CHƯƠNG III:
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CHO
TRẺ LỨA TUỔI MẦM NON
Theo các nhà tâm lí học thì hoạt động nghệ thuật xuất hiện như một bản
năng của trẻ em. Trẻ em ln có cố gắng vươn tới sự biểu hiện những xúc
động một cách trực tiếp, biểu cảm, chính vì vậy, cần hướng trẻ vào các hoạt
động nghệ thuật. Ở trường mầm non, thực chất đó là việc tổ chức các trẻ hoạt
động ở duới dạng luyện tập, trị chơi có tính chất mơ phỏng, sáng tạo xuất
hiện trong mối liên hệ với những cảm xúc nghệ thuật mang màu sắc thẩm mĩ.
Các hoạt động nghệ thuật nhằm đưa trẻ vào những tình huống và hoạt động
văn học bao gồm: Kể chuyện, đọc thơ, diễn cảm,đóng kịch và hoạt động tạo
hình theo tác phẩm văn học. Có thể coi đây là quá trình biến chủ thể tiếp nhận
thành chủ thể văn học. Trẻ được nhập thân vào các nhân vật, các tình huống
trong tác phẩm. Như vậy, nguyên tắc chung là, trước khi đưa trẻ vào hoạt
động nghệ thuật cơ phải tạo khơng khí văn chương và chuẩn bị tâm thế cho
trẻ để trẻ có thể cảm thụ tác phẩm được tốt.
I. Dạy trẻ học thuộc thơ
Cô dạy trẻ học thuộc truyện thơ bằng cách truyền khẩu, cô đọc mẫu bài
thơ và trẻ đọc theo cho đến khi thuộc. Tác phẩm văn học là một chính thể
nghệ thuật. Thơ có văn điệu, có âm thanh, có kết cấu rất chặt chẽ, câu nọ gọi
câu kia, vì thế, khi đọc cơ khơng làm phá vỡ hình thức kết cấu của bài thơ.
Phải để cho những âm thanh đó, những văn điệu đó lắng sâu vào trong tâm trí
trẻ để trẻ có thể tưởng tượng, hịa mình vào thế giới mộng mơ của thơ và
nhạc, và nhờ đó mà chúng có thể “ đọc” ra được phần nào ý nghĩa của bài thơ.
Dạy trẻ học thuộc thơ thực hiện trong tiết học được tiến hành theo trình
tự sau đây:
Gây hứng thú cho trẻ ( bằng tranh ảnh, con rối hoặc đàm thoại
ngắn…) để dẫn dắt tới bài thơ giới thiệu tên bài thơ và tên tác giả.
-
Cô đọc diễn cảm bài thơ hai ba lần, khi đọc cần truyền đạt đúng
tính chất, nhịp điệu của bài thơ.
-
Diễn giải về nội dung của bài thơ hoặc giải nghĩa từ khó ( nếu
-
Cơ dạy trẻ theo lối truyền khẩu. Cô đọc trước từng câu, trẻ đọc
cần)
theo cô đọc cho hết bài thơ rồi tiếp tục đọc như thế nhiều lần.
-
Kết thúc giờ học bằng một hình thức vui, thoải mái ( có thể dùng
các trị chơi, bài hát có nội dung gần gũi với bài thơ đã học, hoặc cơ cho cháu
xem hình ảnh…)
Việc dạy trẻ học thuộc một bài thơ không chỉ tiến hành trong một tiết
mà cịn có thể hai, ba tiết. Với những bài thơ dài, có thể cho trẻ học thuộc
từng đoạn. Ví dụ như bài Trăng ơi từ …..đâu đến! của Trần Đăng
Khoa….Tuy nhiên cần lưu ý, tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật
cho dù tách đoạn để dạy cháu học thuộc trong từng tiết cô cũng phải cho cháu
hiểu tồn bộ ý nghĩa của nó cũng như cấu trúc hình ảnh, sự hài hịa về âm
thanh của tác phẩm.
Để tích cực hóa sự chú ý của trẻ, trong tiết học, cơ có thể bổ sung
những cơng việc khác cho trẻ đỡ nhàm chán, mệt mỏi, ví dụ gợi cho trẻ nhớ
lại những bài thơ đã học trước đây hoặc thực hiên các trị chơi để rèn luyện
ngơn ngữ…
Cơ quan sát, bao quát cả lớp để biết được cháu nào có trí nhớ tốt, cháu
nào nhớ chậm hơn để động viên, giúp đỡ các cháu kịp thời.
Khi cho trẻ đọc, cố gắng hướng trẻ đọc đúng, không ngọng. Đọc diễn
cảm, thể hiện rõ ngữ điệu, nhịp điệu của bài thơ. Nếu trẻ khơng đọc đúng
hoặc khơng thể hiện ró ngữ điệu, cô đọc mẫu lại cho trẻ đọc theo. Đối với trẻ
bé, có thể vừa đọc, vừa kết hợp cử chỉ, điệu bộ minh họa.
Ví dụ: Dạy trẻ học thuộc bài thơ Đàn gà con của Phạm Hổ
“ Mười quả trứng trịn
Mẹ gà ấp ủ
Mười chú gà con
Hơm nay ra đủ
Lịng trắng, lịng đỏ
Thành mỏ, thành chân
Cái mỏ tí hon
Cái chân bé xíu
Lơng vàng mát dịu
Mắt đen sáng ngời
Ơi chú gà ơi
Ta yêu chú lắm;”
Cô giáo chuẩn bị
-
Tranh vẽ gà mẹ đang ấp trứng, có những quả trứng đã nở, chú gà
con thò đầu ra khỏi chỗ vỏ trứng bị vỡ.
Tranh đàn gà con lông vàng đứng xúm quanh gà mẹ
Cho trẻ xem tranh giới thiệu cho trẻ biết gà mẹ đang ấp trứng để trẻ
hiểu từ “ ấp ủ”.
Cô đọc mẫu bài thơ với giọng điệu cơ bản dịu dàng tha thiết, thể hiện vẻ
dẹp và tình yêu của gà mẹ đối với gà con.
Đoạn sau ( trừ hai câu cuối ) đọc nhanh hơn, biểu lộ niềm vui thích
ngạc nhiên trước hình ảnh đàn gà con mới nở thật xinh xắn, đáng yêu. Cô
nhấn mạnh thêm các tính từ “ tí hon”, “bé xíu,” “mát diu”, “sáng ngời” ở bốn
câu đầu của khổ thơ sau để khắc sâu vẻ đẹp của gà con.
Hai câu cuối khép lại với giọng đằm thắm, cô đọc với cường độ và nhịp
điệu vừa phải, thể hiện sự trìu mến:
“ Ơi chú gà ơi
Ta yêu chú lắm!”
Việc dạy trẻ học thuộc thơ có thành cơng hay khơng phụ thuộc rất nhiều
vào việc lựa chọ tác phẩm. Cần chọn những tác phẩm ngắn, thể thơ 2,3 chữ, 4
chữ, 5 chữ hoặc thơ lục bát; những tác phẩm có nhạc tính, có hình tượng đẹp,
có nội dung giáo dục tốt rõ ràng. Và nói chung là tác phẩm đem đến cho trẻ
niềm vui thẩm mĩ, niềm vui được sống lại trong những tình cảm mà tác phẩm
gợi ra cho chúng.
II.Dạy trẻ kể lại truyện
Việc dạy trẻ kể lại truyện phải được bắt đầu bằng việc cô kể diễn cảm
nhiều lần câu chuyện, sau đó, cơ dùng hệ thống các câu hỏi nhằm giúp trẻ nhớ
lại nội dung câu chuyện. Câu hỏi cần tăng dần mức độ chi tiết. Chỉ khi nào trẻ
hiểu và nhớ được nội dung câu chuyện, cô mới cho trẻ tập kể lại.
Ví dụ: Cho trẻ kể lại truyện Ba cô gái
Tiết 1
Sau khi kể 2 lần ( lần tứ hai có tranh minh họa ), cơ hỏi trẻ:
-
Bà mẹ sinh được mấy cô con gái?
Bà mẹ đối với các con như thế nào?
-
Khi nghe tin mẹ ốm, chị cả có về thăm mẹ hay khơng?
Khi nghe tin mẹ ốm, chị hai có về thăm mẹ không?
-
Khi nghe tin mẹ ốm, cô út đã làm gì?
Tiết hai
Cơ cũng kể lại truyện, sau đó hỏi trẻ theo nộ dung truyện, câu hỏi có thể
chi tiết hơn so với tiết 1:
-
Bà mẹ chăm sóc các con như thế nào?
-
Khi bị ốm, bà nhờ ai đi gọi các con về?
-
Sóc đến, chị cả đã nói gì với Sóc? Chị đã biến thành con gì?
Sóc đến, chị hai đã nói gì với Sóc? Chị hai biến thành con gì?
-
Sóc đến, cơ út đã nói gì với Sóc? Cơ út đã nói với Sóc như thế
nào? Sóc đã nói gì với cơ út?
Tiết 3
Cơ cho trẻ kể lại truyện. Việc cho trẻ kể lại truyện cũng có thể làm ở
tiết hai, nếu trẻ kể được. Khi cho trẻ kể lại, tùy điều kiện, cơ có thể phân cơng
trẻ kể từng đoạn. Cô chú ý sửa lỗi vè ngôn ngữ, động viên các cháu kể và gợi
ý những chỗ cháu bị quên. Yêu cầu cho việc trẻ kể lại truyện là giúp trẻ nhớ
cốt truyện và kể lại bằng ngơn ngữ mạch lạc. Trẻ có thể kể lại đúng nguyên
văn câu chuyện, cungc có thể kể lại đúng cốt truyện nhưng bằng ngôn ngưc
của trẻ. Phong cách thể hiện của cô cần mạnh dạn, hồn nhiên,…Cô không nên
áp đặt, đưa ra quá nhiều yêu casufalamf cho trẻ bị gò bó , cứng nhắc. Chỉ khi
nào trẻ kể tự nhiên thì chúng mới có thể bộc lộ cảm xúc của mình với câu
chuyện, với các nhân vật của truyện một cách thật nhất.
Dạy trẻ kể lại truyện chính là đưa trẻ dến với hoạt động nghệ thuật một
cách tự nhiên nhất. Qua việc kể lại truyện, ta biết được khả năng tiếp nhận,
cảm thụ tác phẩm văn học của tre đến mức nào. Mặt khác, đây cũng là dịp để
trẻ luyện tập ngơn ngữ, ướm mình vào tính cách của các nhân vật trong
truyện, đặc biệt là trẻ được phát huy trí tưởng tượng sáng tạo của mình.
Việc dạy trẻ kể lại truyện có thể chia ra hai dạng:
a)
Kể chuyện theo sự kiện
Đây là hình thức kể chuyện theo tri giác và trí nhớ. Trong hình thức kể
này, cảm giác, tri giác và trí nhớ đóng vai trị quan trọng trong sự nhận thức
mơi trường xung quanh. Cơ giáo có thể hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ chơi
hoặc kể chuyện theo tranh.
Kể chuyện theo đồ chơi là hình thức quan trọng giúp trẻ phát triển trí
tuệ, tình cảm và ngơn ngữ.
Trong cuộc sống của trẻ thơ, dồ chơi có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Nó
khơng chỉ là nguồn vui mà còn là phương tiện giúp trẻ làm quen với thế giói
xung quanh. Đị chơi giúp trẻ nhớ lại những ấn tượng và kinh nghiệm đã có;
đáp ứng nhu cấu tích cực, phát triển óc sáng tạo, tư duy và tư tưởng của trẻ.
Bên cạnh đó, những đị chơi đẹp cịn có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển óc
thẩm mĩ và năng lực cảm thụ cái đẹp của trẻ.
Nhìn những đị chơi đẹp, trẻ có thể kể lại những gì mà chúng ta nhìn
thấy. Khi chơi với những đị chơi, kể chuyện theo đò chơi, dưới sự hướng
dẫn của cơ, trẻ có thể sáng tạo ra những câu chuyện. Ở trường mầm non, có
các dạng kể sau:
-
Lập chuyện về một đị chơi
-
Lập chuyện về một nhóm đị chơi
Lập chuyện miêu tả đị chơi
Ví dụ
Lập chuyện theo một đồ chơi: ( Cháu Đức Tùng )
Búp Bê
Ngày xửa ngày xưa, có một em búp bê đi vào rừng hái nấm. Em mải hái
nấm quá, trời tối rồi mà em không biết, Búp Bê bị lạc không về nhà được. Em
sợ quá, ngồi khóc hu hu,…Lúc đó có bà Tiên đén hỏi:
-
Làm sao Búp Bê khóc?
Búp Bê bảo Búp Bê sợ quá nên khóc. Bà Tiên đưa em về nhà. Búp Bê
cảm ơn bà Tiên rồi chạy về với mẹ.
( Tư liệu của Nguyễn Xuân Khoa và Đinh Văn Vang )
Lập chuyện về một nhóm đị chơi: ( Cháu Đức Tùng )
Gà Trống, Mèo con và chó
Một buổi ssangs đẹp trời, Gà trống thực dậy sớm gáy ị,ó,o rồi sửa soạn
đi ăn cỗ. Trên đường đi, nó gặp mèo con. Mèo bảo:
-
Anh đi đâu đấy?
-
Tôi đi ăn cỗ đây.
-
Cho tôi đi với, hai nguwoif có đi được khơng?
-
Được chứ! Nào, chúng ta cùng đi!
Đi một qng thì gặp chó, chó bảo:
-
Cho tơi đi với, ba nguời đi thì vui hơn!
-
Mèo sợ chó,chạy lên phía truwowcsvaf nói:
Tơi nói đùa đấy, tơi khơng đi đâu!
-
Về sau, chỉ cịn chó và gà cùng đi ăn cỗ
( Tư liệu của Nguyễn Xuân Khoa và Đinh Văn Vang )
Lập chuyện về miêu tả đồ chơi: ( Cháu Đức Tùng )
Ơ Tơ cấp cứu
Đay là chiếc ơ tơ cấp cứu. Nó có cái bánh xe hình trịn, đen xi, có hai
cái đèn màu trắng và hai cái đèm ở đằng sau hai cái cửa. Một cái đèn màu
xanh nhấp nháy ở trên đầu xe.
Ơ tơ cấp cứu dùng để chở nguời ốm đến bệnh viện.
Cháu rất thích chiếc ơ tơ này. Lớn lên, cháu sẽ lái ô tô cấp cứu
( Tư liệu của Nguyễn Xuân Khoa và Đinh Văn Vang )
Kể chuyện theo tranh
Đây là hình thức kể chuyện đem đến cho trẻ niềm vui thích, qua đó, trẻ
được phát triển trí tuệ, tình cảm và ngôn ngữ.
Kể chuyện theo tranh thường được thực hiện ở lớp mẫu giáo lớn. Cần
chọn những bức tranh đẹp, màu sắc hài hòa, tươi sáng và rõ ràng, nhằm gây
ấn tượng,tác động trực tiếp vào óc thẩm mĩ và năng lực cảm thụ cái đẹp của
trẻ. Dạy các cháu biết nhìn vào bức tranh để kể lại là một việc rất khó. Bản
thân các cháu phải dựng được một cốt truyện có kết cấu lơ gích, tự đặt câu, tự
diễn đạt chính xác,…
Trước khi cho trẻ kể truyện theo tranh, cô cần giới thiệu để trẻ hiểu nội
dung chung của bức tranh, nắm được sự tương quan giữa các nhân vật, các sự
kiện trong tranh. Sau đó mới hướng dẫn trẻ kể.
Giáo viên có thể kể mẫu cho sả lớp nghe, sau đó cho trẻ kể trong các
giờ học tiếp theo.
b) Kể chuyện sáng tạo
Sau khi được nghe kể chuyện và dược cô kể lại truyện, trẻ mầm non đắc
biệt là trẻ mẫu giáo lớn đã có thể kể lại những câu chuyện mà chúng đã được
nghe một cách khá đầy đủ. Những cháu khá, trong khi kể đã có thể tự sáng tạo
về từ ngữ, thậm chí sáng tạo cả chi tiết và thể hiện sắc thái tình cảm thông qua
đối thoại của các nhân vật.
Nền tảng của sáng tạo là tưởng tượng. Tuy nhiên, tưởng tượng cịn có
liên hệ mật thiết với cảm xúc. Tưởng tượng sáng tạo đều chứa đựng những
yếu tố của cảm xúc. Chính vì vậy, trước khi dạy trẻ kể chuyện theo tranh thì
bản thân trẻ phải có cảm xúc với bức tranh đó. Tưởng tượng giữ vai trị quan
trọng trong sụ phát triển tình cảm của trẻ.
Tưởng tượng cũng có quan hệ mật thiết với tư duy. Tưởng tượng bổ
sung hoặc vạch ra những con đường mới giúp tư duy phát triển. Ngược lại, tư
duy cũng gạch ra cái lơ gích cho sự tưởng tượng hợp lí. Chính vì vậy, để phát
triển tưởng tượng sáng tạo, phải phát triển khả năng tư duy cho trẻ.
Sự phát triển tưởng tượng của trẻ mầm non phụ thuộc rất nhiều vào
kinh nghiệm, vào sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Nếu như hoạt động của trẻ
được tổ chức một cách hấp dẫn, phong phú thì qua đó, tưởng tượng của trẻ
cũng được phát tiển hơn. Nếu như trẻ nắm được kĩ năng kể chuyện sáng tạo
thì tưởng tượng của trẻ cũng sẽ sáng tạo. Vì vậy, cơ giáo cần động viên
khuyến khích trẻ sáng tạo và hướng dẫn tưởng tượng sáng tạo của trẻ đi đúng
hướng. Trong khi trẻ kể chuyện, cô phải theo dõi lơ gích và giá trị của câu
chuyện. Đơi khi, vì q miên man tưởng tượng để sáng tạo ra câu chuyện của
mình, trẻ đã bỏ quên những nhân vật chính, hoặc những chi tiết quan trọng
làm cho câu chuyện bị lệch hướng.
Tuy nhiên, cũng cần tránh tình trạng cô can thiệp nhiều quá làm cho tư
duy của trẻ bị cứng nhắc, dập khuôn. Nên nhớ rằng, chỉ có phát triển tư duy
linh hoạt thì mới có thể phát triển tượng sáng tạo cho trẻ.
III. TỔ CHỨC TRÒ CHƠI ĐĨNG KỊCH THEO TÁC PHẨM VĂN
HỌC
1. Trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học
Đây là một kiểu học mang tính chất trị chơi mà trẻ vơ cùng thích thú.
Trị chơi đóng kịch hay cịn gọi là trị chơi đóng vai theo tác phẩm văn học là
một hình thức đặc biệt giúp trẻ nhập vai vào nhân vật trong tác phẩm – một
trong những con đường giúp trẻ tiếp cận tác phẩm một cách có hiệu quả, đồng
thời giúp trẻ phát triển nhân cách về nhiều mặt, nhất là phát triển ngơn ngữ.
Có thể coi đây là bước đưa trẻ vào thực hành thử nghiệm nghệ thuật, biến chủ
thể tiếp nhận thành chủ thể văn học, bởi trẻ sẽ được nhập thân vào các nhân
vật văn học.
Trị chơi đóng kịch được coi là mợt hoạt động vui chơi đặc biệt của trẻ
ở trường mầm non. Nó khơng đơn thuần là trị chơi mà cịn là hoạt động mang
tính nghệ thuật. Đồng thời, nó cũng khơng chỉ là hoạt động nghệ thuật mà
phải mang đầy đủ đặc điểm của hoạt động trò chơi. Hai yếu tố này được kết
hợp chặt chẽ trong nội dung cũng như trong quá trình tổ chức vui chơi. Yếu tố
nghệ thuật trong trị chơi đóng kịch biểu hiện trước tiên là kịch bản. Đó là yếu
tố trung tâm giũ vai trị nịng cốt của nghệ thuật kịch. Có thể nói, sự thành
cơng của trị chơi đóng kịch bắt đầu từ kịch bản vừa là nội dung của cốt
truyện vừa là kế hoạch sẽ thực hiện, vì vậy, việc chuẩn bị kịch bản là yếu tố
hết sức cần thiết khi đưa trẻ vào trị chơi đóng kịch.
Trong trị chơi đóng kịch, những đặc điểm của nghệ thuật kịch cần được
chú ý. Trong khi chơi, trẻ cần được nhập vai theo đúng nhân vật đã được thể
hiện trong tác phẩm văn học bằng ngôn ngữ, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ,…và
phải tuân thủ theo kịch bản nhất định. Bởi vậy, để đóng được vai, hay nói
cách khác, để hóa thân vào các nhân vật mà mình tham gia, địi hỏi trẻ phải
phát huy cao độ các chức năng tâm lí như: ngơn ngữ, trí nhớ, tư duy, tưởng
tượng và cả xúc cảm của chính trẻ. Chính vì vậy mà có thể nói trị chơi đóng
kịch đã tác động mạnh đến sự phát triển nhiều mặt trong nhân cách của trẻ.
Trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học trở thành một trị chơi mang
tính nghệ thuật. Nhưng trị chơi đóng kịch đối với trẻ mầm non dù có mang
tính nghệ thuật đến đâu thì nó vẫn là trị chơi.
Yếu tố chơi trong trị chơi đóng kịch phải được thể hiện rõ ràng. Trước
hết là trong khi chơi, trẻ phải được vui thích, tự nguyện và được thỏa mãn với
việc đóng kịch. Trẻ được thỏa thuận khi phân vai, được thể hiện vai diễn một
cách tự nhiên khơng bị gị bó và sự thoải mái này phải được duy trì trong suốt
buổi chơi.
Khơng nên biến trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học trở thành một
hoạt động mang nặng tính nghệ thuật, lại càng khơng nên thiếu một số trẻ nào
đó trở thành những diễn viên chuyên nghiệp cho dù cháu đó tỏ ra là có năng
khiếu.
2. Một số tiêu chí để lựa chọn tác phẩm văn học chuyển sang trị
chơi đóng kịch cho trẻ em lứa tuổi mầm non.
Không phải tác phẩm văn học nào viết cho trẻ lứa tuổi mầm non cũng
dễ dàng chuyển thể thành kịch bản để cho các cháu tham gia trị chơi đóng
kịch. Các câu chuyện được lựa chọn không chỉ phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lí và khả năng tiếp nhận văn học của trẻ. Chúng tôi xin đề xuất một số tiêu chí
cho việc lựa chọn tác phẩm văn học để chuyển thể sang trị chơi đóng kịch
cho trẻ như sau:
a) Tiêu chí 1
Tác phẩm được lựa chọn chuyển thể cần có một cốt truyện mạch lạc,
các tình tiết hấp dẫn mang kịch tính, thu hút được sự chú ý của trẻ thơ.
Trong tác phẩm văn học, cốt truyện là nòng cốt cho sự phát triển các
mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật. trong thực tế văn học, cốt
truyện của tác phẩm hết sức đa dạng. Đối với trẻ mầm non, do khả năng nhận
thức còn hạn chế, ta chỉ nên lựa chọn những tác phẩm có cốt truyện đơn
tuyến, gọn, có nội dung nhỏ, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Tránh
chọn những tác phẩm có cốt truyện đa tuyến đa tuyến, trình bày một hệ thống
biến cố phức tạp.
b) Tiêu chí 2
Những tác phẩm được lựa chọn phải chứa nhiều mâu thuẫn. Những
mâu thuẫn, những xung đột của truyện phải được tập trung giải quyết. Không
nên chọn những tác phẩm ít kịch tính, những mâu thuẫn xung đột rời rạc,
không tập trung.
c) Tiêu chí 3
Các tác phẩm được lựa chọn phải có các tuyến nhân vật rõ ràng. Trong
truyện đồng thoại, nhân vật là những con vật hoặc những vật vơ tri nhưng đã
được nhân cách hóa để biết nói, biết cười, mang những đặc tính rất con người
cũng có thể chuyển thành kịch bản.
Cần lưu ý yếu tố này, khơng nên chọn những câu chuyện có những
nhân vật là nhân vật là những con vật hoang tưởng (ví dụ con rồng hoặc yêu
quái, ma quỷ,…) mà nên chọn những truyện có nhân vật là các con vật gần
gũi xung quanh cuộc sống của trẻ thơ. Nhân vật phải có hành động và gây ấn
tượng với trẻ về mặt ngoại hình, bởi sự hấp dẫn trẻ thơ trước hết là sự hấp dẫn
trực giác, từ những đặc điểm bề ngoài, những hành động cụ thể nhằm khắc
họa tính cách nhân vật một cách sâu sắc. Nên chọn những tác phẩm mà tính
cách nhân vật khơng q phức tạp; mỗi nhân vật cụ thể gắn với mỗi đức tính
cụ thể của con người như: tốt – xấu, dũng cảm – hèn nhát, chăm chỉ - lười
biếng,…phù hợp với nhận thức của trẻ.
d) Tiêu chí 4
Các tác phẩm được lựa chọn phải có hệ thống ngôn ngữ giản dị, dễ
hiểu, phù hợp với trẻ thơ.
Trước hết, ngơn ngữ trong tác phẩm phải chính xác, trong sáng và mang
nghĩa thực. Các lời nói hay đối thoại phải phù hợp với hành động và tính cách
của nhân vật. Sự trong sáng chính xác của ngơn ngữ khơng những giúp trẻ có
thể hiểu đúng, hiểu sâu sắc tác phẩm mà cịn giúp các em phát triển và hồn
thiện tiếng mẹ đẻ.
Ngơn ngữ cũng phải mang tính hàm súc, nghĩa là lời nói phải ngắn gọn,
cơ đọng, ý tứ rõ ràng.
Cuối cùng, cần chú ý tính tạo hình và tính biểu cảm của ngơn ngữ. Đó
là hai phẩm chất luôn kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ đắc lực trong quá trình tiếp
nhận văn học cũng như khi chơi đóng kịch của trẻ. Hệ thống ngơn ngữ mang
tính tạo hình và tính biểu cảm khơng chỉ gây hấp dẫn khi trẻ chơi mà cịn giúp
các em tư duy hình tượng, vốn là một thế mạnh của tuổi thơ. Đặc biệt, ngơn
ngữ biểu cảm cịn có khả năng ni dưỡng, khơi dậy những rung động thẩm
mĩ, góp phần giúp trẻ định hình được thái độ và tình cảm của mình trong cuộc
sống.
3. Kĩ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản
Kịch là thể loại hướng tới phản ánh những mâu thuẫn đã phát triển, trở
thành những xung đột gay gắt trong cuộc sống. Những xung đột ấy được thể
hiện, triển khai bằng những nhân vật trực tiếp bộc lộ những phẩm chất của
mình thơng qua những hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, bằng một cốt truyện
không quá phức tạp, nhưng dồn nén, tập trung, được xây dựng bằng những
chi tiết thật sự tiêu biểu, có ý nghĩa khái quát cao và gắn bó với nhau trong
một quan hệ nhân quả chặt chẽ.
Trong kịch, vai trò của nhân vật vô cùng quan trọng. Nhân vật vừa là
người tham gia vào câu chuyện, vừa là người kể lại truyện nên thường có tính
cách nổi bật, rõ ràng và hết sức phong phú, sinh động. Vì thế, khi chuyển thể
phải chú ý tới ngôn ngữ nhân vật sao cho thật chọn lọc và cô đọng.
Ngôn ngữ trong kịch bản là ngôn ngữ nhân vật, được tổ chức dưới ba
hình thức:
- Độc thoại: Là lời nhân vật tự nói với mình, chủ yếu dùng để bộc lộ
tâm trạng.
Đối thoại: Là lời nói của các nhân vật nói với nhau. Qua đối
thoại của các nhân vật, ta không chỉ hiểu về bản thân các nhân vật mà còn
hiểu cả những sự kiện và những vấn đềcuar cuộc sống mà tác giả muốn thể
hiện. Trong kịch, đối thoại là ngôn ngữ cơ bản nhất.
-
Đàm thoại: Là lời nhân vật nói trực tiếp với khán giả, nhằm giải
thích, lưu ý một chi tiết nào đó trong tác phẩm.
Ngơn ngữ nhân vật kịch phải phù hợp với tính cách từng nhân vật,
nhưng nhìn chung nó có những đặc trưng nổi bật là:
- Tính hành động;
- Tính khẩu ngữ;
- Tính tổng hợp;
- Tính hàm súc;
Khi chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản để tổ chức trị chơi
đóng kịch cho trẻ mầm non, cần chú ý những tiêu chí như đã nêu ở trên (trong
mục 2). Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm, khi cải biên tác phẩm, có thể phải bố
trí, sắp xếp, điều chỉnh lại một số chi tiết và ngôn ngữ nhân vật cho phù hợp;
cải biên những lời kể của tác giả trong tác phẩm thành lời người dẫn chuyện
ngắn gọn, sinh động và hấp dẫn. thậm chí có những chi tiết phải thay đổi hẳn.
Ví dụ: Trong truyện chú Dê Đen, chi tiết Sói ăn thịt Dê trắng có thể chuyển
thành Sói dọa ăn thịt Dê Trắng, Dê Trắng kêu Dê Đen tới cứu.
4. Các bước tiến hành tổ chức trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học
Như đã nói trong phần trên, trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học là
một loại hình vui chơi đặc biệt ở trường mầm non. Trò chơi này mang tính
nghệ thuật rất rõ nét, do đó, hình thức tổ chức của nó khơng giống hồn tồn
các loại trị chơi khác. Trị chơi đóng kịch địi hỏi phải có sự hướng dẫn, tổ
chúc một cách cơng phu của cô giáo.
a) Chuẩn bị
- Kịch bản
Sau khi lựa chọn được tác phẩm phù hợp ( theo những tiêu chí ở trên),
cô giáo tiến hành chuyển thể sang kịch bản. Lưu ý khi chuyển thể, có thể phải
bố trí, sắp xếp, điều chỉnh lại một cách sáng tạo ngôn ngữ của các nhân vật
cũng như một số tình tiêt của truyện cho phù hợp. Những truyện quá dài, có
thể lược bỏ, chỉ giữ lại những trình tiết chính của truyện.
- Cho trẻ tiếp xúc vơi kịch bản
Sau khi đã hồn thiện, cơ cho trẻ tiếp xúc với kịch bản. Sự tiếp xúc này
cũng rất đặc biệt, bởi các cháu chưa biết chữ nên chưa thể đọc trực tiếp được.
Cô giáo phải đọc nhiều lần, phải trò chuyện với trẻ về tác phẩm để trẻ ghi nhớ
và nhập vai vào nhân vật.
Có thể cho trẻ xem tranh minh họa để trẻ tái tạo được hình ảnh nhân vật
trong khi chơi và các sự kiện mà nhân vật tham gia.
Trong khi trị chuyện với trẻ về tác phẩm, có thể đặt những câu hỏi giúp
trẻ khắc sâu những ấn tượng về nhân vật, ví dụ:
+ Sự việc này xảy ra ở đâu? Trong hoàn cảnh nào?
+ Các nhân vật đang làm gì?
+ Vì sao lại làm thế?
+ Nhân vật có tư thế như thế nào?
…
Trong khi đọc kịch bản cho trẻ nghe, cô cần giúp trẻ phân biệt được sắc
thái giọng điệu của nhân vật để từ đó giúp trẻ khắc họa thêm tính cách của
nhân vật.
b) Phân vai
Việc phân vai cho trẻ đóng theo các nhân vật khơng nên gị ép hoặc bắt
trẻ đóng những vai mà trẻ khơng thích. Giáo viên cho trẻ nhận vai hoặc gợi ý
cho trẻ nhận các vai. Thường thì trẻ thích đóng những vai dũng cảm, mưu trí,
thơng minh,…chứ khơng thích đóng những vai hèn nhát, lười biếng,…Cơ
giáo cần giải thích để trẻ hiểu đây chỉ là đóng kịch, như vậy,khi nhận vai chơi,
trẻ mới cảm thấy hứng thú, cho dù đó là tuyến nhân vật tiêu cực.
Sau khi đã phân vai, cô giáo cùng các cháu luyện tập các động tác phù
hợp với vai của từng cháu. Các cháu được tự do sáng tạo theo nhận thức và trí
tưởng tượng của mình. Cơ giáo chỉ hướng dẫn, gợi ý chứ không nên can thiệp
quá lộ liễu làm cho trẻ mất hứng thú, không động viên khích lệ được sự sáng
tạo của trẻ.
Mỗi trị chơi có thể làm đi làm lại khoảng 3 - 4 lần cho các “nhóm diễn
viên” khác nhau, cố gắng lôi cuốn được tất cả các cháu cùng tham gia vào trị
chơi. Sau cuộc chơi, có thể tổ chức những cuộc đàm thoại nhỏ để nhận xét về
những vai trẻ đã thể hiện, giúp trẻ khắc sâu hơn hành động và tính cách của
nhân vật cũng như nội dung của câu chuyện.
c) Sân chơi, đạo cụ và hóa trang
Đối với trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học, việc trang trí có ý
nghĩa rất quan trọng. Trang trí góp phần vào việc tạo ra ấn tượng về một vở
kịch thực sự.
Có thể sử dụng những thứ có sẵn trong lớp như bàn ghế, cây cảnh,…
Một số mặt nạ cơ có thể tự vẽ rồi cho các cháu tô màu hoặc dán giấy
màu lên quần áo mà các cháu mặc để đong vai các nhân vật,…
Việc bài trí sân chơi phải hết sức hài hịa, tạo khơng khí thực sự hấp
dẫn, lơi cuốn trẻ tham gia vào trị chơi (khơng nên trang trí cầu kì, rườm rà
nhưng cũng khơng nên q đơn giản).
Dưới đây là hai kịch bản được chuyển thể từ tác phẩm văn học để học
viên tham khảo.
Kịch bản 1: CHUYỂN THỂ TRUYỆN
CHÚ DÊ ĐEN
(Chương trình Chăm sóc giáo dục mầm non 5 – 6 tuổi)
(Sân khấu – Phòng học được giả định như một khu rừng. Cô dùng
những chậu cây giả, những lãng hoa để bài trí cho phù hợp. Nếu chơi đóng
kịch ở ngồi trời, cơ có thể tận dụng những bụi cây ở sân trường vườn
trường,…)
Người dẫn chuyện: Trong một khu rừng xinh đẹp, vào một buổi sáng
mát mẻ, một chú Dê Trắng đi tìm lá non để ăn và bước suối trong để uống.
Dê Trắng: (Một cháu đeo mặt nạ Dê Trắng đi ra sân khấu, Dê Trắng đi
đi lại lại vẻ tìm kiếm)
- Ơi! Rừng mới tuyệt làm sao! Biết bao lá non ngon lành!( Nghiêng tai
nghe ngóng). Ta nghe có cả tiếng suối chảy róc rách đâu đây, chắc là nước
suối mát lắm. ta phải đi ra suối đây.
Người dẫn chuyện: Bỗng nhiên một con Sói xuất hiện.
Sói:
(Một cháu đeo mặt nạ Sói thấp thống sau các lùm cây, nhìn
Dê Trắng một cách thèm thuồng). Mặt nạ Sói có hai răng nanh to, nhọn, vẻ
hung dữ.
Bất chợt Sói nhảy từ trong bụi cây rachawnj trước mặt Dê Trắng, một
tay chống sườn, một tay chỉ thẳng vào mặt Dê trắng và quát lớn:
- Dê trắng kia mày đi đâu?
Dê Trắng: (Vẻ run sợ, lắp bắp) Tôi …tơi đi…đi tìm lá…lá non…
Sói:
(Nhìn thấy đơi sừng trên đầu Dê Trắng, hơi hốt hoảng, lùi
lại một chút nhưng vẫn qt lớn):
- Trên đầu mày có gì?
Dê Trắng: (lúng túng): Trên đầu tơi…có…có sừng…(Dê Trắng lấy
đơi tay sờ lên đơi sừng, Run rẩy).
Sói: (Quay ra nói với khán giả)
-Con Dê Trắng đầu nó có sừng, nhưng nó nhút nhát và sợ hãi, vậy thì
cũng chẳng có gì đáng sợ. Phải tìm cách ăn thịt nó mới được.
Sói tiến lại gần Dê qt lớn:
- Dưới chân mày có gì?
Dê Trắng: (Run lẩy bẩy, lùi lại một bước)
- Dưới…dưới chân…tơi…tơi…có móng…
Sói: ( Tiến lại gần Dê Trắng, vẻ ngạo mạn, đắc thắng)
- Này, Dê Trắng hãy cho ta biết: Trái tim mày thế nào?
Dê Trắng: (Lùi hẳn lại sát bụi cây giọng yếu ớt)
- Trái…trái…tim tơi…đang…run sợ…
Sói: (khối chí nhảy cỡn lên)
- A ha, Dê Trắng ơi, tao sẽ ăn thịt mày! (xuýt xoa) Một bữa điểm tâm
ngon lành. Hôm nay thật là một ngày đẹp trời!
Dê Trắng: ( Cuống quýt chạy vịng quanh khóc huhu)
- Anh dê đen ơi cứu em với cứu em với, cứu em với,…!
( Sói vẫn đắc chí nhìn thái độ thảm hại của dê trắng)
Dê Đen: (một cháu đeo mặt nạ dê đen từ trong chạy ra)
- Sao thế Dê Trắng? Có chuyện gì vậy? (Chọt nhìn thấy Sói), À hóa ra
là mày!
(Sói chững lại, Dê Trắng chạy đến nấp sau Dê Đen)
Sói: (hỏi dê đen)
- Mày đi đâu?
Dê Đen: Tao đi tìm kẻ nào hay gây sự!
Sói: (run run)
- Thế, thế trên đầu mày có gì?
Dê Đen: Trên đầu tao có đơi sừng bằng kim cương!
Sói: (lùi lại một bước)
- Cịn dưới chân mày có gì?
Dê Đen: Dưới chân tao có món bằng đồng!
(Dê Đen làm động tác xắn tay áo vẻ đầy thách thức)
Sói: ( Giọng nhỏ xuống yếu ớt)
- Thế…thế…trái tim mày thế…nào?
Dê Den: Trái tim thép của tao bảo tao cắm đôi sừng kim cương và
những chiếc móng chân bằng đồng này vào bụng mày!
Nào, Sói, hãy lại đây!
(Sói kêu lên sợ hãi và vội vã chạy thẳng vào rừng)
Dê Trắng: ( Reo lên)
Hoan hô, hoan hơ anh Dê Đen, sói chạy đi rồi!
Dê Đen: (Dê Đen cầm tay Dê Trắng dịu dàng nói)
Đấy em xem, những kẻ ác bao giỡ cũng run sợ trước lòng dũng cảm của
chúng ta.
Kết thúc: (Tất cả lớp cùng nắm tay nhau hát vang: “Cầm tay nhau cùng
đi chơi đi khắp nơi hái bông hoa tươi…”)
Kịch bản 2: CHUYỂN THỂ TRUYỆN
BÁC GẤU ĐEN VÀ HAI CHÚ THỎ
(Chương trình chăm sóc giáo dục mầm non 4 – 5 tuổi)
( Sân khấu – Phòng học được giả định là một khu rừng. Phía hai góc để
mơ hình hai ngơi nhà nhỏ: một ngôi nhà của Thỏ Trắng và một ngôi nhà của
Thỏ Nâu. Cô cùng những chậu cây giả, những lãng hoa để bài trí cho phù
hợp. Nếu chơi đóng kịch ở ngồi trời, cơ có thể tận dụng những bụi cây ở sân
trường, vườn trường,…)
Người dẫn truyện: Vào một ngày chủ nhật, bác gấu đen đi thăm các
bạn ở khu rừng bên. Đường xa quá, bác đi suốt từ sáng, bây giờ mới về tới
đây.
Bác Gấu Đen: (Một cháu đeo mặt nạ Gấu đen bước ra, dáng vẻ mệt
mỏi)
- Ta phải nghỉ một lúc thôi
Gấu đen ngồi xuống một tảng đá bên đường (một cái ghế đã để sẵn).
- Chà mát quá!
Gấu đen nghe ngóng rồi hốt hoảng (cơ giáo có thể dùng âm thanh để tạo
tiếng sấm):
- Thơi chết sắp có cơn mưa rồi. Ta phải mau mau tìm chỗ trú mưa thơi!
Người dẫn truyện: Bác Gấu đen chạy loanh quanh rồi dừng chân trước
nhà Thỏ Nâu, bác gấu đen gõ cửa.
Thỏ Nâu:
( Một cháu đeo mặt nạ thỏ nâu, hỏi với giọng ngái ngủ):
- Ai đấy? Ai gõ cửa nhà tôi đấy?
Bác Gấu Đen: Bác Gấu đen đây, trời mưa to quá, cho bác trú nhờ với
nào.
Thỏ Nâu: (không ra mở cửa, giọng càu nhàu):
- Bác Gấu à, bác không trú ở đây được đâu. Nhà cháu thì bé, mà
bác thì to thế, bác sẽ làm đổ nhà cháu mất.
Bác Gấu Đen: Bác đi nhẹ thôi, bác không làm đổ nhà cháu đâu!
Thỏ Nâu: ( Giọng cáu kỉnh):
- Cháu đã bảo không được mà! Bác sang nhà bạn Thỏ Trắng mà trú
nhờ, nhà bạn ấy chắc chắn hơn.
Người dẫn chuyện: Trời vẫn mưa như trút, gió thổi ào ào, bác gấu đen
đã bị ướt. Không xin vào trú nhờ nhà Thỏ Nâu được, bác Gấu lại chạy sang
nhà Thỏ Trắng. Bác vừa vuốt nước mưa trên mặt, vừa gõ cửa.
Thỏ trắng: ( Một cháu đeo mặt nạ Thỏ Trắng đang ngồi đọc sách,
nghe tiếng gõ cửa, Thỏ Trắng đặt sách lên bàn và hỏi, giọng lo lắng):
- Ai đấy? Ai gõ cửa nhà tôi đấy?
Bác Gấu Đen: Bác Gấu đen đây, trời mưa to quá, Thỏ Trắng cho bác
trú nhờ có được không?
Thỏ trắng: (vội vàng ra mở cửa)
- Chào bác Gấu đen, mời bác vào nhà cháu, bác ướt hết cả rồi!
Thỏ Trắng vào trong, bưng ra một đĩa bánh và một chiếc khăn bông.
Thỏ Trắng đưa khăn chơi cho bác gấu:
- Bác Gấu lau người đi, kẻo bị cảm lạnh đấy. Cháu cịn một ít bánh bác
ăn cho dỡ đói.
Bác Gấu Đen: (cảm động)
- cảm ơn chú Thỏ trắng. Bây giờ thì bác thấy hết mệt, hết rét rồi. Bác
cũng khơng cảm thấy đói.
Người dẫn chuyện: Bỗng nhiên hai bác cháu nghe có tiếng gõ cửa và
tiếng khóc thút thít. Thỏ Trắng vội chạy ra mở cửa.
Thỏ Nâu: (Nhìn thấy Thỏ Trắng thì khóc hu, hu,…)
- Bạn Thỏ Trắng ơi nhà tơi bị đổ mất rồi, bạn cho tôi trú nhờ với,
hu,…hu…
Thỏ Trắng: (Vừa dắt Thỏ Nâu vào nhà vừa nói):
- Khơng sao đâu, bạn vào nhà tơi đi, nhà tơi cịn rộng mà!
Bác Gấu Đen: (Lấy kăn bông lau người cho Thỏ Nâu):
- Cháu Thỏ Nâu đừng khóc nữa, sáng mai bác sẽ dựng lại nhà cho
cháu!
Thỏ Trắng:(Đến bên Thỏ Nâu nhanh nhảu)
- Phải đấy, bạn thỏ nâu, sáng mai mình với bác gấu sẽ dựng lại nhà cho
bạn, chỉ một loáng là xong thơi mà.
Thỏ Nâu: ( nhìn bác gấu, rụt rè nói):
- Bác Gấu đen ơi, lúc nãy cháu có lỗi với bác, bác có giận cháu khơng?
Cháu xin lỗi bác ạ.
Bác Gấu Đen: (Đặt một tay lên vai Thỏ Nâu)
- Bác không giận cháu đâu. Bây giờ bác cháu ta cùng đi ngủ. Ngày mai,
chúng ta sẽ dậy sớm dựng lại nhà cho Thỏ Nâu.
(Bác Gấu đen dang rộng hai tay ôm Thỏ Trắng Và Thỏ Nâu, rối cùng
ngồi chụm vào, đầu cúi xuống)
Người dẫn chuyện: Đêm hơm đó, ba bác cháu ôm nhau ngủ một giấc
ngon lành đến sáng.
Kết thúc: Cả lớp vừa hát, vừa vận động theo nhạc: “Trời nắng, trời
nắng, Thỏ đi tắm nắng,…”
HƯỚNG DẪN TỰ HỌC
I. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Xuân Khoa. Giáo trình Phương pháp phát triển ngơn
ngữ cho trẻ mẫu giáo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
2.
Nguyễn Xuân Khoa – Đinh Văn Vang. Phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo qua thơ truyện, NXB đại học sư phạm, 2003.
3.
Phan Trọng Luận và Nguyễn Thanh Hùng. Phương pháp dạy học
văn, nhà xuất bản giáo dục,H,. 1988
4.
Lã Thị Bắc Lý. Giáo trình văn học trẻ em, NXB đại học sư
phạm, H, 2003.
5.
Nhiều tác giả. Văn học và phương pháp giúp trẻ làm quen với tác
phẩm văn học, trung tâm nghiên cứu đào tạo bồi dưỡng giáo viên, H, 1993.
6.
Nhiều tác giả. Chương trình Chăm sóc và giáo dục mẫu giáo (3-
4 tuổi),NXB Giáo dục, H, 2000.
7.
Nhiều tác giả. Chương trình chăm sóc và giáo dục mẫu giáo (4 –
5 tuổi), NXB Giáo dục, H, 2000.
8.
Nhiều tác giả. Chương trình chăm sóc và giáo dục mẫu giáo (5 –
6 tuổi), NXB giáo dục, H, 2000.
9.
Nhiều tác giả. Hướng dẫn thực hiện đổi mới hình thức tổ chức
hoạt động giáo dục (trẻ 3 – 4 tuổi), NXB giáo dục, H, 2005.
10.
Nhiều tác giả. Hướng dẫn thực hiện đổi mới hình thức tổ chức
hoạt động giáo dục (trẻ 4 – 5 tuổi), NXB giáo dục, H.,2005.
11.
Nhiều tác giả. Hướng dẫn thực hiện đổi mới hình thức tổ chức
hoạt động giáo dục (trẻ 4 – 5 tuổi), NXB Giáo dục, H, 2005.
12.
Những truyện hay dành cho trẻ mẫu giáo (Bắc lí tuyển chọn),
NXB Giáo dục, H., 2003.
13.
Nhiều tác giả. Tiếng việt – văn học và phương pháp giáo dục,
NXB giáo dục, H., 1998.
14.
Nhiều tác giả. Thơ, truyện dành cho bé, NXB Giáo dục, H., 2005
(2 tập)
15.
Nguyễn Ánh tuyết: Tâm lý học trẻ em, NXB giáo dục, H., 1998.
II. CÂU HỎI
1.
Hãy phân tích vai trị của các tác phẩm văn học trong việc giáo
dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non.
2.
Tác phẩm văn học có ý nghĩa như thế nào trong việc giáo dục
lòng nhân ái cho trẻ mầm non?
3.
Tầm quan trọng của các tác phẩm văn học trong việc phát triển
trí tuệ cho trẻ lứa tuổi mầm non?
4.
Hãy phân tích những đặc điểm tâm lí có liên quan đến việc tiếp
nhận văn học của trẻ lứa tuổi mầm non?
5.
Hãy nêu vắn tắt dạy học theo quan điểm tích hợp ở trường mầm
non.
6.
Phân tích những ưu điểm của dạy học theo quan điểm tích hợp ở
trường mầm non hiện nay?
7.
Tại sao nói hoạt động góc sẽ tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội được
tiếp xúc với tác phẩm văn học nhiều hơn?
8.
Tại sao lại phải đọc, kể tác phẩm văn học cho trẻ em nghe?
9.
Những đặc điểm tâm lí có liên quan tới việc tiếp nhận tác phẩm
văn học của trẻ kứa tuổi mầm non?
10.
Đọc truyện khác với kể chuyện như thế nào?
11.
Thế nào là đọc, kể diễn cảm tác phẩm văn học? Khi đọc, kể diễn
cảm cần lưu ý những vấn đề gì?
12.
Trình bày các phương pháp đọc và kể tác phẩm văn học cho trẻ
13.
Hãy phân tích những ảnh hưởng của việc sử dụng tranh ảnh, tài
nghe.
liệu minh họa đến sự lĩnh hội các tác phẩm văn học của trẻ lứa tuổi mầm non.
14.
Việc sử dụng những câu hỏi trao đổi, gợi mở (đàm thoại) khi
đọc, kể tác phẩm văn học cho trẻ nghe có ý nghĩa gì?
15.
u cầu của việc dạy trẻ học thuộc thơ?
16.
Yêu cầu của việc dạy trẻ kể lại truyện?
17.
Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo cần lưu ý những điểm gì?
18.
Những lưu ý khi tổ chức trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn
học cho lứa tuổi mầm non?
19.
Các tiêu chí lựa chọn tác phẩm văn học chuyển thể sang kịch
bản để tổ chức trị chơi đóng kịch cho trẻ mầm non?
20.
điểm nào?
Trị chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học khác với trị chơi ở
III. BÀI TẬP
1.
Hãy phân tích vẻ đẹp của thiên nhiên được thể hiện trong bài thơ
Trăng sáng.
“Sân nhà em sáng quá
Nhờ ánh trăng sáng ngời
Trăng tròn như cái đĩa
Lơ lửng mà không rơi.
Những hôm nào trăng khuyết
Trông giống con thuyền trôi
Em đi, trăng theo bước
Như muốn cùng đi chơi”
2.
(Nhược Thủy)
Bài thơ Hoa cúc vàng Có ý nghĩa như thế nào đối với việc phát
triển nhận thức và ngôn ngữ của trẻ mầm non?
“Suốt cả mùa đông
Nắng đi đâu miết
Trời đắp chăn bơng
Cịn cây chịu rét
Sớm nay nở hết
Đầy sân cúc vàng
Thấy mùa xuân đẹp
Nắng lại về chăng?
Ồ chẳng phải đâu
Mùa đơng nắng ít
Cúc gom nắng vàng
Vào trong lá biếc
Chờ cho Tết đến
Nở bung thành hoa
Rực vàng hoa cúc
Ấm vui mọi nhà”
Nguyễn Văn Chương
(trích Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo 5 – 6 tuổi)
3.
Phân tích hình ảnh chú Bồ Nơng trong truyện Bồ Nơng có hiếu
để thấy rõ tấm lòng hiếu thảo của người con đối với người mẹ?
BỒ NƠNG CĨ HIẾU
Thế chỉ cịn lại hai mẹ con Bồ Nông ở lại nơi nắng bỏng cát rang này.
Từ thưở xa xưa, họ hàng nhà Bồ Nông không chịu nổi nóng nực.
Phải năm thời hạn hán, mưa xuân chưa tan, gió nồm đã tới. Rồi cứ như
bị đổ nghiêng, cả một vịm trời xanh ngắt rót mãi ánh nắng chói chang xuống
khiến cho mọi nhà Bồ Nơng phải rủ nhau rời phương Nam lên phương Bắc.
Có hai mẹ con chú Bồ Nông kia chẳng may bị nạn. Trên đường đi, bồ
Nông mẹ bị nắng chiếu quáng mắt, lao phải cành gai tre, suýt nữa gãy cánh.
Bồ Nông con dìu mẹ ẩn vào trong một cái hốc cây, chờ cho mẹ khỏi mới đi
tiếp. Thấy vậy, các bác Bồ Nông khác cùng đi cũng dừng lại giúp đỡ một tay.
Một ngày,rồi hai ngày, Bồ Nông mẹ vẫn chưa nhấc cánh lên được. Mà
ngồi kia, trời cứ nóng hầng hậc như nung. Như thế này, không thể đuổi theo
đàn được nữa. Bác Bồ Nơng hàng xóm cần phải đuổi theo đàn con của bác,
bác gọi chú Bồ Nông bé bỏng lại gần, dặn dò mọi việc cần thiết trong khi
chăm sóc mẹ…
Tù buổi ấy, Bồ Nơng con hết dắt mẹ tìm nơi mát mẻ, lại mị mẫm đi
kiếm mồi. Đêm đêm, khi gió thổi hiu hiu, chú Bồ Nơng nhỏ bé một thân một
mình ra đồng xúc tép, xúc cá,…Trên đồng nẻ, dưới ao khô, cua cá chết gần
hết. Mặt sơng chỉ cịn xăm xắp nước, xơ xác ao bèo. Bắt được con mồi nào,
chú Bồ Nông cũng ngậm vào miệng để phần mẹ.
Trong đêm vắng, chú Bồ Nông lặn lội đi kiếm mồi. Có đêm, Bồ Nơng
đi tới gần sáng vẫn chưa xúc được gì. Đã định quay về, nhưng cứ nghĩ đến mẹ
đang ốm đau, chú lại gắng gượng mị thêm.
Dạo anh em Bồ Nơng cịn bé, mẹ vất vả nuôi cả đàn con. Mỗi khi trở về
nhà, nẹ lại há mỏ ra cho các con ăn no mà bụng mẹ vẫn đói cịn cào…Các con
càng lớn, mẹ càng vất vả. Bữa bữa nuôi con, mẹ chỉ lo con đói. Giờ đây, khi
đã biết nghĩ, chú Bồ Nông mới hiểu rằng, mẹ đã nhịn để cho các con ăn. Cứ
nghĩ tới điều đó, Bồ Nơng lại thấy mình mạnh dạn, khỏe khoắn hơn lên. Và
không một lần nào đi kiếm mồi mà Bồ Nông chịu trở về không.
Ngày này tiếp ngày nọ, đêm này rồi đem nữa, chú Bồ Nông cứ dùng
miệng làm cái túi đựng thức ăn nuôi mẹ qua trọn mùa hè, sang mùa thu.
Tới mùa đông, đàn Bồ Nông từ phương Bắc trở về, ai nom chú Bồ
Nông nuôi mẹ ốm cũng thấy ái ngại. Cái mỏ xưa vốn gọn ghẽ, nay chảy xệ
xuống giống hệt cái túi.
Lòng hiếu thảo của chú Bồ Nông đã làm cho tất cả các chú Bồ Nông
khác cảm phục và noi theo.
Ngày nay, chú Bồ Nơng nào cũng có cái túi ở miệng. Cái túi được dùng
vào nhiều việc khác nhau. Nó vừa là chiếc lưới, cái giậm, cái nơm đi đánh cá,
vừa là kỉ niệm hiếu thảo của một đứa con ngoan,…
Phong Thu
(Trích những truyện hay dành cho trẻ mầm non, NXB giáo
dục, 2003)
4.
Thiết kế hình thức tổ chức hoạt động góc thư viện cho trẻ lớp
mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi.
5.
Thiết kế hình thức tổ chức hoạt động góc thư viện cho trẻ lớp
mẫu giáo nhỡ 4 – 5 tuổi
6.
Thiết kế hình thức tổ chức hoạt động góc thư viện cho trẻ lớp
mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi
7.
Điều tra và đánh gí việc thực hiện chương trình đổi mới ở địa
phương của anh (chị).
8.
Xác định giọng điệu cơ bản và ngữ điệu khi đọc các tác phẩm
văn học sau đây:
BÁC HỒ CỦA EM
(Trích)
“Khi em ra đời
Đã khơng cịn Bác
Chỉ còn tiếng hát
Chỉ còn lời ca
Chỉ còn câu chuyện
Chỉ còn bài thơ…
Mà em vẫn thấy
Bác sao rất gần
Năm điều Bác dạy
Mãi còn ngân vang”
Phan Thị Thanh Nhàn
(Trích trong Chương trình chăm sóc giáo dục mầm
non – Lớp 3 tuổi)
RONG VÀ CÁ
Có cơ rong xanh
Đẹp như tơ nhuộm
Giữa hồ nước trong
Nhẹ nhàng uốn lượn
Một đàn cá nhỏ
Đuôi đỏ lụa hồng
Quanh cô rong đẹp
Múa làm văn công
(Phạm Hổ)
(Trích trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm
non – lớp 4 tuổi)
LÀM ANH
Làm anh khó đấy
Phải đâu chuyện đùa
Với em gái bé
Phải ‘người lớn” cơ!
Khi em bé khóc
Anh phải dỗ dành
Nếu em bé ngã
Anh nâng dịu dàng
Mẹ cho quà bánh
Chia phần em hơn
Có đồ chơi đẹp
Cũng nhường em ln.
Làm anh thật khó
Nhưng mà thật vui
Ai u em bé
Thì làm được thơi
Phan Thị Thanh Nhàn
(Trích trong chương trình chăm sóc giáo dục mầm non
– lớp 5 tuổi)
CÂY KHẾ
Ngày xửa, ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ mất sớm. Khi người
anh lấy vợ, người anh không muốn ở chung với em nữa, nên quyết định chia
gia tài. Người anh tham lam chiếm hết nhà cửa, ruộng vườn, trâu bò mà cha
mẹ để lại, chỉ cho người em một túp lều nhỏ và mảnh vườn, trong đó có cây
khế ngọt. Người em khơng chút phàn nàn, ngày ngày chăm bón cho cây khế
và cày thuê, cuốc mướn nuôi thân.
Năm ấy, cây khế trong vườn nhà em bỗng sai quả lạ thường, cành nào
cũng trĩu quả ngọt, vàng xuộm. người em nhìn cây khế mà lịng khấp khởi
mừng thầm, tính chuyện bán khế lấy tiền đong gạo.
Một hơm, có con chim Phượng Hồng từ đâu bay đến mổ khế ăn lia lịa.
Thấy thế, người em vừa khóc, vừa nói:
- Chim ơi nhà tơi chỉ có một cây khế này thôi, tôi định bán khế lấy tiền
đong gạo. Chim ăn hết thì gia đình tơi sống bằng gì?
Chim vừa ăn vừa đáp:
Ăn một quả, trả cục vàng
May túi ba gang, mang đi mà đựng
Người em nghe chim nói vậy cũng đành để cho chim ăn. Mấy hôm sau,
chim lại đến ăn khế. Ăn xong chim bảo em vào lấy túi ba gang đi lấy vàng.
Chim bay mãi, bay mãi qua núi cao, qua biển rộng bao la và đỗ xuống
một hòn đảo đầy vàng bạc châu báu.
Người em đi khắp đảo ngắm nhìn thỏa thích rồi lấy vàng bỏ vào túi ba
gang. Chim Phượng Hồng bảo lấy thêm, người em cũng khơng lấy, xong
xi, chim lại dưa người em về nhà. Từ đó người em trở nên giàu có. Người
em đem thóc gạo, vàng bạc giúp đỡ những người nghèo khổ.
Người anh nghe tin em giàu có liền sang chơi và địi đổi nhà, ruộng
vườn của mình lấy cây khế ngọt, người em cũng đồng ý đổi cho anh.
Thế là người anh chuyển sang nhà của em. Mùa năm sau, cây khế lại
trĩu trịt quả. Chim Phượng Hoàng lại đến ăn. Người anh giả vờ khóc lóc.
Chim bèn nói:
Ăn một quả, trả một cục vàng
May túi ba gang, mang đi mà đựng.
Người anh mừng quá, giục vợ may túi không phải ba gang mà là sáu
gang để đựng được nhiều vàng. Hôm sau, chim Phượng Hoàng đến đưa người
anh đi lấy vàng. Vừa đến nơi, người anh vội vơ đầy túi sáu gang, lại còn dắt
thêm đầy vàng vào người. Chim cố sức bay nhưng đường thì xa, vàng thì
nhiều nên nặng quá. Mấy lần chim bảo người anh vứt bớt vàng đi cho nhẹ
nhưng người anh cứ ơm khư khư. Chim Phượng Hồng bực tức, nó nghiêng
cánh hất người anh tham lam xuống biển với túi vàng của hắn.
Thu Thủy kể theo truyện cổ tích Việt Nam
(Trích trong Chương trình chăm sóc giáo dục mầm non – Lớp 3
tuổi)
9.
Thiết kế giáo án dạy trẻ kể lại truyện.
- Dạy trẻ kể lại chuyện theo đồ chơi.
- Dạy trẻ kể lại chuyện theo tranh vẽ
- Dạy trẻ kể lại chuyện sáng tạo
10.
Lựa chọn và chuyển thể một tác phẩm văn
học sang trị chơi đóng kịch cho trẻ lứa tuổi mầm non (Học viên tự lựa chọn
tác phẩm và độ tuổi của trẻ).