA THƠ NÔM
2.1. Tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước sâu nặng
2.2. Tình yêu nước thương dân, tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp
3
2.3. Một chí khí hào hùng, nhân cách cao thượng của người quân tử
2.4. Tâm hồn mang đậm dấu ấn con người cá nhân
Chương ba
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT H
ÌNH THÀNH HỒN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
3.1. Nghệ thuật sử dụng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
3.2. Sự mở rộng và sáng tạo các tiểu loại đề tài, chủ đề
3.3. Ngôn từ thơ Nôm Nguyễn Trãi
3.3.1. Ngôn t
ừ bác học
3.3.2. Ngôn từ mang đậm chất bình dân
PHẦN KẾT LUẬN
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
(Quân minh th
ần lương - Lê Thánh Tông)

Vâng, câu thơ của Lê Thánh Tông - vị vua anh minh nhất thời thịnh Lê ngày
nào, như một lời đúc kết rất sâu sắc về tâm hồn của Nguyễn Trãi qua thơ văn của ông.
Lấp lánh như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn nhạy cảm thanh tao, thi vị của một nhà
thơ tài hoa nhưng không kém phần thâm thúy sắc bén, đầy mưu lược của một nhà
chính tr
ị, nhà ngoại giao tài ba, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào hình ảnh dân tộc, tồn tại
vĩnh hằng trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, trong lịch sử dân tộc.
Suốt một khoảng thời gian dài ngồi trên ghế nhà trường, người viết chỉ được
tiếp xúc một phần rất ít ỏi trong cả sự nghiệp văn chương phong phú của Nguyễn Trãi,
ch
ỉ với một số bài thơ tiêu biểu cho sự nghiệp của ông như: Côn Sơn ca, Bảo kính
cảnh giới 43, và một áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo. Nhưng đã tạo cho người
viết một sự tò mò lẫn thích thú đối với văn chương của Nguyễn Trãi. Cho đến những
năm trên giảng đường đại học, người viết mới có điều kiện t
ìm hiểu rõ về sự nghiệp
văn chương to lớn của Nguyễn Tr
ãi và văn học Trung đại thời kì này. Người viết thật
sự bất ngờ, ngạc nhiên và cảm thấy thú vị khi biết được rằng ngoài những tác phẩm đã
được học ở chương trình phổ thông, thơ văn của ông thật là đa dạng và phong phú hết
sức. Nó chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong văn học thời kì này.
Văn học Trung đại việt nam là một bước chuyển mình mạnh mẽ trong toàn bộ
hệ thống nền văn học nước nhà. Tiếp theo xuất sắc thành tựu nền văn học dân gian,
bước sang văn học Trung đại
nền văn học viết chính thức ra đời đánh dấu sự trưởng
thành về ý thức dân tộc. Nhìn lại lịch sử thời kì văn học trung đại, chúng ta tự hào về
thế hệ trước với những chiến công gắn liền tên tuổi anh hùng dân tộc, trong đó có
Nguyễn Trãi không những minh chứng cho lịch sử là người trực tiếp tham gia vào
nh
ững biến động đó. Vì vậy, thơ ông luôn thể hiên rõ vốn sống ở độ chín, một suy
ngẫm sâu sắc về cuộc đời và tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên và con người. Tất

5
cả những điều đó được thể hiện qua những vần thơ Nôm mang đậm vẻ đẹp tâm hồn
của một người anh hùng luôn vì dân, vì nước.
Thật vậy, lịch sử đã chứng minh ông là một mẫu người, một mẫu quân thần
luôn được mọi x
ã hội, mọi thời đại đề cao, kính trọng và học tập noi theo. Không
những thế, Nguyễn Trãi còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại, những tác phẩm văn
chương của ông có ý nghĩa vô c
ùng lớn trong đời sống văn hóa nước nhà: “Nguyễn
Trãi là ngôi sao sáng trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XV, cũng là ngôi sao sáng trên văn
đàn thế giới “những đêm trường Trung
cổ”.
Cuộc đời cũng như sự nghiệp văn chương của ông đã đã để lại cho chúng ta
một công trình nghiên cứu vô tận khi khai thác đề tài, làm tốn không biết bao nhiêu
gi
ấy mực của các nhà văn, nhà thơ, các nhà phê bình, bình luận văn học hàng thế kỉ
qua. Từ trước đến nay đã có rất nhiều người viết về Nguyễn Trãi, làm thơ vịnh về
Nguyễn Trãi – một người uyên bác vĩ đại mà ai cũng muốn nói được cho đầy đủ,
muốn nói được cho hết. Nhưng làm sau nói được hết, hiểu được hết thơ văn của ông.
Tiếp nối những người đi trước người viết cũng muốn góp một phần hiểu biết về đề tài
h
ết sức phong phú và rộng lớn này. Với vốn tri thức ít ỏi hạn hẹp và cũng do nhu cầu
thực tế, cũng như muốn tìm hiểu và bồi dưỡng thêm một phần kiến thức về các tư liệu
Hán Nôm, người viết quyết định chọn đề t
ài “Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua thơ
Nôm” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Qua đề tài này người viết hy vọng sẽ có thêm một số hiểu biết về Nguyễn Trãi,
ti
ếp thu thêm một số vốn quý của tinh thần dân tộc, cách sống, cách làm người, giá trị
văn hóa, tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước trong thơ Nôm

Nguyễn Trãi nhằm góp phần tạo nên tiền đề trong việc xây dựng đất nước trong thời
đại mới.
2. Lịch sử vấn đề
Cuộc đời cũng như sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi bao giờ cũng hiện hữu
trong lòng người Việt Nam, nó là một đề tài chưa bao giờ cạn và chưa bao giờ cũ đối
với các nhà nghiên cứu và phê bình, bình luận văn học. Có rất nhiều bài viết về
Nguyễn Trãi và thơ văn của ông đã được in thành sách. Khi nghiên cứu đề tài này thì
trước đó có nhiều tác giả có nhiều bài viết nghiên cứu về “Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn
6
Trãi qua thơ Nôm” . Sau đây tôi điểm qua một vài sách báo của các nhà nghiên cứu
về đề tài này.
Tr
ần Thanh Mại với bài viết Vài nét về tư tưởng Nguyễn Trãi qua thơ văn của
ông
in trên Tạp chí văn học, số 9, 1962, nhận định về thơ của Nguyễn Trãi như sau:
“Nếu chúng ta chịu khó bỏ ra đôi chút thời giờ để cho tâm hồn lắng xuống, để tập
trung thông cảm sâu sắc với người xưa, thì tôi nghĩ thơ Nguyễn Trãi có thể làm cho
lòng ta
rung động xao xuyến” (dẫn theo [14 ;tr. 902]).
Bùi Văn Nguyên với b
ài viết Nguyễn Trãi qua thơ văn trong quyển Lịnh sử Văn
Học Việt Nam tập 2 văn học viết, NXB Giáo Dục, 1978. Bùi Văn Nguyên viết: “Hồn
thơ của Nguyễn Tr
ãi chan hòa với tạo vật vì Nguyễn Trãi có tư tưởng thanh cao, tình
yêu trong sáng. Đó có lẽ dĩ nhiên vì nội dung quyết định hình thức, nhưng cũng phải
nhận rằng Nguyễn Trãi có trí tưởng tượng kì diệu “Nằm trong thuyền mà ông tưởng
hồn trên mây ,nhìn bức tranh bá nho gãy đàn mà ông nghe tiếng nhạc văng vẵng nơi
chín đầm lạnh ngắt
” [8; tr. 79].
T

ế Hanh với bài viết Hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi trong Nguyễn Trãi về
tác gia và tác phẩm đã nhận xét về thơ Nôm của Nguyễn Trãi như sau: “Với thơ Nôm
Nguyễn Trãi, ta bắt gặp một con người có ý thức cao đối với đức tài, lý tưởng đại
dụng, khôn khéo sâu sắc, tự tin, dũng cảm tự khẳng định, chọi lại thói phàm tục của
người đời, không ho
àn toàn trùng khít với khuôn mẫu nào hết. Đó là một nhân cách
lớn hết sức phong phú”(dẫn theo [14; tr. 843]).
Trong bài vi
ết Quốc Âm Thi Tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam
của tác giả Xuân Diệu đã nói về Vẻ đẹp trong tâm hồn Nguyễn Trãi qua thơ Nôm, tác
gi
ả đã so sánh tâm hồn ấy với vầng trăng: “Ức trai có cái đẹp thường trực ở trong tâm
hồn, có cái đẹp là bản chất của tâm hồn, cho nên gặp cái đẹp trong vũ trụ là tương
ứng thốt ra thơ đẹp : Ngồi trong chiếc thuyền câu, trong cảnh lạ đ
êm thanh nhìn
“Nguy
ệt mọc đầu non và khói tan mặt nước”(dẫn theo [14; tr. 714]).
Tr
ần Đình Hượu trong bài viết Nguyễn Trãi và nho giáo in trong Nho giáo và
văn học Việt Nam Trung cận đại, NXB Văn hóa - Thông tin, 1995, đã ví tâm hồn
Nguyễn Trãi như một viên ngọc sáng long lanh: “Nguyễn Trãi không chỉ yêu nước, có
tinh thần dân tộc mà còn là tiêu điểm phản ánh cả một thời kì quan trọng của dân tộc,
là ngôi sao dẫn đường cho cả dân tộc trong cả mấy thế kỉ về sau; vì ông là viên ngọc
7
long lanh không chỉ tỏa sáng mà còn soi bóng cả đất nước, cả lịch sử, còn là tấm
gương thu h
ình những phẩm chất của con người Việt Nam; cho nên đã trở thành một
chứng tích vô giá cho lịch sử. Chỉ qua ông – và bắt buộc phải qua ông – chúng ta nhìn
và đánh giá cả một thời đại, cả một dân tộc, cả một con đường” (dẫn theo [14; tr. 95]).
G

ần đây, có công trình luận án tiến sĩ Ngữ Văn Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm
của Nguyễn Trãi – quan niệm thẩm mĩ và phương thức nghệ thuật của Phạm Thị Ngọc
Hoa, Hà Nội, 2012. Luận án đã tìm ra một số đặc sắc trong quan niệm thẩm mỹ của
Nguyễn Trãi: coi trọng cái đẹp bình dị - quan niệm thẩm mỹ mang màu sắc dân chủ;
lấy con người làm hệ quy chiếu để xem xét cái đẹp thiên nhiên – quan niệm thẩm mỹ
mang màu sắc nhân văn. Luận án chỉ ra các phương thức nghệ thuật thơ chữ Hán và
thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi: nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thơ hàm súc, điển nhã; ngôn
ng
ữ bình đạm, thuần phác; nghệ thuật xây dựng kết cấu câu thơ; nghệ thuật sử dụng
câu hỏi tu từ; nghệ thuật xây dựng hệ thống hình ảnh, biểu tượng.
Trên đây là những ý kiến, nhận định mà người viết thu thập được trong quá
trình nghiên cứu tài liệu. Mặc dù đây chỉ là những nhận định mang tính tổng quát chưa
đi sâu vào phân tích tr
ình bày hoăc chứng minh cụ thể vấn đề nhưng nó sẽ là kim chỉ
nam dẫn đường cho người viết có được định hướng đúng đắn trong quá trình triển
khai đề t
ài của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Với mong muốn đóng góp một phần nào đó vào công trình nghiên cứu của
những người đi trước. Mặc dù vẫn không tránh khỏi những điều sao chép lại, nhưng
vẫn mong sẽ ghóp chút tài hèn sức mọn nhằm đóng ghóp cho mãnh đất nghiên cứu văn
học nhiều hứa hẹn, bất ngờ và thú vị này.
V
ới luận văn này, chúng tôi sẽ đi nghiên cứu về Vẻ đẹp trong tâm Hồn Nguyễn
Trãi qua thơ Nôm từ hai bình diện: nội dung và nghệ thuật, trên cơ sở vận dụng kiến
thức lịch sử văn hóa nhằm tìm hiểu sâu hơn về con người và sự nghiệp thơ văn của
Nguyễn Trãi được gợi lên từ những câu thơ Nôm mang đậm phong cách và vẻ đẹp của
tấm lòng nhân ái, tấm lòng yêu thương nhân dân, đất nước và làm vũ khí đánh vào tinh
th
ần của quân xâm lược. Ngoài ra, về phương diện giá trị nghệ thuật của Nguyễn Trãi

c
ũng đã góp phần quan trọng trong việc sáng tạo thể thơ Nôm, mục đích nghiên cứu
của đề tài này chúng tôi đi sâu hơn về nhiều phương diện để xác định được cơ sở hình
8
thành quan niệm thẩm mĩ trong thơ Nôm nhằm khái quát toàn diện về vẻ đẹp tâm hồn
cũng như sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
Lu
ận văn còn giúp ích cho người viết rất nhiều trong công tác nghiên cứu khoa
học. Nó là tiền đề cơ sở để sinh viên làm quen với các thao tác, trình tự, quy trình
trong các công trình nghiên c
ứu khoa học sau này. Đó cũng là mục đích cuối cùng của
người viết.

4. Ph
ạm vi nghiên cứu
Do tính chất đặc thù của đề tài, nên người viết chỉ nghiên cứu các tác phẩm thơ
chữ Nôm của Nguyễn Trãi, tiêu biểu là tập thơ Quốc âm thi tập - Tập thơ chữ Nôm
duy nhất còn sót lại của ông.
Để ho
àn thành luận văn, người viết còn tham khảo những tài liệu viết về
Nguyễn Trãi, đặc biệt là những tài liệu viết về vẻ đẹp con người cá nhân Nguyễn Trãi
trên các sách báo, t
ạp chí ngôn ngữ và văn học. Bên cạnh đó, không thể thiếu là các
văn bản tác phẩm thơ chữ Nôm để hiểu sâu, rõ hơn về vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi
qua thơ Nôm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua thơ Nôm, người viết
đ
ã tiếp thu ý kiến của những người đi trước từ sách báo, giáo trình, tạp chí một cách có
ch

ọn lọc. Sau đó, so sánh, đối chiếu các ý kiến với nhau để rút ra những kết luận có
sức thuyết phục trong phần lịch sử nghiên cứu vấn đề. Người viết còn phải đọc hết 254
bài thơ chữ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Tr
ãi nhiều lần để có thể nắm bắt
được nội dung và nghệ thuật nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đã đặt ra trong phần mục
đích nghiên cứu. Sau đó tiến h
ành viết đề cương chi tiết và triển khai thành các phần ,
chương, mục trong luận văn.
Bên cạnh đó, người viết sử dụng các phương pháp chính sau: phương pháp hệ
thống, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh. Và trong từng phần, người viết áp
dụng để mà sáng tỏ vấn đề. Cụ thể là:
Phương pháp hệ thống được người viết sử dụng khi thu thập tài liệu, người viết
tiến hành hệ thống hóa các bài viết có liên quan đến đề tài. Đó là cơ sở lí thuyết phục
vụ cho việc tìm hiểu đề tài “Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua thơ Nôm”.
9
Phương pháp thống kê được sử dụng để khảo sát số câu cao dao, tục ngữ, thành
ng
ữ, đã được Nguyễn Trãi vận dụng để đưa những yếu tố dân gian vào Việt hóa thể
thơ Đường luật. Đặc biệt l
à khảo sát tỉ lệ tỉ lệ số câu lục ngôn đuợc dùng xen trong thể
thơ bảy chữ m
à Nguyễn Trãi đã sử dụng, qua đó thấy được sự đóng góp của ông về
sáng tạo một thể thơ mới cho văn học Việt Nam.
Người viết sử dụng phương pháp so sánh để so sánh thơ chữ Nôm với thơ chữ
Hán của chính Nguyễn Trãi và so với các nhà thơ cùng thời như Nguyễn Mộng Tuân,
Lý Tử Tấn, với thơ văn giai đoạn thời Lí Trần, và với các nhà thơ trước và sau ông
như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến. Để rút ra đặc trưng của thơ ông cả về nội
dung lẫn nghệ thuật.
Trong quá trình nghiên cứu, các thao tác lập luận, chứng minh, phân tính, bình
lu

ận cũng được người viết sử dụng để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra trong đề tài. Trong
cùng m
ột trang viết, có thể có sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để cùng giải
quyết, làm sáng tỏ vấn đề.
10
PHẦN NỘI DUNG
Chương một
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN
Để đánh giá một tác phẩm văn chương, hay đánh giá về tác giả thông qua
thơ văn của họ một cách khác
h quan, chúng ta cần phải đặt những tác phẩm đó
trong bối cảnh của một giai đoạn văn học, lịch sử, xã hội mà tác phẩm đó đã ra
đời. Vì vậy trước khi đi vào triển khai chương hai “Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi
qua thơ Nôm” - chương trọng tâm của luận văn, người viết sẽ đi vào giới thiệu
một số vấn đề có liên quan đến đề tài như: thời đại, thân thế, sự nghiệp, và
nh
ững đặc điểm cơ bản đã ảnh hưởng và hình thành nên hồn thơ Nôm Nguyễn
Trãi.
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Chế độ phong kiến Việt Nam đến cuối thế kỷ XIV lâm vào thế khủng hoảng với
sự phá vỡ của chế độ đại điền trang. Các cuộc khởi nghĩa tiếp tục nổ ra, tiến hành cuộc
cải cách sau khi lật đổ nhà Trần, sự rối ren từ nhiều phía tạo nên một hoàn cảnh xã hội
đầy phức tạp dẫn đến sự suy sụp triều đại nh
à Trần.
Năm 1400, Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần lập nên nhà Hồ và có cái nhìn thực
tế trước tình thế nguy ngập của đất nước sau đó ông đã tiến hành nhiều cuộc cải cách
quan trọng: Dời thiên đô về thanh hóa ngoài ra ông còn tang cường quan sự về võ bị,
đề ra chính sách hạn điền hạn nô và phát hành tiền giấy, mở khoa thi chọn người tài
v
ới quan điểm trọng chữ Nôm hơn chữ Hán. Tháng 11 năm 1406, quân Minh lấy chiêu

bài “
phù trần diệt hồ” tràn sang nước ta,Hồ quý ly đã tiến hành nhiều cuộc khỡi nghĩa
lại không được niềm tin theo nên đành thất bại dưới nhà Minh. Trong tình hình đó
nhiều cuộc khỡi nghĩa tiếp tục nổ ra nhưng điều bị thất bại .
Quá trình kháng chiến đòi hỏi một tinh thần trường kì, được tiến hành trog 10
năm dưới sự chỉ huy của Lê Lợi, ông đã tập hợp quần chúng dấy lên phong trào đấu
tranh mạnh mẽ. Ban đầu cuộc khởi nghĩa thiếu đường lối nên tất bại và sau đó nhờ tập
hợp sức mạnh của nhân dân, biết vận dụng những chiến lược, chiến thuật tài tình nên
11
đã phát triển mạnh và tiến đến thắng lợi hoàn toàn vào cuối năm 1427. Thành công của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã đánh dấu một bước ngoặt mới trên con đường trưởng
thành của dân tộc mở ra kỉ nguyên mới, kỉ nguyên thịnh trị của triều đại Hậu Lê. Có
m
ặt từ lúc cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước, cho đến khi thành công, Nguyễn Trãi
v
ới vai trò là một nhà quân sự, nhà chiến lược đã ghóp phần vào cho những chiến công
vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng trong thời gian đó, Nguyễn Trãi đã cho
ra đời nhiều áng văn chính luận, thơ phú, đắc sắc như: Bình Ngô đại cáo, Chí Linh
sơn phú
, Quá trình gian khổ, kề vai sát cánh cùng nhân dân trong suốt cuộc kháng
chiến đã hình thành nên tình yêu quê hương, thiên nhiên, tư tưởng nhân nghĩa, nhân
cách người quân tử trong thơ chữ Hán v
à cả thơ chữ Nôm của ông sau này.
Kháng chi
ến thành công, Lê lợi lên ngôi vua lập nên vương triều hậu Lê. Tuy
nhiên Lê thái t
ổ chỉ là người đặt nền móng, phải đến triều đại Lê Thánh Tông, chính
qu
ền phong kiến mới thực sự bước vào giai đoạn cực thịnh, bao gồm tất cả các mặt về
kih tế, chính trị, văn hóa, khoa học đều phát triển mạnh mẽ.

Chính sách cai tr
ị của nhà Lê được thể hiện rõ hơn thông qua bộ luật hồng Đức,
nhìn chung bộ luật có nhiều điểm mới nói về thân phận của quần chúng, thân phận
bình dân nhưng căn bản vẫn giữ quyền lợi cho địa vị và quý tộc. Trong thời kì này qua
h
ệ kinh tế và chính trị tương đối ổn định, nông nghiệp và công thương so với thời Lí
Tr
ần được phát triển cao hơn. Chính sách thân dân thời Lê phù hợp với quyền lợi giai
c
ấp phong kiến nước ta đã lên đỉnh cao của nó và đời sống nhân dân được phát triển.
Trên cơ sở một nền kinh tế tương đối thịnh vượng của một chế độ tương đối ổn định
,
n
ền văn hóa dân tộc trong giai đoạn này cũng được phát triển về mọi mặt và có tác
d
ụng hỗ trợ cho chế độ tập quyền lúc này. Vì vậy mà văn học giai đoạn này mang tính
ch
ất thù phụng, ca ngợi công lao của Lê Lợi cũng như cuộc kháng chiến hào hùng của
dân tộc, điểm này thể hiện rất rõ trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi sau này.
1.2. Bối cảnh văn học
Văn học gia đoạn này với sự phát triển toàn diện của các thể loại văn học chữ
Hán, chữ Hán phát triển mạnh mẽ đa dạng hơn với nhiều thể loại: thư lục, chiếu, cáo,
văn bia, phú. 37 thi văn tập của các dan
h sĩ thời Lê được Phan Huy Chú giới thiệu
trong Văn tịch chí cũng khái quát được cái nhìn bao quát về sự phát triển manh mẽ
12
của văn học thời thịnh Lê và các gương mặt thi ca quan trọng, trong đó, lượng lượng
sáng tác thời Hồng Đức quả thực là hết sức hùng hậu.
Trong thời kì này còn chứng kiến phát triển vượt bật của loại văn chính luận:
văn hội thề Hội thề Lũng Nhai, cáo Bình Ngô đại cáo, mà Nguyễn trãi đã kế thừa

và phát triển trong thời kì trước như một thứ vũ khí sắc bén phục vụ cho chiến thuật
“Tâm công” đặc sắc. Các tác giả trong giai đoạn này thường ca ngợi chính nghĩa, xem
đó là cơ sở giá trị chiến thắng :
Nếu không gặp thánh tổ sau được gọi là hiếm
Nếu không nhân chiến thắng sau truyền mãi danh
Hơn thế nữa các tác giả còn ca ngợi, so sánh công lao của lê lợi với công lao
của Hán cao tổ :
Cờ nghĩa vua ta cao phất
Che rợp cả bật hán đường
Ngoài ra còn ca ngợi công cuộc xây dựng đất nước thời kì mới :
Phòng ngưa bờ cõi cần ra sức
Giữ vẫn cơ đồ phải gắng công.
Thơ chữ Hán vẫn chiếm vị trí cao trong đời sống sáng tác, nhưng đây cũng là
giai đoạn xuất hiện nhiều thơ chữ Nôm, nổi bật và thành công nhất trong đó có nhiều
tác phẩm của Nguyễn Trãi (Quốc âm thi tập), Trần Quý Khoáng, Nguyễn Biểu. Nửa
sau thế kỉ XV, có tác phẩm nổi tiếng Hồng Đức quốc âm thi tập của các nhà thơ trong
hội Tao Đàn.
Do tình hình l
ịch sử quyết định, văn học ở thời kì này tập trung ca ngợi cuộc
kháng chiến chống Minh và người anh hùng Lê Lợi cũng được tập trung thể hiện trong
các tác ph
ẩm ở giai đoạn nửa cuối thế kỉ XV, thơ văn viết về đề tài này tập trung vào
giai đoạn nửa cuối thế kỉ XV.
Văn học thời này ca ngợi sự thịnh trị của triều đại hậu Lê và vua Lê Thánh
Tông ngoài ra văn học trong giai đoạn này thể hiện rõ nét hình ảnh quần chúng
những người làm nên lịch sử và những quan niêm mới về đất nước, dân tộc của nhà tư
tưởng hậu Lê. Văn học thế kỉ
XV chứng kiến sự đột phá về số lượng lẫn chất lượng
của tác phẩm. Lượng lượng sáng tác chủ yếu nho sĩ quan liêu nhất là các triều thần
13

được vua Lê Thánh Tông chọn vào hội Tao đàn. Các nhà thơ sáng tác dưới sự chỉ đạo
của nhà vua về đề tài, cảm hứng nên đôi khi khuynh hướng ca ngợi. Một số tác giả
không chịu gò bó trong văn học cung đình và có nét tiến bộ trong nội dung sáng tác :
Nguyễn Trực có nhiều nét độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên đơn giản
nhưng có
ý nghĩa sâu sắc :
Xa đất nên bụi ít
Lên cao được trăng nhiều
Trong giai đoạn này thơ văn của Nguyễn trãi đã đưa ra những quan điểm mang
yếu tố của nhân dân, đã phán ánh được đời sống nhân dân, đó là một quan điểm mới
tiến bộ trong ý thức hệ giáo cấp thống trị lúc bấy giờ, do sự tác động của vai trò quần
chúng thúc đẩy. Chẳng những h
ình ảnh của quần chúng mà tiếng nói của quần chúng
trong văn học lúc n
ày cũng được văn học viết chú ý đến. Điển hình cho vấn đề trên là
chúng ta đã thấy tục ngữ ca dao đã được vận dụng trong thơ nôm Nguyên Trãi :
"Dễ hay ruột biển sâu cạn
Khôn biết lòng người ngắn dài"
Văn học lúc này cũng phản ánh phần nào về ý thức cá nhân và khuynh hướng
trữ tình. Ngoài ra văn học trong thời kì có khuynh hướng bất mãn thời thế. Đây không
phải là một văn phái riêng biệt, mà đây chỉ là một chiều hướng tư tưởng của đội ngũ
sáng tác muốn khao khát đem tài trí giúp đời nhưng bị vùi dập, phải trở về ở ẩn, trong
đó có Nguyễn Tr
ãi, Nguyễn Húc
1.3. Nguyễn Trãi - tác gia và tác phẩm
1.3.1. Tác gia Nguyễn Trãi
1.3.1.1. Cuộc đời Nguyễn Trãi
Sống trong một giai đoạn lịch sử nhiều biến động phức tạp, cuộc đời Nguyễn
Trãi gắn liền với từng bước đi của lịch sử. Có thhể chia cuộc đời ông thành 3 giai
đoạn:

Nguyễn Trãi - thời chuẩn bị bước vào đời
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu Ức Trai, tổ tiên quê ở xã Chi Ngại, lộ Lạng
Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Đến đời Trần, họ Nguyễn chuyển
14
đến làng Ngọc Ổi, huyện Thượng Phúc, lộ Đông Đô (nay thuộc tỉnh Nhị Khê, huyện
Thường Tín, tỉnh H
à Tây).
Nguy
ễn Trãi được kết tinh từ một mối tình đẹp và nên thơ nhưng theo quan niệm
phong kiến thì không “môn đăng, hộ đối”. Cha là Nguyễn Ứng Long, một nho sĩ
nghèo, xuất thân từ tầng lớp bình dân, mẹ là Trần Thị Thái – con gái thứ tư của quan
Tư đồ Trần Nguyên Đán
– cháu bốn đời của Trần Quang Khải.
Nguyễn Ứng Long ra sức dùi mài kinh sử và đỗ bảng nhãn vào năm Giáp Dần
niên hiệu Long Khánh thứ hai (1374), dưới triều của vua Trần Duệ Tông. Không được
nhà Trần trọng dụng, Nguyễn Ứng Long về quê dạy học. Tại làng Nhị Khê, ông có
nhi
ều học trò và được mọi người mến phục. Lúc này, Nguyễn Trãi sống với ông ngoại
và mẹ ở Kinh đô Thăng Long. Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng
ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức
rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân. Tuổi
thơ Nguyễn Tr
ãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập,
nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về
nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.
Năm 1385, bất m
ãn với chính sự triều đình, Trần Nguyên Đán cáo quan về nghỉ
hưu ở động Thanh Hư
– Côn Sơn, Nguyễn Trãi cùng theo ông ngoại về sống ở đó.
Cũng trong năm đó, bà Trần Thị Thái – mẹ của Nguyễn Trãi mất. Đến năm Canh Ngọ

(1390), Trần Nguyên Đán qua đời, Nguyễn Trãi về sống với cha ở Nhị Khê. Như vậy,
kể từ lúc sinh ra cho đến khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi sống trong dinh thự của thân
vương bên
ngoại được mười năm. Tại đây, tuổi thơ Ức Trai được sự giáo dục tốt của
ông ngoại và mẹ. Đến tuổi thiếu niên, Ức Trai lại được sự dạy dỗ của cha nên năng
khiếu văn chương của ông sớm có điều kiện phát triển.
Nguyễn Trãi - thời đánh giặc cứu nước
Năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thánh
Nguyên, qu
ốc hiệu là Đại Ngu và mở khoa thi đầu tiên. Nguyễn Ứng Long đổi tên là
Nguy
ễn Phi Khanh ra làm quan dưới triều nhà Hồ, giữ chức Viện Hàn lâm kiêm Tư
nghiệp Quốc tử giám. Lúc này, Nguyễn Trãi hai mươi tuổi tham gia ứng thí và đỗ Thái
học sinh (Tiến sĩ) cùng thời với Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân… Nguyễn Trãi được
bổ nhiệm làm Ngự sử đài chánh chưởng.
15
Năm 1407, quân Minh đánh chiếm nước ta, cha con Hồ Quý Ly và nhiều quan
chức triều đình bị bắt giải về Trung Quốc. Trong số những ngời bị bắt có Nguyễn Phi
Khanh – cha của Nguyễn Trãi. Hay tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi và em là Nguyễn Phi
Hùng theo xe tù binh lên ải Nam Quan để được chăm sóc cha già nơi đất khách quê
người. Nhưng Nguyễn Phi Khanh là người nhìn rộng thấy xa, ông bảo Nguyễn Trãi:
“Con là ngời có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Thế mới
là đại hiếu. Lo l
à cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”. Chính
l
ời khuyên này của Nguyễn Phi Khanh có lẽ là lời động viên, răn dạy sâu sắc trong
lòng Nguyễn Trãi, nên trong thơ Nôm sau này của ông, đều thấm đẫm tình yêu nước
thương dân sâu sắc. T
a thấy trong thơ ông thường xuất hiện hai từ tiên ưu, ưu ái cũng
chính vì điều đó. Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về, đến thành Đông Quan thì bị giặc

Minh bắt. Tướng giặc nhà Minh bắt Nguyễn Trãi ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi kiên
quy
ết từ chối. Nguyễn Trãi được tha chết nhưng chúng bắt ông phải sống ở Đông
Quan dưới sự giám sát, theo d
õi của quân đội nhà Minh. Đây là khoảng thời gian xuất
hiện của bài thơ Thủ vĩ ngâm nổi tiếng.
Từ 1407 – 1416, Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở thành Đông Quan nhưng tài liệu
lịch sử cũng như văn của ông không thất đề cập gì đến hoạt động của ông vào giai
đoạn này. Phải chăng trong 10 năm này, Nguyễn Trãi đã sống ẩn dật để tránh sự kiểm
soát của kể thù, âm thầm vạch kế sách chống giặc mà sau này gọi là Bình Ngô sách?
Nguy
ễn Trãi tìm đến với Lê Lợi khi Lê Lợi đặt tổng hành dinh ở Lỗi Giang
(1420 -1421) và trong cuộc gặp gỡ này Nguyễn Trãi đã dâng Bình Ngô sách cho Lê
L
ợi (1420). Tâm đắc sách lược công tâm, chủ yếu đánh vào lòng người ấy. Từ khi có
Bình Ngô sách của Nguyễn Trãi, hoạt động của quân đội Lam Sơn không ngừng được
mở rộng, hàng loạt những đợt tiến công liên tục được diễn ra.
Ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (ngày 28 tháng 12 năm 1427), Vương Thông
đem toàn bộ quân Minh c
òn lại rút về nước. Cuộc kháng chiến của dân tộc ta đi đến
thắng lợi hoàn toàn, mở ra nền thái bình thịnh trị cho nước nhà.
Nguyễn Trãi - thời hòa bình
Năm Mậu Thân (1428), Lê Thái Tổ lên ngôi và tiến hành luận công, ban thưởng
cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong tước Quan Phụ hầu, giữ chức Nhập nội
hành khiển Lại bộ Thượng Thư, kiêm quản công việc Khu Mật viện. Dù được giữ
16
chức vị chủ chốt trong triều nhưng Nguyễn Trãi vẫn hết lòng trung thành, phụng sự
triều đình nhà Lê trong buổi đầu đất nước thống nhất, bước vào sự nghiệp kiến quốc.
Theo Khâm Định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn, sức khỏe
vua Lê Lợi ngày một yếu, hoàng tử Nguyên Long lại còn rất nhỏ, Lê Lợi rất lo ngại

trước tài năng và uy thế của Trần Nguy
ên Hãn và Phạm Văn Xảo nên tìm cách tiêu
di
ệt hai đại công thần này. Năm 1429, Trần Nguyên Hãn – đệ nhất công thần cũng là
người có họ với Nguyễn Trãi bị bức tử, đến cuối năm vua ra lệnh giết Thái úy Phạm
Văn Xảo, một đệ nhất công thần khác. Thời gian n
ày Nguyễn Trãi cũng bị bắt giam,
sau đó được tha nhưng không c
òn được tin dùng. Đến đầu năm Mậu Ngọ (1438), ông
xin từ chức và về nghỉ ở Côn Sơn. Thời gian này Nguyễn Trãi đã cho ra đời tập thơ
Quốc âm thi tập mang nhiều tâm sự về thời cuộc, nhưng vẫn thấm đượm tình yêu nước
thương dân, t
ình yêu quê hương, đất nước, nhữn bài thơ nói chí, răn đời của một tâm
hồn cao đẹp.
Khoảng năm Kỷ Mùi – 1439, ông lại được mời ra làm quan, giữ chức vụ cũ
Kiêm Trung thư sảnh Tam quán sự và coi cả việc quân dân ở hai đạo Đông Bắc. Dù
chưa phải là chức vụ cao nhất trong triều nhưng lòng Nguyễn Trãi cũng khấp khởi một
nỗi vui mừng, hy vọng. Bài Biểu tạ ơn ra đời vào thời điểm này.
Nhưng không lâu sau đó, tai nạn như trời giáng ập đến với Nguyễn Trãi và cả
gia tộc ông. Mùa thu ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo (nhằm ngày
19 tháng 9 năm 1442), vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Phả Lại, trên đường về có đi
qua Chí Linh nên ghé Côn Sơn thăm Nguyễn Tr
ãi. Khi từ Chí Linh về Thăng Long,
đến Lệ Chi Vi
ên thì vua bị bệnh ác tính rồi mất, lúc đó Nguyễn Thị Lộ – vợ thiếp của
Nguyễn Trãi, đang giữ chức quan Lễ nghi Nữ học sĩ – cũng có mặt trong đoàn tùy
tùng h
ộ giá. Bọn gian thần trong triều, từ lâu vốn không ưa tính thẳng ngay, cương
trực của Nguyễn Trãi, liền vu cho Thị Lộ tội giết vua và xử cực hình, còn ông bị kết án
tru di tam tộc.

Năm 1467, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu rửa oan cho Nguyễn Tr
ãi và sai
Tr
ần Khắc Kiệm sưu tập lại thơ văn ông. Năm 1480, Trần Khắc Kiệm hoàn thành sứ
mệnh và đề Tựa cho quyển Ức Trai di tập. Nhưng trải qua nhiều năm loạn lạc về sau,
sách ấy bị thất lạc. Năm Tự Đức thứ 21 (1868 – dưới triều Nguyễn), Dương Bá Cung,
17
người đồng hương với Nguyễn Trãi, sau nhiều năm công phu sưu tầm lại một lần nữa,
đ
ã hoàn thành và đề Tựa bộ Ức Trai di tập.
Năm 1962, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kỷ niệm 520 năm ngày
Nguy
ễn Trãi mất (19/9/1442 – 19/9/1969).
Năm 1980, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tổ chức
UNESCO của Liên hiệp quốc tổ chức lễ Kỷ niệm lần thứ 600 năm sinh danh nhân văn
hóa Nguyễn Trãi (1380 – 1980).
Cu
ộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ- chiến đấu
chống bạo lực xâm lược và chống gian tà. Tư tưởng nhân nghĩa là đỉnh cao chói sáng
trong thơ ông. Quan điểm xem văn chương là vũ khí chiến đấu thể hiện r
õ trí tuệ sáng
suốt của một thiên tài và bản lĩnh của một chiến sĩ dũng cảm. Cuộc đời Nguyễn Trãi
cho chúng ta bài h
ọc quý báu về tinh thần nhân đạo, nhiệt tình chiến đấu, quan điểm
mạnh dạn đổi mới, sáng tạo.
1.3.1.2. Sự nghiệp văn chương
Trong lịch sử văn chương Trung đại, Nguyễn Trãi là một trong tác giả viết
nhiều nhất, ông để lại khối lượng tác phẩm tương đối lớn bao gồm văn xuôi, thơ chữ
Hán và thơ chữ Nôm. Nhưng sau thảm án Lệ Chi Vi
ên, hầu hết tác phẩm của Ức Trai

đều bị ti
êu hủy, đến khi sưu tầm lại được thì tác phẩm của ông mất đi một ít. Những
tác phẩm tiêu biểu còn lại hiện nay là: Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập,
Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, Lam Sơn thực lục, Vĩnh Lăng
bi kí, Chí
Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục và một số bài chiếu, biểu khác.
Một số tác phẩm bị mất như: Ngọc đường di cảo, Luật thư, Giao tự đại lễ và
Thạch khánh đồ. Chúng ta chỉ biết được tên những tác phẩm này qua Toàn Việt thi
lục, Lê triều thông sử, Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Về văn xuôi
Quân trung từ mệnh tập (1423-1428)

Do Trần Khắc Nhiệm đời Hồng Đức sưu tập. Phần quan trọng của tập sách là
nh
ững bức thư của Bình Định Vương gửi cho tướng lĩnh hà Minh. Quân trung từ mênh
t
ập , là tác phẩm thể hiện năng lực của nhà tư tưởng và nhà biện luân thiên tài vùa
khiêu khích , phân tích lí l
ẽ phải trái , tất cả nhằm đẩy địch vào tình thế bị động.
18
Bình ngô đại cáo (1428)
Vào năm 1428, khi đất nước đánh đuổi vđược giặc Minh, đất nước hoàn toàn
gi
ải phóng, Nguyễn Trãi vâng lệnh vua viết tác phẩm Bình ngô đại cáo ,tác phẩm được
ghi trong Lam sơn thực lục. Tác phẩm là một “áng thiên cổ hùng văn”, nhằm tổng kết
cả một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng rất anh hùng của dân tộc,lên án tội ác của
giặc Minh, biểu dương chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta, tuyên cáo quyền làm chủ dân
tộc Đại Việt.
Băng hồ di sự lục
Đây là tác phẩm của Nguyễn Trãi họa về chân dung Trần Nguyên Đán ,ông

ngoại Nguyễn Trãi , một người sáng suốt nhìn trước diễn biến của lịch sử .
Dư địa chí (1434)
Năm 1434, Lê Thái Tông lệnh cho Nguyễn Trãi soạn tác phẩm này. Sách gồm
có 42 mục, do Nguyễn Thiên Túng tâp chú , Lí Tử Tấn thông luận ,chép sơ lược địa lí
hành chính và tự nhiên nước ta qua các giai đoạn lịch sử.
Lam sơn vĩnh bia (1435)

Bài văn này được khắc trên bia viết bằng chữ Hán ,nêu lên rõ nguồn xuất thân
của Lê Lợi, đề cao tấm lòng nhân đức của ông , đặt vai trò sáng lập nhà Lê đối với nền
độc lập của dân tộc Việt.
Về thơ
Sáng tác của Nguyễn Trãi hiện còn một số phần viết bằng chữ Hán hơn một
trăm bài, trong Ức trai thi tập và một phần viết bằng chữ Nôm trong Quốc âm thi tập.
Ức trai thi tập
Viết bằng chữ Hán, gồm hơn 105 bài thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn. Xét về hình
th
ức, phần lớn các bài viết theo thể thất ngôn bát cú như: Kí sự, Mạn Hứng, Oan
tháng Ngoài ra có các bài viết theo thể ngũ ngôn bát cú như: Du sơn tự, Dục thúy
sơn,
Tặng hữu nhân Và một vài bài theo thể thất ngôn tứ tuyệt , như: Mộng sơn
trung, Vãn Tập, Đề Đông Sơn Tự. Nhìn chung các bài trong Ức trai thi tập đã bộc lộ
tư tưởng, tính cách con người Nguyễn Tr
ãi, phản ánh tấm bi kịch người anh hùng.

19
1.3.2. Khái quát chung về tác phẩm Quốc âm thi tập
Tác phẩm bất hủ Quốc âm thi tập là tác phẩm xưa nhất bằng tiếng Việt mà
chúng ta còn gi
ữ được, là một cống hiến to lớn của Nguyễn Trãi cho văn học Việt
Nam, là nguồn tài liệu quí báu để nghiên cứu ngôn ngữ và văn học dân tộc. Thế nhưng

Quốc âm thi tập cũng như những tác phẩm khác của ông đều bị tiêu hủy sau khi ông
bị nạn tru di, mất ngày 19 tháng 9 năm 1442 một cách oan uổng. Hai mươi lăm năm
sau, năm Quang Thuận thứ 8 (1467) L
ê Thánh Tông sau khi đã khôi phục và gia
phong cho ông đã hạ chỉ sưu tầm di cảo thơ văn của ông “sai tìm kiếm di cảo thơ văn
của Nguyễn Trãi là quan Hàn lâm học sĩ đã quá cố”. Quyển 7 Quốc âm thi tập gồm
254 bài thơ, được chia l
àm 4 môn loại: Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa
m
ộc môn (33 bài), Cầm thú môn (7 bài). Trong mỗi môn loại lại được chia thành
nhi
ều đề mục, tất cả gồm 53 đề mục không kể nhiều ít. Quốc âm thi tập là tập hợp
những bài thơ được sáng tác chủ yếu vào thời gian Nguyễn Trãi ở Côn Sơn. So với
phần thơ chữ Hán thì thơ Nôm của Nguyễn Trãi nhiều hơn gấp hai lần. Tập thơ giữ
một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Có thể chia thành như sau:
Vô đề gồm 192 bài sắp thành 14 mục: Thủ Vĩ Ngâm, Ngôn Chí, Mạn Thuật,
Trần Tình, Thuật Hứng, Tự Thán, Tự Thuật, Tức Sự, Tự Giới, Bảo Kinh Cảnh Giới,
Qui Côn Sơn, Trùng Cửu Cảm Tác, Giới Sắc, v
à Huấn Nam Tử.
Thời Lệnh môn nói về thời tiết gồm 21 bài chia ra làm 9 mục: Tảo Xuân Đắc
Ý, Trừ Tịch, Vãn Xuân, Xuân Hoa, Tuyệt Cú, Tích Cảnh Tuyệt Cú, Thủy Trung
Nguyệt, và Thủy Thiên Nhất Sắc.
Hoa Mộc môn nói về hoa và cây gồm 33 bài chia ra làm 23 mục: Mai, Cúc,
Hồng Cúc, Tùng, Trúc, Đào, Mẫu Đơn, Thiên Tuế Thu, Ba Tiêu, Mộc Cận, Gía, Lảo
Dung, Mộc Hoa, Mạt Lị, Liên Hoa, Hòe, Cam, Trường Yên, và Dương.
Cầm thú môn nói về muông thú, gồm 7 bài chia ra: Lảo Hạc, Nhạn Trận, Điệp
Trận, Miêu, Trư, Thái Cầu, Nghễng, và Trung Ngưu.
Đây là tập thơ Nôm viết bằng tiế
ng Việt xưa nhất trong lịch sử văn học dân tộc.
Trong t

ập thơ này của Nguyễn Trãi đã thể hiện lên nội dung sâu sắc tình yêu thiên
nhiên tha thi
ết; sự giải bài của tâm sự u uẩn; tấm lòng yêu nước thương dân, tư tưởng
nhân nghĩa và chí khí nhân cách người quân tử. So với thơ chữ Hán, tập thơ Nôm đại
thành của Nguyễn Trãi có khả năng thể hiện sâu sắc tâm hồn dân tộc, cảm quan về
20
thiên nhiên, quê hương, đất nước. Ðây cũng chính là vấn đề nhạy cảm, dễ khơi gợi
niềm yêu thương, gắn bó cùng xứ sở, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đạt tới
những trang viết lắng sâu, ân nghĩa. Ngoài ra, nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn
Trãi có thể bộc lộ các cung bậc tình cảm, các sắc thái trữ tình, thế giới nội tâm và mọi
nỗi ưu phiền một cách tự do, linh động hơn.
1.4. Nguyễn Trãi trên đường phát triển nền văn học chữ Nôm
Ngay từ khi các nhà văn đưa vào trong sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng
được khẳng định vị trí của mình bên cạnh chữ Hán vốn đã có ảnh hưởng âu sắc trong
văn học thời
LÍ Trần. Sự phát triển văn học chữ nôm khẳng định ý thức dân tộc ngày
càng được phát triển cao hơn, biểu hiện long tự hào của dân tộc, ý thức bảo vệ ngôn
ngữ, văn hóa dân tộc, chống lại âm mưu đồng hóa kẻ thù.
Tuy nhiên
ở thời Lý Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học bác
học chưa phổ biến. Từ thế kỉ XV, Nguyễn Trãi mạnh dan đưa chữ Nôm vào trong sáng
tác. Thơ Nôm của ông dù chưa thật sự trao chuốt nhưng đâm đà bản sắc dân tộc.
Thành công của Nguyễn trãi chính là tiền đề cho con đường phát triển văn học chữ
Nôm Việt Nam tiến đến đỉnh cao Truyện Kiều.
Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, được UNESCO
công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông có một sự nghiệp trước tác đồ sộ, về
nhiều lãnh vực. Ông làm nhiều thơ, bằng Hán văn và cả bằng chữ Nôm. Sau khi ông bị
hại, tác phẩm của ông bị thất tán nhiều nơi. Đến năm 1467, vua Lê Thánh Tông cử
người (Trần Khắc Kiệm) sưu tầm di cảo của ông, nhờ đó mới giữ một phần những tác
phẩm quý giá của ông. Dựa vào kết quả sưu tầm của Trần Khắc Kiệm ở thế kỷ XV,

Dương Bá Cung ở thế kỷ XIX đ
ã bỏ ra hàng chục năm tiếp tục sưu tầm, chỉnh lý để
đến năm 1868 cho khắc in bộ
Ức Trai di tập trong đó có Quốc âm thi tập gồm 254 bài
thơ Nôm. Có thể tập thơ này vẫn chưa phải là toàn bộ những tác phẩm viết bằng chữ
Nôm của Nguyễn Trãi, nhưng đây chính là tập thơ chữ Nôm đầu tiên còn lại đến ngày
nay
, và nó chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong văn học sử Việt Nam.
Thơ Nôm Nguyễn Tr
ãi thể hiện tình yêu tha thiết của ông dành cho nước cho
dân với tinh thần nhân nghĩa sâu sắc, đồng thời cũng có cả nỗi thao thức dằn vặt từ
cảnh ngộ riêng tư, một cái tôi trữ tình mang màu sắc của cả Nho, Phật và Lão. Tiếng
Việt trong thơ giàu hình tượng, ngữ liệu dân gian được sử dụng thích đáng. Hình thức
21
thơ tuy phỏng theo cách luật thơ Đường, nhưng có nhiều biến cải: Trong một bài tứ
tuyệt hay bát cú, nhiều khi dùng xen những câu 6 tiếng, ở những vị trí không cố định.
Nhịp thơ Đường thường ngắt theo kiểu 4 - 3, còn ở đây có cả cách ngắt nhịp 3 - 4, 3 -
3, m
ột lối ngắt nhịp phổ biến của thi ca dân gian người Việt. Đây phải chăng chính là
l
ối thơ “Hàn luật” mà Nguyễn Thuyên là người khởi xướng. Để minh họa cho thể thơ
này, xin trích lục một bài thơ tứ tuyệt của Nguyễn Trãi:
"Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh
Quân tử khôn kham được thửa danh

Gió đưa hương, đêm nguyệt tạnh

Riêng làm của, có ai tranh"
Liên hoa (Hoa sen)
Manh nha hình thành t

ừ thờiTrần và có một số thành tựu đáng ghi nhận trong
th
ế kỉ XV nhưng đến sau này nền văn học chữ Nôm mới thực sự phát triển hầu hết về
thể loại. Về thơ đường luật Bạch vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngự
đề thi
ên hòa danh bách vịnh của Trịnh căn là một bước tiếp nối đầy ý nghĩa từ hai tập
thơ N
ôm ở thế kỉ XV.

Văn học chữ Nôm trong giai đoan này với thơ Nôm Nguyễn Trãi và các nhà thơ
hồng đức không thiếu phần trao chuốt, sáng đẹp hơn nhưng khi chúng nhìn ở phương
diện tổng thể .
Văn học chữ Nôm đến giai đoạn sau mới được chuyển mình đầy lạc quan như
vậy một phần khá quan trọng vào trog ưu thế của tiêng việt với khả năng đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của luc lượng đông đảo và phức tạp về khuynh hướng sáng tác .
Sự phát triển truyền bá sâu rộng văn học chữ Nôm trong thời kì này một mặt là
ti
ếp thu thành tựu của tác tác phẩm quốc âm thi tập chứa đựng ý thức đối lập .
1.5. Hai dòng văn học chủ yếu trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
1.5.1. Ch
ủ nghĩa yêu nước
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ qua
những chiến công hiển hách của dân tộc ta trãi qua các triều đai đấu tranh giữ nước
giành lại độc cho nước nhà, chống giặc ngoại xâm: Nhà Tiền Lê, Nhà Lý chống
Tống, nhà Trần chống Nguyên Mông, nhà hậu Lê chống giặc Minh, Quan Trung
22
chống giặc Thanh. Những chiến thắng vẻ vang của quân và dân ta không những tôi
luyện thêm ý chí, nâng cao bản lĩnh lòng tự hào của dân tộc, tự tin khí thế hào hùng
c
ủa dân tộc mà còn góp phần tạo ra truyền thống về đấu tranh đánh giặc giữ nước

tạo ra tiền đề và thành công hơn nữa cho văn học việt nam về Chủ nghĩa yêu nước.
Đặc điểm văn học lúc bấy giờ phải luôn gắn liền với quá trình lịch sử , tạo ra
hướng phát triển mới của nền văn học trung đại, định hướng cho sự phát triển của
văn học phải luôn gắn với c
a ngợi ỷ chí quật cường, khát vọng chiến đấu, chiến
thắng với lòng căm thù giặc sâu sắc và có ý thức trách nhiệm của những tấm
giương yêu nước, những anh h
ùng dân tộc đã quên thân mình đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc. Có thể nói đây là đặc điểm phản ánh rõ nhất mối quan hệ biện chứng giữa
lich sử dân tộc và văn học dân tộc.
Văn học trong giai đoạn này nội dung yêu nước được xem là mối quan tâm
hàng đầu của nhà văn . Những tác phẩm ấy luôn đề cao cảm hứng từ hiện thưc từ
cuộc đấu tranh dựng nước giữ nước sôi nỗi, hào hùng của người Việt Nam luôn là
ti
ếng nói của thời đại, luôn có phạm vi phổ biến và tác động mạnh mẽ đến nền văn
học nước nhà. Có những tác phẩm đã xuất hiện từ rất sớm để khuyến khích động
viên trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho đân tộc lam cho họ có thêm động lực
và ý chí về tinh thần chiến đấu, điển hình trong đó có Hịch Tướng Sĩ và tác phẩm
Nam quốc sơn hà cũng đã ra đời để động viên và tăng thêm nguồn sắc mạnh về tin
thần và sau đó là những tác phẩm ca ngợi hững chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta,
và hướng về một thời đại mới
Tụng giá hoàn kinh sư, Bình Ngô đai cáo.
Quá trình đấu tranh giữ nước đã tác động sâu sắc đến nền văn học nước
nhà, bồi đáp phát triển ý thức tự hào của dân tộc, tin thần độc lập tự chủ. Và cũng
cính vì thế, chế độ phong kiến có hưng thịnh hay suy vong nhưng nội dung yêu
nước trong văn học vẫn phát triển không ngừng.
Tác phẩm yêu nước trong thời kì chủ yếu tập trung thể hiên ở các khía cạnh
như: T
ình yêu quê hương con người đất nước, các tác giả đã thể hiên tấm lòng của
mình trước những hành đồng cướp nước và nêu cao tin thần đấu tranh bảo vệ quê

hương mảnh đất mà chính nơi mình sinh ra và lớn lên, và có nhiều tác phẩm đã thể
hiện niềm tự hào, nỗi nhớ quê hương và niềm hạnh phúc ao ước trở về quê và tác
gi
ả đã luôn trăn trở với khác vọng mãnh liệt chưa làm được gì cho quê hương và
23
không thực hiện cho quê hương. Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm đã thể hiện
lòng căm thù giặc sâu sắc qua những trang văn dầy khí chất hào hùng và đây cũng
là vũ khí đấu tranh lợi hại trên mặt trận chính trị. Tác phẩm thời này cũng đã nói
kên v
ề ý thức cũng như về trách nhiệm của mỗi con người việt nam mọi người phải
đoà
n kết và có trách nhiêm bảo vệ Tổ quốc giành độc lập cho dân tộc Việt Nam.
Những thập niên đầu thế kỉ XV , dân tộc ta đã đứng trước tình thế mất nước , trong
hoàn cảnh lúc bấy giờ nhiều tác giả đã thể hien tâm trạng đau xót và tuyệt vọng của
mình trước tình thế đầy khó khăn:
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma”
Trong hoàn cảnh đầy bế tắc, sự phát triển ngày càng lớn mạnh của cuộc
khởi Lam sơn có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân. Khắp
mọi nơi cuộc khỡi nghĩa bùng nổ với niềm tin và hi vọng lớn đưa đất nước lập lại
hòa bình:
“Lại trời cho gió cả lên
Cho c
ờ vua bình địn bay lên kinh thành”
Thắng lợi vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là bước ngoặc quan trọng
t
ạo nên tiền đề lớn cho lịch sử cũng như nền văn học nước nhà. Trong số tác phẩm
ấy B
ình Ngô Đại Cáo được xem là tác phẩm tiêu biểu có giá trị nhất, ngoài ra
chúng ta còn nh

ắc đến một số lượng lớn về thơ của Nguyễn Trãi.
Ti
ếp nối truyền thống yêu nước Nguyễn Mộng Tuân đã thể hiện về chủ
nghĩa yêu nước của mình qua việc nhấn mạnh những người anh hùng Lam Sơn,
nuôi chí căm thù:
“ Nghìn trượng đá cao kể cũng kim thang đá hiểm
Lưng trời vách đứng xem từng bách nhioj cửa quan
Núi bằng ngọn giáo
Cao dựng cờ phan”
Nhiều tác phẩm lúc bây giờ nói đến mảnh đất Lam Sơn đã tạo dưng nên
người tài, người anh h
ùng Lê Lợi có vai trò quan trọng trong cuộc khỡi nghĩa và
24
đưa đến thăng lợi và xem Lam Sơn là nơi ẩn than của con rồng thần chờ ngày dậy
sống
“Lam Sơn tự tích ngọa thần long
Thế sự huyền tri tai chưởng trung
Đại nhậm hữu quy thiên khãi thánh

Xương kì nhất ngộ thiên khã" (Đề Kiếm – Nguyễn Trãi )
Nhi
ều tác giả đã ca ngợi Lê Lợi như hình mẫu tập trung tiêu biểu nhất cho
con người yêu nước đại việt. Biết đâu cùng nỗi đau của dân tộc, nung nấu căm thù,
và kiên trì v
ượt qua thử thách nêu lên đúc sẵn để giành ngọn cờ chính nghĩa .
Nguyễn mộng Tuân đã kết thúc bài Lam Sơn phú bằng việc nêu cao đức
sáng thắm đượm phẩm chất trong sáng của Lê Lợi:
“… Lam sơn đất hiểm tựa trời
Vua ta dựng nghiệp khắp nơi về chầu
Núi cao hình sắc muôn màu


Đức cao lồng lọng chin châu đươm nhuần ”
Những người tán tụng người lãnh đạo của cuộc khỡi nghĩa Lam Sơn không
tránh khỏi có những hình ảnh quen thuộc mang tính ước lệ và ngôn từ mang đậm
màu s
ắc trang trọng của tác giả đối với Lê Lợi và đây cũng là hình ảnh trung tâm
cho văn
học yêu nước về chủ nghĩa anh hùng của dân tộc.
1.5.2. Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sang tạo nên và tất yếu phải phục vu lại cho con
người . V
ì vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần có để tác phẩm trở thành
b
ất tử với nhân loại. Điều này cũng có nghĩa là, trong xu hướng chung của phát
triển văn học nhân loại, văn học trung đại Việt Nam hướng đến thể hiên những vấn
đề của chủ nghĩa nhân đạo
. Khát vọng hòa bình, vấn đề quyền sống, quyền hạnh
phúc của con người, nỗi khổ đau của nhân dân trong các cuộc chiến tàn khốc, bóc
l
ột của các thế lực thống trị; khát vọng đấu tranh cho lẽ công bằng, tự do cho sự tồn
tại của những con người cá nhân có ý thức tự khẳng định mình.
T
ừ những đặc điểm trên cho thấy văn học trung đại việt nam có sự phát triển
theo xu hướng văn học của nhân loại. Cho nên nhiều tác phẩm như Truyện kiều
25
của Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm của Đăng Trần Côn, thơ Nôm của Hồ Xuân
Hương …là bước ngoặc lớn in đậm dấu ấn “tinh thần phục hưng”. Chủ nghĩa nhân
đạo cũng l
à tiếng nói phản kháng quyết liệt đối với thế lực phi nhân, khát vọng tình
yêu h

ạnh phúc và đây cũng là thành tựu nổi bật về nội dung trong tác phẩm đỉnh
cao ở thời kì mà chủ nghĩa nhân đạo quan tâm trong hiều tác phẩm của văn học .
Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười hai thế kỉ từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XIX. Đây là thời kì dân tộc ta đã thoát khỏi ách thống trị nặng nề của phong kiến
phương Bắc hơn một ngàn nă
m. Nền văn học trung đại Việt Nam gắn liền với quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Về nội dung văn học thời kỳ
này mang hai đặc điểm lớn đó l
à: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Cảm
hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi
yêu nước cũng là phương diện cơ bản của nhân đạo.Tuy vậy cảm hứng nhân đạo
cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao gồm những nguyên tắc đạo lí làm người,
những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau,
nh
ững khát vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng cảm thương
cho mọi kiếp người đau khổ, đặc biệt là với trẻ em, với phụ nữ và những người
lương thiện bị h
ãm hại, những người hồng nhan mà bạc mệnh, những người tài…
Nh
ững nội dung nhân đạo đó đã được thể hiện ở trong toàn bộ văn học trung đại,
những biểu hiện tập trung nhất là ở trong các tác phẩm văn học nửa sau thế kỉ
XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX. Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm
trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, đấu đá, tiêu diệt lẫn nhau.
Cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực.
Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghia Tây
Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đánh đuổi quân Xi
êm, quân Thanh, thống nhất đất nước.
Vua Quang Trung lên ngôi. Nguyễn Ánh không thể chống lại vua Quang Trung với
hạm đội mạnh nhất Thái Bình Dương bèn cầu cứu thực dân Pháp. Cuối cùng
Nguyễn Ánh có được sự trợ giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi lên ngôi,

Nguyễn Ánh phải để chúng buôn bán tự do tại cửa biển Sơn Trà
- Đà Nẵng. Không
lâu sau khi thành lập, triều đại Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương
triều phong kiến chuyên chế (1802-1945). Đây được xem là giai đoạn phát triển tột
bậc, rực rỡ nhất của văn học phong kiến Việt Nam. Cảm hứng xuyên suốt thời kì
này là c
ảm hứng nhân đạo. Bởi lúc này số phận và quyền sống của con người bị đe

×