Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Bài giảng: Gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.31 KB, 97 trang )

Gia đình, dịng họ, làng xã Việt
Nam cổ truyền

Nguyễn Thị Vĩnh Linh

1

Năm 2012


Bài giảng: Gia đình, dịng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền

Đại học Quảng Nam

A. MỞ ĐẦU
1. Vị trí chuyên đề trong chương trình đào tạo cử nhân Việt Nam học
Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, biểu hiện tiềm năng sáng
tạo vô hạn của mỗi dân tộc. Bản sắc dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước - đó là lịng u nước, ý thức dân tộc, lòng nhân ái, trọng nghĩa, cần cù
sáng tạo…Những giá trị truyền thống đó được kế thừa qua các thế hệ, làm nên bản
sắc riêng của văn hóa Việt Nam mà trong đó khơng thể phủ nhận văn hóa gia đình,
dịng họ, làng xã qua các thời kỳ lịch sử. Từ bao đời nay gia đình, dịng họ, làng xã
Việt Nam luôn là nơi cộng đồng dân cư sinh sống, gắn bó chặt chẽ với nhau trong
các quan hệ kinh tế, dịng tộc và văn hóa và chính nơi đây đã góp phần gìn giữ và
lưu truyền những giá trị của văn hóa Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Việt Nam là một quốc gia phương Đơng nên cũng mang đầy đủ loại hình văn
hóa gốc nơng nghiệp. Tính cộng đồng trong xã hội người Việt rất cao vì thế mối
quan hệ gia đình, gia tộc, làng xã được đặc biệt coi trọng. Thế nhưng trong giai đoạn
hiện nay, nếp nhà, đạo nhà đang dần mất đi, làng xã cổ truyền bao đời nay gắn bó


với người dân Việt Nam cũng biến mất. Phải chăng văn hóa cổ truyền Việt Nam,
trong đó hạt nhân là gia đình, dịng họ, làng xã khơng cịn vai trị đối với nền văn
hóa Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế?
Với những ý nghĩa như trên, khoa Văn hóa - du lịch trường Đại học Quảng
Nam tổ chức biên soạn bài giảng “Gia đình, dịng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền”
để bước đầu trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về văn hóa gia đình, văn
hóa dịng họ, văn hóa làng xã Việt Nam. Bên cạnh đó, trang bị cho sinh viên nhân
sinh quan và thế giới quan đúng đắn góp phần ngăn chặn nguy cơ bị “hịa tan mất
bản sắc văn hóa dân tộc”. Đây là những kiến thức chuyên ngành vô cùng cần thiết
cho những sinh viên Việt Nam học nói riêng và những người u thích nghiên cứu
về văn hóa làng xã Việt Nam nói chung để các chúng ta nhận thức đầy đủ về văn hóa
Việt Nam và tinh hoa của nền văn hóa ấy được thể hiện dưới hình thức văn hóa làng
xã Việt Nam cổ truyền.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích
- Giúp cho sinh viên hiểu được những nét cơ bản về văn hóa gia đình Việt Nam
truyền thống cũng với sự tồn tại vững chắc của dòng họ trong các làng xã Việt Nam
cổ truyền. Thông qua các kiến thức được tiếp nhận các em thấy được văn hóa gia
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

2

Năm 2012


đình, dịng họ, văn hóa làng là những thành tố quan trọng góp phần tạo nên bản sắc
văn hóa Việt Nam.
- Nội dung văn hóa gia đình, dịng họ, văn hóa làng có thể được nghiên cứu
thơng qua các bình diện như văn hóa xã hội, văn hóa tư tưởng và văn hóa nghệ thuật.
Ở mỗi bình diện lại có nhiều hiện tượng văn hóa khác nhau. Có cái đã trở thành biểu

trưng mang giá trị truyền thống nhất định. Đây là một vấn đề khoa học rất lý thú
nhưng cũng rất phức tạp. Vì thế thơng qua chun đề này, sinh viên sẽ được trang bị
một hệ thống kiến thức có bản, các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến gia đình,
dịng họ, làng xã Việt Nam truyền thống. Thơng qua đó bồi dưỡng cho các em tinh
thần u nước, lòng tự hào dân tộc. Đây là những điều kiện hết sức cần thiết để các
em có định hướng đúng đắn cho cách sống và sự lựa chọn nghề nghiệp của bản thân.
Chuyên đề cũng nhằm giúp các em bồi dưỡng năng lực tư duy phân tích, so
sánh, đối chiếu và bước đầu bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học trong sinh
viên.
2.2 Nhiệm vụ
- Cung cấp một số khái niệm cơ bản liên quan đến gia đình, lễ thức gia đình,
dịng họ, văn hóa làng.
- Tái hiện bức tranh sinh động về văn hóa gia đình truyền thống: các giai đoạn
biến đổi, những lễ thức gia đình; văn hóa dịng họ: tên họ và quan hệ huyết thống,
triết lý gia phong cũng như vai trò của dòng họ trong làng xã Việt Nam cổ truyền;
văn hóa làng xã Việt Nam cổ truyền thể hiện trên các phương diện: văn hóa vật chất,
văn hóa tinh thần, văn hóa nghệ thuật…
- Đề cập đến thực trạng và các biện pháp bảo tồn và phát huy những nét đẹp của
văn hóa làng trong giai đoạn hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp luận: Đảm bảo nguyên tắc của phương pháp luận Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng tác nghiên cứu khoa học: tính chính xác và
khách quan của những vấn đề được nêu ra.
3.2 Phương pháp cụ thể:
- Đối với người dạy: kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp: tường thuật,
phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá… sử dụng các phương pháp dạy học tích cực,
phát huy năng lực tư duy của người học.
+ Người dạy giới thiệu nguồn tư liệu cần thiết cho sinh viên tự nghiên cứu, thực
hiện kiểm tra đánh giá để phát triển tài năng và uốn nắn những hạn chế của người
học.

- Đối với người học:
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
3


+ Kết hợp nghe giảng với nghiên cứu tài liệu, trao đổi tại lớp.
+ Thường xuyên tìm hiểu và cập nhật những thông tin mới nhất về môn học.
+ Bước đầu trao dồi năng lực tư duy nghiên cứu thông qua việc thực hiện các
bài thảo luận, tiểu luận.
4. Cấu trúc chương trình
Ngồi lời mở đầu, mơn học được chia làm 6 chương với thời lượng giảng dạy 4
tín chỉ. Trong đó:
CHƯƠNG 1: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN –
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
CHƯƠNG 2: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HĨA XÃ HỘI
CHƯƠNG 3: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HĨA TINH THẦN
CHƯƠNG 4: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT
CHƯƠNG 5: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
CHƯƠNG 6: VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN - HỘI NHẬP
VÀ PHÁT TRIỂN
Ôn tập và kiểm tra 4 tiết
5. Tài liệu tham khảo chính
1. Toan Ánh (1992), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, NXB Tp Hồ Chí Minh
2. Huỳnh Cơng Bá (2008), Lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa
3. Huỳnh Cơng Bá (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa.
4. Vũ Ngọc Khánh (2004), Làng cổ truyền Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà
Nội.
5. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu Văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội


Nguyễn Thị Vĩnh Linh

4

Năm 2012


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ
TRUYỀN – NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
* Mục tiêu:
Giáo dục: SV nắm vững và hiểu rõ các khái niệm gia đình, dịng họ, làng, xã.
Những nề nếp và tập tục của một gia đình người Việt cổ truyền. Mối quan hệ giữa
gia đình và dịng tộc cũng như vai trò của dòng tộc đối với xã hội Việt cổ truyền.
Giáo dưỡng: Từ những kiến thức được lĩnh hội, người học sẽ có một nhận thức
đúng đắn về gia đình, làng xã người Việt cổ truyền. Từ đó, bồi dưỡng tình u
thương, gắn bó với gia đình, làng xóm. Đồng thời thấy rõ trách nhiệm của một thành
viên trong dòng tộc, nhằm cố gắng phấn đấu học tập để góp phần xây dựng dịng họ
và làng xã ngày càng văn minh, giàu mạnh.
Phát triển: bồi dưỡng kỹ năng phân tích tổng hợp...
* Phương pháp giảng dạy: sử dụng tổng hợp các phương pháp: phát vấn,
thuyết minh, đặc biệt sử dụng hệ thống các câu hỏi gợi mở để giúp SV tiếp cận vấn
đề một cách nhanh chóng và chính xác.
1.1 Khái niệm gia đình, dịng họ
1.1.1 Gia đình
- Theo nghĩa rộng: Gia đình bao gồm cả gia tộc những người thân cùng huyết
thống. Đặc biệt với nguồn gốc con Rồng cháu Tiên thì dân tộc ta là một đại gia đình.
Gia đình truyền thống của người Việt là những Tam đại, Tứ đại, Ngữ đại đồng
đường.

- Theo nghĩa hẹp: Tức là gia đình hạt nhân trong truyền thống Việt Nam. Trong
đó, quan hệ cha me – con cái chi phối hết thảy mọi mối qua hệ khác.
Như vậy, Gia đình: là một tổ chức cơ sở gồm những người liên kết với nhau
bằng huyết thống và nghĩa tình. Hai vợ chồng tuy không cùng huyết thống nhưng
được liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa. Tổ chức ấy có mục đích thiêng liêng
là xây dựng cho cơ sở đất nước một tổ ấm cả về tinh thần và về vật chất để giáo dục
con cái, đóng góp và giữ gìn văn hóa dân tộc
1.1.2 Dịng họ
Dịng họ xét về mặt vật chất, là chỉ một tập hợp người cùng một huyết thống. Ở
xã hội loài người sự sinh sơi, nảy nở dùng để duy trì nịi giống được định hướng đến
sự ra đời những thế hệ sau khỏe mạnh, ưu tú và ngày càng phát huy được cao nhất trí
sáng tạo. Điều đó, được thể hiện như những nét văn hóa, chẳng hạn như việc cấm
kết hơn trong cùng dòng máu, cấm mọi hành vi loạn luân.

Nguyễn Thị Vĩnh Linh

5

Năm 2012


Đối với mỗi dòng họ, chúng ta thấy được sự cố kết huyết thống được thể hiện
trong các cây phả hệ. Tất cả được duy trì một cách có quy tắc nghiêm ngặt trong các
xưng hô - ứng xử; và các dịng họ đã văn bản hóa cách thức ứng xử đó bằng cuốn
gia phả dịng họ. Cũng từ gia phả, các nhà thờ họ - từ đường ra đời nhằm duy trì tập
tục và truyền thống của từng họ.
Nhiệm vụ của dịng họ là làm sao duy trì và tạo lập cho các thế hệ tiếp sau có
cuộc sống lành mạnh, ổn định lâu dài. Vai trò của dòng họ đối với từng gia đình
cũng như đối với mỗi thành viên trong dịng tộc có ý nghĩa giáo dục quan trọng. Tự
hào về dịng họ sẽ góp phần ni dường lịng tự hào dân tộc. Cho nên có thể nói, văn

hóa dịng họ là vấn đề rất thiêng liên trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam.
1.2 Thuật ngữ làng, xã, văn hóa làng
1.2.1 Làng (Nơm):
- “Làng”, như nhiều học giả đã xác nhận, đó là từ thuần Việt. Đây là điều thật
đáng lưu ý. Khác với xã, thôn là những từ Hán - Việt, làng có cội nguồn từ chính đời
sống Việt Nam và được biểu đạt trong ngơn ngữ thuần Việt.
- Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này: Theo TS. Huỳng Công Bá:
“Làng - dùng để chỉ một đơn vị tụ cư nhỏ nhưng chặt chẽ và hồn chỉnh nhất của
người nơng dân Việt Nam”.
+ Theo PTS. Nguyễn Văn Mạnh, làng là “một cộng đồng dân cư cố kết với
nhau trên cơ sở một vùng lãnh thổ nhất định [16; 17]. Các thành viên được phân
định vai trị của mình trong cơ cấu làng, thơng qua dân bản qn hay dân ngụ cư gắn
bó với nhau ít nhất về hai phương diện: láng giềng, cận cư và huyết tộc. Cộng đồng
cư dân làng có lối sống riêng, có những đặc trưng đặc thù về tâm lý, đạo đức, phong
tục, tập quán…” [16; 18].
+Theo GS Nguyễn Duy Quý: “Làng Việt (kẻ, thôn…) là một thiết chế xã hội,
một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn Việt trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú; là
sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt; trồng
trọt là điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú của người
nơng dân, ở đó họ sống, làm việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hoá
với thiên nhiên, xã hội và bản thân họ.” [32]
- GS. Trần Quốc Vượng: “Làng là một đơn vị cơ sở và là không gian sinh hoạt
văn hóa chính yếu của người Việt, là một thiết chế phức hợp, vừa chứa những yếu tố
khởi nguyên của công xã, vừa chịu tác động của những thay đổi chế độ xã hội. Làng
- một hệ thống riêng (kinh tế, xã hội …) gồm những yếu tố hợp thành. Hệ thống này
có những quan hệ nội tại, bên trong (đóng kín), song cũng có những quan hệ bên
ngồi (mở, hở)” [47; 22]
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
6



* Mặc dù các nhà nghiên cứu đã có những định nghĩa khác nhau về thuật ngữ
“làng” nhưng tựu chung lại chúng ta đều thống nhất ở những điểm sau đây:
- Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt (nổi lên là gia
đình (nhà) - làng - nước, còn cấp vùng, tỉnh là đơn vị trung gian ít quan trọng hơn)
với hai đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng và tính tự trị.
- Là một thiết chế xã hội của nông thôn Việt, có cơ cấu tổ chức phong phú
nhưng chặt chẽ, có tính cộng đồng và tự trị cao, làng Việt ở mặt trái, mang tính khép
kín, bản vị. Song nó lại chính là nơi lưu giữ, bảo vệ một thứ văn hoá làng chống lại
sự xâm lăng, đồng hoá của văn hoá ngoại lai. Làng Việt và văn hoá làng Việt đang là
vấn đề rất thú vị cho những ai quan tâm, nghiên cứu nó.
- Tuy thế, ở nước ta, khơng phải bất kỳ đâu, làng Việt cũng có đặc điểm và tính
chất giống hệt nhau. Nhiều nhà nghiên cứu khảo cổ học, folklore học, tâm lý dân tộc
học… qua quá trình điền dã và thẩm định đã cho thấy rằng: làng Việt ở Bắc - Trung
- Nam bộ có những đặc điểm khác nhau trên cơ sở những cái giống, cái chung. Tính
chất và đặc điểm đại đồng, tiểu dị này ngày càng được khẳng định không chỉ về mặt
lý thuyết, mà còn ở thực tiễn nữa.
1.2.2 Xã
- Đây là từ gốc Hán - Việt, từ nguyên có nghĩa là “nền đất để tế thần (thời
thượng cổ, cư dân một vùng thường tập hợp lại hàng năm làm lễ tế thần đất trên một
cái nền). Lâu dần thuận tiện trong giao dịch, người ta gọi khu vực đó là “xã” [18;
752]. Qua quá trình phát triến, xã đã trở thành đơn vị hành chính thấp nhất và là đơn
vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước phong kiến ở các vùng nông thôn Việt Nam
thời xưa. Trong khi làng là địa điểm tụ cư một cách tự nhiên của người dân Việt thì
xã lại là đơn vị hành chính do chính quyền phong kiến lập nên bao gồm nhiều làng
để tiện cho việc tổ chức, quản lý cư dân. Như vậy, làng là yếu tố cấu thành của xã.
Đối với những xã lớn gồm nhiều làng và trong xã người ta thường chia thành các
thơn và do đó làng ở đây được xem là tương đương với thôn. Cho nên, trong khi
làng thiên về làng xóm, tình cảm thì thơn mang tính chất hành chính nhiều hơn. Ở

những làng lớn khi chuyển sang hệ thống hành chính cơ sở của nhà nước phong kiến
thì làng được mang tên là xã. Trong trường hợp này thì làng tương đương với xã
nhưng cách thức sử dụng các từ ngữ này có sự khác nhau trong sắc thái ngữ nghĩa,
xã được dùng với ý nghiã hành chính và được ghi vào sổ sách nhà nước, cịn làng
mang tính chất truyền thống thiên về khía cạnh tình cảm.
- Như vậy, về phương diện hành chính, xã là thiết chế có tính chất pháp lý. Cịn
đối với người dân, người nơng dân bình thường của hàng bao thế kỷ, thì người ta chỉ
biết có làng. Các chỉ, dụ, luật pháp.... của triều đình; các thể chế, quy định của xã,
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
7


thôn ... hết thảy đều thể hiện sức mạnh thông qua làng. Tập tục làng, truyền thống
làng là chất keo đặc thù gắn kết mọi thế hệ thành viên của làng. Dù dưới triều đại
nào, dù phải ứng xử với người cai trị là bản địa hay ngoại bang, văn minh phương
Đông hay phương Tây, làng vẫn tồn tại một cách tự nhiên với sự cố kết cộng đồng
đầy bản sắc của nó.
1.2.3 Văn hóa làng
- Cho đến nay sau một số hội thảo trong và ngoài nước thuật ngữ “văn hóa
làng” có lẽ đã được các nhà nghiên cứu thống nhất về phạm vi khái niệm và nội
dung của nó. Thuật ngữ này nên được hiểu theo góc độ nghiên cứu lịch sử văn hóa,
lịch sử văn minh nhân loại. Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất, “văn hóa làng
là những đặc trưng văn hóa đặc thù, được bảo lưu lâu dài trong từng cộng đồng dân
cư làng và tạo nên sự khác biệt giữa các làng. Những đặc trưng đó được thể hiện trên
các phương diện phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tâm lý, lối sống, phương thức hoạt
động ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [16; 32].
- Khái niệm “văn hóa làng” gắn với hình ảnh làng xã cổ truyền ở Việt Nam với 3
đặc trưng cơ bản: ý thức cộng đồng làng (ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng trong sản
xuất bảo vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức...); ý thức tự quản (thể

hiện rõ nhất trong việc xây dựng hương ước); và tính đặc thù độc đáo, rất riêng của
mỗi làng (có khi hai làng gần nhau nhưng không hề giống nhau).
+ Tính chất khoa học của khái niệm văn hóa làng thể hiện ở chỗ, dù phân loại
theo kiểu nào người ta cũng khó có thể đồng nhất phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
tâm lý, lối sống, phương thức hoạt động và ứng xử .... của cộng đồng làng với các
cộng đồng văn hóa khác, kể cả những cộng đồng đặc biệt gần gũi như xã, hoặc các
cộng đồng theo đơn vị hành chính, xã hội hoặc tơn giáo. Văn hóa làng, vì vậy có
những nét riêng biệt và mang những dấu ấn đặc trưng cho từng cộng đồng dân cư
khác nhau. Chính vì thế, văn hóa làng là cái gì đó rất riêng nhưng cũng rất chung
trong khn khổ của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Cái chung là hằng số nông
nghiệp lúa nước lâu đời, là hằng số văn hóa làng - nước, cái riêng trong văn hóa làng
thể hiện ở những tập tục riêng, những lễ hội riêng, cách thức ứng xử riêng. Nhưng
từng cái riêng ấy hịa vào kho tàng văn hóa dân tộc làm nên bản sắc văn hóa của dân
tộc Việt, cũng như tính phong phú và đa sắc thái của nền văn hóa ấy.
1. 3 Quá trình ra đời và phát triển gia đình, dịng họ, làng xã Việt Nam
1.3.1 Lịch sử gia đình Việt Nam
Cho đến hiện nay, chúng ta vẫn chưa có đầy đủ tài liệu để hình dung chính xác
về thời điểm xuất hiện gia đình trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể rút ra
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

8

Năm 2012


một số nhận định ban đầu như sau. Người Việt vào lúc khởi đầu chỉ biết mẹ mà
không biết cha, hoặc dấu ấn của cha rất mờ nhạt. Sách Lĩnh nam chích qi ghi lại
rằng khi dân chúng bị lồi thủy quái phá phách cũng chỉ biết kêu lên: ”bố ơi về cứu
chúng con” (ở đây ám chỉ Lạc Long Quân). Vào những thế kỷ tiếp theo, quan niệm
về gia đình trở nên khá sâu sắc. Đặc biệt từ thế kỷ XV trở đi, cùng với việc xác lập

xã hội phong kiến tơn sùng nho học thì gia đình Việt Nam đã được ổn định và có
đầy đủ nề nếp, truyền thống gia đình với 3 loại gia đình chính: gia đình bình dân, gia
đình kẻ sĩ và gia đình quý tộc.
- Gia đình bình dân
Loại gia đình này chiếm số đông trong xã hội, là những người nông nghiệp, thủ
công và các ngành nghề, các tầng lớp khác. Trên lý thuyết, những gia đình này phải
tuân theo các phép tắc Nho gia, nhưng trong thực tế họ đã vận dụng chúng theo
phương thức riêng trên cơ sở lớp văn hóa bản địa và lịch sử hàng ngàn năm.
Trong gia đình này, mọi thành viên được phân cơng lao động nhịp nhàng,
khơng tán thành chế độ đa thê, sống hịa thuận và biết nhường nhịn lẫn nhau, dây
cũng là nét đẹp trong văn hóa gia đình Việt cổ truyền.
- Gia đình kẻ sĩ
Cũng có người gọi là gia đình nhà nho. Với đặc điểm tiếp thu Nho học một
cách đầy đủ nhất, gia đình này tuân theo giáo dục Nho học một cách nghiêm túc,
song cịn có tinh thần dân tộc rất cao. Đặc biệt kẻ sĩ chân chính có tầm ảnh hưởng rất
rộng và sâu sắc đến vợ, con, anh, em và họ hàng. Đặc điểm của loại gia đình này
được thể hiện ở 2 điểm” cơng phu đọc sách và ý thức đối với vận mệnh dân tộc. Vì
chỉ lo học kinh, sách nên họ hồn tồn khơng tham gia sản xuất, lao động. Kinh tế
gia đình hồn toàn phụ thuộc vào người vợ. Con đường khoa bảng là mục tiêu cuộc
đời họ hướng tới.
- Gia đình quý phái
Đây là gia đình các quan lớn, hồng tộc. Những gia đình này có nề nếp, gia
phong rất nghiêm ngặt nhưng không bền vững. Tùy thuộc và sự hưng thịnh hay suy
vi của các triều đại mà những gia đình này cũng biến đổi theo...
1.3.2 Những bước phát triển và biến đổi của các tộc họ người Việt truyền
thống.
- Nghiên cứu tất cả hệ thống tên họ các dân tộc trên thế giới cho thấy người
Việt có lẽ là một dân tộc đầu tiên, cùng với người Trung Hoa và Ðại Hàn, có một hệ
thống tên họ đơn giản và hợp lý nhất.
Theo diễn trình phát triển của lịch sử dân tộc, cùng với quá trình di cư xuống

Nguyễn Thị Vĩnh Linh

9

Năm 2012


phía Nam, người Việt đã dần dần dịnh cư và lập nên làng xóm. Nhà nước Văn lang –
nhà nước đầu tiên của cư dân Việt ra đời. Để quản lý số dân ngày càng đơng, địi hỏi
phải có sự phân định rạch rịi từ trong các cơng xã nơng thơn – làng. Do đó hơn hai
ngàn năm trước, tổ tiên ta đã nghĩ lập ra "sổ điền" cốt để nhà vua kiểm kê nhân và
dân số hàng năm hoặc theo một thời hạn cố định, mục đích nhằm phân chia ruộng
nương thời đó thuộc về nhà vua. Việc phân chia này đòi hỏi một sự hiểu biết tường
tận từng nóc gia. Với họ và tên gọi, quan chức triều đình có thể ấn định số người
trong mỗi gia đình. Về sau thêm "sổ đinh" hoặc "sổ bộ", ghi họ tên chính thức về hộ
tịch từng cá nhân và gia đình. Rồi từ "sổ bộ", mỗi gia đình lập một sổ riêng, ghi chú
tất cả những việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang ma. Ðó là nguồn gốc của gia phả.
- Cách đặt tên họ của người Việt: "Họ" theo nghĩa gốc có liên hệ với nhà và
dưới chế độ phong kiến, nối kết con người với đất ruộng: một mái nhà, một gia đình,
một họ. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác
định cá thể trong một toàn thể.
Họ tên của người Việt thơng thường gồm có theo thứ tự: họ, chữ lót hoặc tên
đệm, và tên gọi.
Số họ người Việt rất hạn chế, có khoảng 140 họ khác nhau. Do đó có thành ngữ
"trăm họ" (bách tính, cịn đọc là "bá tánh") thời xưa thường dùng để chỉ dân chúng
cả nước. Những họ Việt Nam thường gặp nhất là Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê,
Vũ/Võ, Trương, Huỳnh/Hoàng. Nhiều người mang cùng một họ khơng có nghĩa là
họ có cùng một gốc gác. Thời xưa và nhất là ở nhà quê, người ta phân biệt nhau
bằng cách gọi "họ Nguyễn làng Tiên Ðiền", "họ Nguyễn làng Tây Sơn", v.v. Trong
nhiều làng thôn, tất cả mọi người cùng mang một họ. Có người cắt nghĩa là vì vào

thời lập quốc, người Việt chỉ có một tổ tiên chung là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ðến
thời hiện đại, những người Việt này chứng minh mỗi dòng họ một tổ tiên riêng.
Từ khi bị người phong kiến phương Bắc đô hộ, người Việt chính thức theo chế
độ phụ hệ, do đó con cái phải lấy họ cha. Theo dân luật, con phải lấy họ cha, khơng
có vấn đề tự do lựa chọn. Họ khơng thể cho người ngồi họ dùng và trên nguyên tắc
không thể thay đổi. Trong một số trường hợp có cả họ kép. Ða số người Việt mang
một họ trong số 16 dòng họ đã từng cai trị lẫy lừng trong lịch sử. Theo thứ tự niên
đại, đó là những họ Thục, Trưng, Triệu, Mai, Khúc, Lý, Phùng, Kiều, Ngô, Ðinh,
Lê, Trần, Hồ, Mạc, Trịnh và Nguyễn. Hoặc họ là con cháu thật sự của những dòng
họ kể trên, hoặc họ xử dụng như mượn họ hoặc bị bắt buộc mang những họ đó
nhưng khác họ thật.
- Một số trường hợp thay đổi họ: Có gia đình tự ý đổi lấy họ đương triều để
chứng tỏ sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như Nguyễn Trãi có lúc đổi
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
10


tên là Lê Trãi theo họ nhà vua. Một số khác bị bắt buộc phải đổi họ của triều đại vừa
bị lật đổ để lấy họ đương triều để chứng giám lòng trung thành với triều đại mới.
Trong nhiều trường hợp, triều đình bó buộc dân gian bỏ họ gốc để lấy quốc tính để
tránh những nhóm phản động có ý lật đổ triều đình hay làm loạn đưa người họ triều
triều đại vừa bị lật đổ vào cho có lý do chính trị (ý trời, "thuận thiên"). Ngồi ra, có
người cải đổi tên họ vì trốn sưu thuế, trốn lính hoặc bất đắc dĩ phải đổi lấy họ đương
triều vì ơng cha bị tội hình như "tru di tam tộc" - cũng là lý do tại sao ngày xưa khi
đi thí phải khai họ ba đời.
Hoặc vì kiên tên húy của vua chúa, nhiều người phải đổi họ, như ơng trạng
Hồng Nghĩa Phú (1511), tổ tiên vì kiêng tên vua Lý mà đổi ra họ Trịnh, rồi lại phải
đổi ra họ Trần;đến đời Trần Khắc Minh mới đổi lấy lại họ Hoàng. Vua Quang
Trung Nguyễn Huệ vốn họ Hồ và dòng dõi Hồ Quý Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn.

Cùng trường hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời thứ hai của Ngơ Quyền.
1.3.3 Q trình ra đời và phát triển của làng xã Việt Nam
1.3.3.1 Quá trình ra đời
Mặc dù những kết quả khảo cổ học đã cho biết tại nhiều di chỉ thuộc các giai
đoạn có niên đại vài ba ngàn năm cách ngày nay người ta đã phát hiện những dấu vết
sinh sống của con người. Nhưng từ đó để tìm đến những giai đoạn hình thành làng
mạc thì vẫn cịn phải chờ đợi thêm nhiều cơng sức nghiên cứu.
- Xóm làng vốn khơng có ngay từ đầu khi con người mới xuất hiện vì với hoạt
động kinh tế hái lượm, săn bắt phải thường xun di chuyến nên khơng có điều kiện
tụ cư thành làng.
- Dựa vào các tài liệu khảo cổ học có thể hình dung, từ thiên niên kỷ II và I
trước công nguyên (TCN): tổ tiên người Việt đã rời bỏ hang động tỏa xuống vùng
trung du và đồng bằng Bắc bộ ngày nay. Đến khi nông nghiệp ra đời, con người cần
định cư để tiến hành các hoạt động trồng trọt và chăn ni thì do q trình định cư
đó dần dần ra đời các địa điểm cư trú của người nông dân cùng khai thác đất đai tại
một địa phương để sinh sống. Cũng từ đó mà xóm và làng được hình thành. Từng
nhóm cư nơng đã quần tụ thành từng cư điểm ngoài trời. Những cư điểm này thường
được thiết lập trên những gò, đồi thấp, chân núi, doi đất giữa vùng đất trũng, bên
những dịng sơng và đầm hồ…Các cư điểm này có quy mơ rất khác nhau, có cư
điểm rộng hàng vạn mét vng và tồn tại hàng ngàn năm. Do nhu cầu hợp tác để tiến
hành các hoạt động trị thủy, thủy lợi mà mà các xóm làng ở phương Đơng cũng như
ở Việt Nam đã liên kết với nhau hình thành nên một tổ chức đứng bên trên điều
khiển các công việc chung là nhà nước. Từ khi nhà nước ra đời thì làng xóm vốn là
những đơn vị tụ cư làm nơng nghiệp của người nông dân đã biến thành những đơn vị
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
11


hành chính cơ sở của nhà nước mà ở Việt Nam đó là các kẻ, chiềng, chạ… Sang thời

Bắc thuộc, các kẻ, chiềng, chạ tiếp tục là những đơn vị tụ cư của người dân. Thế
nhưng, để có thể quản lý chặt chẽ hơn và dễ dàng thực hiện chính sách đồng hóa,
phong kiến Hán tộc đã đặt bộ máy cai trị cấp cơ sở là xã. Nhà Đường còn chủ trương
phân loại xã thành tiểu xã có từ 10 đến 30 hộ và đại xã từ 40 đến 60 hộ. Như vậy, xã
là đơn vị hành chính cơ sở do giai cấp phong kiến phương Bắc du nhập vào xã hội
nước ta nhưng thực tế đã cho thấy nhà Đường đã không thể biến các kẻ, chạ của
người Việt thành những đơn vị xã của chúng. Nhưng đến khoảng cuối thời Bắc
thuộc, một tên gọi mới dùng để gọi những đơn vị tụ cư cơ bản của người Việt Nam
là làng đã ra đời thay thế cho các tên kẻ, chiềng, chạ.
- Sau ngày đất nước giành được độc lập, trong cải cách hành chính của mình
Khúc Hạo cho đặt đơn vị xã làm đơn vị hành chính cơ sở của Tĩnh hải quân tiết trấn
và cũng từ đó trở đi xã trở thành đơn vị hành chính cơ sở chủ yếu của nhà nước
phong kiến. Bên cạnh đơn vị hành chính cơ sở - xã, thì triều đại cịn quy định về tên
gọi của đơn vị hành chính cơ sở ở những khu vực đặc biệt với các tên: sách, động,
nguyên, trường, sương…Dưới thời Minh thuộc nhà Minh cho đổi tên gọi là lý.
Ngồi ra, do cơng tác khẩn hoang, thành lập làng xã về sau nhiều nơi ruộng đất khai
phá với quy mô nhỏ không cho phép đặt tên xã mà chỉ gọi là thôn. Trong trường hợp
này, thôn mang tư cách là một đơn vị hành chính cơ sở tương đương với xã đó là
những thơn độc lập dưới sự quản lý hành chính của nhà nước. Làng được ẩn chứa
bên trong đơn vị xã như là một tập hợp cư trú mang tính chất truyền thống và tinh
thần cộng đồng bền chặt.
Trong quá trình phát triển của mình thì làng xã Việt Nam đã trải qua ba lần biến
đổi lớn: lần thứ nhất vào thế kỷ XV do tác động của chính sách quân điền của nhà
Lê. Lần thứ hai do chủ trương cải cách hương chính của Pháp. Lần thứ ba do chủ
trương cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nơng nghiệp.
1.3.3.2 Cách thức thành lập làng
Về mặt ngôn ngữ, từ làng cũng chưa rõ có từ bao giờ. Đối chiếu với chữ Hán,
có thể làng là thơn, lý, hương. Các sách vở cũ, từ thời Lý, Trần nói đến hương nhiều
hơn, chứ khơng nói đến thơn, lý hay xã. Trong ngơn ngữ, cũng như trong cơ cấu tổ
chức cịn có một số khái niệm dùng tương đương, đồng nhất hoặc gần gũi với làng.

Đó là những từ như: trang, xá, kẻ, phường hay thôn, phe, giáp… Mặc dù cách hiểu
về các khái niệm này khơng giống nhau và cịn nhiều chỗ phải tranh luận, thế nhưng
qua đó chúng ta cũng thấy được rằng các làng Việt Nam đã được thành lập theo
nhiều dạng:
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

12

Năm 2012


- Hoặc từ những đơn vị tụ cư đầu tiên - từ các thị tộc, bộ tộc xa xưa ở miền núi
và trung du đi xuống đồng bằng, hay từ ngoài biển vào đất liền, cùng sinh sống, liên
hệ với nhau, dần dần hình thành chỗ định cư lâu dài. Có thể nghĩ đến những Quêl
của dân tộc Mường, những nhóm người người Mường - Việt cổ ở dưới quyền các
quan lang. Từ lang đến làng chắc phải có mối liên hệ nào đó. Từ sự cộng cư của
từng nhóm đến sự giao thiệp giữa các nhóm ở gần nhau, có khả năng đưa đến các
chạ…Có thể cho rằng tiếng kẻ ra đời tiếp đó. Kẻ vừa dùng để chỉ con người, vừa để
chỉ khu vực mà con người đó cư trú. Kẻ tức là quê, giống tiếng Quêl của Mường.
Lâu dần, ngữ nghĩa được mở rộng, có thể gọi là kẻ biển, kẻ rừng, kẻ quê và cũng có
khi được ghép vào với tên riêng để trở thành làng.
- Những địa điểm tụ cư như vậy, dần dần có thêm nhiều biến đổi: có thể do chỗ
ở dần dần được mở rộng mà các làng có vị trí cách xa nhau, do môi trường thiên
nhiên ở mỗi làng không giống nhau; do khả năng nghề nghiệp và thói quen sinh hoạt
mà có thêm nhiều đơn vị khác nằm trong vùng quê ấy, hoặc sẽ tách riêng ra. Trường
hợp này làm xuất hiện các phường. Những vùng đất còn giữ được tên phường hiện
nay đều cho thấy chúng ở ven sông, ven biển, hoặc gần nơi đô hội, hoặc là chỗ có
nghề thủ cơng. Phường như vậy cũng là một kiểu làng: nơi kinh đơ có phố phường,
vùng biển có vạn, phường. Bên cạnh đó, phường cịn có nghĩa hẹp chỉ một nhóm
người cùng làm chung một cơng việc. Ví dụ như phường cấy, phường bát âm…

- Hoặc là những đơn vị, do một người khởi xướng, tìm được đất để làm ăn, sinh
sống, kéo thêm cả họ vào. Cũng có thể là một liên minh gia tộc cùng quây quần lại
để gắn bó và bảo vệ lẫn nhau. Trường hợp này làm xuất hiện các xá, các làng thôn.
Loại xá này có trường hợp thành lập muộn, có trường hợp không do sự khai khẩn
ban đầu mà do những nguyên nhân chiếm lĩnh khác. Tiếp đó, có thể có nhiều họ
khác đến cộng cư, nhưng vẫn thừa nhận cái tên do dòng họ khai khẩn đầu tiên đặt ra.
- Hoặc là những vùng đất do nhà vua lấy để ban cho những người trong hoàng
tộc hay những quan lại có cơng với đất nước như thái ấp, lộc điền theo chế độ ân
sủng của triều đình phong kiến. Có vùng, người được hưởng lộc chỉ lấy hoa lợi, vì
đã có dân cư rồi (La Sơn Phu Tử nhận lộc thuế làng Nguyệt Ao do vua Quang Trung
ban). Có vùng, viên quan chỉ cắm ruộng (Lê Phụng Hiểu thời nhà Lý được hưởng
ruộng Thác đao điền). Nhưng nhiều người nhất là dưới thời Lý - Trần, đã thành lập
các trang trại, thái ấp đưa họ hàng, gia nhân, binh lính đến sinh sống lâu dài. Những
địa điểm như vậy gọi là điền trang hay trang trại. Hết thời hạn ban thưởng, những
điền trang trên được trả về quyền quản lý của các phủ, huyện và trở thành làng. Như
vậy, trang và làng ban đầu khác nhau, nhưng sau đó thì đồng nhất thành một.
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

13

Năm 2012


Bên cạnh đó, cịn có một số ấp, những dinh cơ của quan lại, địa chủ, tụ tập đông
đúc họ hàng…được phát triển thành làng.
Các trang, ấp đều có phạm vi khơng hạn định. Có trang diện tích hẹp tương
đương với một làng. Có trang diện tích rộng sau này được chia tách thành nhiều
làng. Ví dụ như Xuyên Bảo trang có từ thời nhà Lý sau chia thành 4 làng, nay gộp
lại trong một xã (xã Từ Liêm, huyện Từ Liêm, Hà Nội).
- Từ khoảng thế kỷ XIV, XV trở về sau, hiện tượng khai dân lập ấp nở rộ. Phần

lớn sử sách còn truyền đến ngày nay đều ghi chép về việc những vị quan, tướng tự
mình chiêu tập dân chúng lập làng. Đây là trường hợp ra đời của các xá nói trên,
hoặc các thơn. Những người khởi lập hầu hết đều từ nơi khác đến, họ dựa theo mơ
hình có sẵn ở ngun qn đến lập làng mới và đặt tên mới.
Loại làng này có khá nhiều, và cũng khơng ít trường hợp khơng thể tìm ra
nguyên gốc hình thành làng. Đến thời kỳ hưng vượng người ta nhớ công ơn người đi
trước, nên đã tự xem mình là hậu duệ của các anh hùng, các khai quốc cơng thần…
- Có làng ra đời là do kết quả của các chiến dịch lớn hoặc do việc khai khẩn đất
đai. Trường hợp này rất dễ nhận ra vì vẫn cịn có những chứng tích cụ thể. Làng sau
những chiến công diệt giặc đều thờ những vị tướng lãnh đạo nhân dân đánh giặc làm
thành hoàng làng. Nhiều làng được thành lập do nhà nước chiêu tập dân cư làm đồn
diền (thời Lê, Nguyễn đều có) và nhiều làng do khai hoang, lấn biển, vỡ đồi.
- Cịn có một số sở, trại, nơi hội tụ của những tù binh, tù nhân, nơi đóng qn
của các binh lính sau trở thành làng.
1.3.3.3 Cách thức tổ chức làng
- Làng Việt được tổ chức rất chặt chẽ, không phải theo một mà nhiều cách,
nhiều nguyên tắc khác nhau, tạo nên nhiều loại hình, nhiều cách tập hợp người khác
nhau, nhưng vẫn đảm bảo tính thống nhất cao. Về cơ bản, cơ cấu làng Việt (cổ
truyền và hiện đại) được biểu hiện dưới những hình thức tổ chức (liên kết, tập hợp
người) sau đây:
+ Tổ chức theo địa vực (khu đất cư trú) với mơ thức phổ biến: Làng phân thành
nhiều xóm, xóm phân thành nhiều ngõ, mỗi ngõ gồm một hay nhiều nhà… thành
những khối dài dọc đường cái, bờ sông, chân đê, những khối chặt kiểu ơ bàn cờ, theo
hình vành khăn từ chân đồi lên lưng chừng đồi và phân bố lẻ tẻ, tản mác, xen kẽ với
ruộng đồng… Mỗi làng, xóm, ngõ có cuộc sống tương đối riêng.
+ Tổ chức làng theo huyết thống (gia đình), dịng họ. Ngồi các gia đình nhỏ,
gia đình hạt nhân, dịng họ có vị trí và vai trị quan trọng trong làng Việt, là chỗ dựa
vật chất, và chủ yếu là tinh thần cho gia đình; có tác dụng trong định canh và xây
dựng làng mới, như là trung tâm của sự cộng cảm trong các gia đình đồng huyết…
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

Năm 2012
14


Có làng gồm nhiều dịng họ, có làng chỉ một dòng họ và khi ấy làng và dòng họ (gia
tộc) đồng nhất với nhau. Điều đáng lưu ý là mức độ liên kết huyết thống trong phạm
vi làng Việt là hết sức rạch ròi, chi li với những tên gọi cụ thể (cố - cụ - ông - cha bản thân - con - cháu - chắt - chút…)
+ Tổ chức làng theo nghề nghiệp, theo sở thích và lịng tự nguyện (Phe - Hội,
Phường nghề…). Mỗi làng có thể có nhiều Phe (một tổ chức tự quản dưới nhiều
hình thức câu lạc bộ): Phe tư văn quan trọng hơn; nhiều Hội: hiếu hỷ, mua bán,
luyện võ, tập chèo, đấu vật… các Phường nghề: mộc, nề, sơn, thêu, chèo, rối…
+ Tổ chức làng theo lớp tuổi (truyền thống nam giới): tổ chức giáp, hiện rất mờ
nhạt. Đây là môi trường tiến thân theo tuổi tác, tổ chức dành riêng cho nam giới, phụ
nữ không được vào. Bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay, được lên đinh, ngồi
chiếu giữa làng, được nâng dần địa vị, được lên lão… Nói chung, giáp gắn chặt với
làng.
+ Tổ chức làng theo cơ cấu hành chính: Làng có khi gọi là xã (có xã gồm nhiều
làng), có khi gọi là thơn (khi nhất xã nhất thôn). Tiêu chuẩn để phân định rõ nhất là
chính cư và ngụ cư (nội tịch và ngoại tịch) một cách rất rành mạch, nhiều khi cực
đoan. Tuy nhiên, có một điều mở là dân ngụ cư có thể chuyển thành chính cư khi có
điền có điền sản và sống (cư trú) ở làng 3 đời trở lên. Dân cư trong làng được phân
thành nhiều hạng, cơ bản là các hạng: chức sắc (đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban);
chức dịch (có chức vụ trong bộ máy hành chính); lão, đinh, ty ấu, người già, trai
đinh, trẻ con (trong các giáp)…
1.3.3.4 Tên gọi của làng xã
- Sau khi tụ cư hoặc khai hoang lập ấp thì nhóm người tham gia khai phá buổi
đầu thành lập làng xã đã đặt cho vùng đất khai phá của mình một tên gọi và sau đó
họ trình báo với nhà nước phong kiến để được ghi vào danh sách làng xã của nhà
nước. Trong tên gọi làng xã nhất là ở những làng xã Bắc bộ và Bắc Trung bưộ
thường có hai loại tên gọi đó là tên tục (tên Nơm) và tên chữ (Hán - Việt). Sở dĩ có

tình hình này là do tên tục được đặt ra ngay từ đầu khi khai phá thành lập làng xã
nhưng trong nhiều trường hoặc tên tục hồn tồn là từ thuần Việt, khơng có chữ Hán
để ghi chép vào sổ sách nhà nước. Điều đó bắt buộc người ta phải đặt một tên khác
có chữ Hán để tiện sử dụng trong sổ sách, giấy tờ của nhà nước. Bên cạnh đó, cũng
có một số trường hợp tên chữ đặt ra là để tránh sự nơm na nhằm làm cho tên của
làng xã mình trở nên hay hơn theo quan niệm của các nhà Nho. Như vậy, tên chữ
thường ra đời sau tên tục.
+ Trong việc đặt tên chữ thường dùng lối dịch nghĩa hay phiên âm từ tên tục. Ví
dụ, về lối dịch nghĩa với làng có tên tục là làng Núi thì đặt tên chữ là Nghĩa Sơn,
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
15


làng Bến - Phương Độ, làng Bã Đông - Đồng Châu…Về lối phiên âm với làng có
tên là làng Sập thì tên chữ là làng Phù Lộc, làng Cháy - làng Phù Chẩn…
- Trong việc đặt tên làng xã người ta thường dựa trên những đặc điểm về điều
kiện tự nhiên, sản vật địa phương. Những làng nằm gần núi thường mang từ tố là
“Sơn” như Kim Sơn, Tam Sơn… Những làng ra đời trên vùng bãi bồi thường mang
từ tố là “Châu”. Những làng ra đời ven sông thường mang từ tố là “Giang”, “Khê”,
“Xuyên”. Những làng ra đời trên vùng đầm nước thường mang từ tố là “Đàm”,
những làng ra đời trên các ruộng muối thì mang từ tố là “Diêm”, những làng liên
quan đến quá trình thành lập dịng họ thường mang tên “Gia”, “Xá”. Có tên làng
được đặt gắn liền với những sự kiện lịch sử như làng A Sầu ở Thái Bình liên quan
đến kho gạo của quân đội nhà Trần thời chống Nguyên Mông. Có những tên làng xã
gắn liền với sinh hoạt kinh tế như Nghi Tàm liên quan đến làng nghề trồng dâu, ni
tằm hoặc có khá nhiều trường hợp tên làng được đặt theo niềm ước vọng của cư dân
về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc… như Bình, An, Lộc, Phú, Thọ…
Thơng qua việc nghiên cứu tên làng có thể phát hiện nhiều thông tin cần thiết
về nguồn gốc, đặc điểm, chế độ sở hữu ruộng đất…Tên làng đã gắn bó chặt chẽ với

đời sống vật chất, tinh thần, tâm tư tình cảm, niềm kiêu hãnh, tự hào của người dân
địa phương.
1.3.3.5 Phân loại làng xã
- Phân loại về mặt hình thể:
+ Loại làng ăn theo chiều dài: đây là những làng nằm dọc sông hoặc dọc trục lộ.
+ Loại làng nằm rải rác: đây là những làng cư trú thành từng cụm nhỏ.
+ Loại làng tựa ven đồi: Đây là những làng nằm tựa theo chân các đồi núi.
+ Loại làng hình vành khăn: phân bố quanh chân một ngọn đồi.
+ Loại hình thủy cơ: sống cư trú trên mặt nước khơng có hình thể cố định.
- Phân loại dựa trên tiêu chí về địa hình, lịch sử, văn hóa:
+ Loại làng ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ.
+ Loại làng ở đồng bằng duyên hải Trung bộ.
+ Loại làng ở đồng bằng Nam bộ.
+ Loại làng ở miền núi.
+ Loại làng thủy cơ.
- Dựa trên tiêu chí về nghề nghiệp kinh tế:
+ Loại làng thuần nơng.
+ Loại làng nghề.
+Loại làng bn.
- Dựa trên tiêu chí về văn hóa:
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
16


+Loại làng cổ.
+ Loại làng văn hiến: ra đời từ lâu, có nề nếp, truyền thống, có nhiều thiết chế
văn hóa về mặt vật thể. Hiện nay vẫn cịn có những thiết chế trở thành những di sản,
di tích về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng.
+ Loại làng khoa bảng.

+ Loại làng lương.
+ Loại làng giáo.
1.3.3.6 Cấu trúc về diện mạo của làng xã
- Lũy tre làng: Thường đứng ở đầu làng hay bao quanh làng và là biểu tượng
không thể thiếu của con người Việt Nam, làng xã Việt Nam.
- Cổng làng: được dùng như một qui ước không gian hơn là một giới hạn địa lý
của làng. Nó chẳng ngǎn che được gì về vật lý lẫn thị giác. Vậy mà làng khơng cổng
chẳng khác gì nhà khơng cửa. Nó như một dấu hiệu đánh mốc trong và ngồi của
khơng gian làng - đó là một phần của văn hóa làng. Cái kiểu đánh dấu này ln tồn
tại trong tâm thức người Việt.
+ Cổng làng ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành và phát triển của làng.
Cổng làng chủ yếu có ở những vùng trồng lúa và có văn hố làng xã, đặc biệt là
vùng đất châu thổ sông Hồng. Dù to dù nhỏ, dù xây bằng gạch hay ghép đá, chiếc
cổng làng chính là dấu ấn minh chứng cho một nếp làng bề thế, chỉnh chu. Cửa nhà
trong làng có thể xộc xệch, sơ sài; con người có thể lam lũ, nhếch nhác nhưng cổng
làng thì phải đàng hồng, chững chạc. Ðơn giản chỉ bởi cổng làng là bộ mặt, là biểu
tượng của làng quê, phần nào thể hiện được cốt cách của làng, tư chất của mỗi người
dân trong làng.
+ Kiến trúc cổng làng xưa không cầu kỳ, phô trương mà chỉ nhằm khẳng định
chỗ đứng của mình trong khoảng khơng gian của làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ.
Cổng làng thường được đặt ở vị trí trang trọng nhất, dễ nhìn thấy nhất và thường thì
chỉ có một cửa chính nhưng ở nhiều nơi, liền với cửa chính cịn có hai cửa phụ thấp
và nhỏ hơn, được xây dựng trang trí hài hồ với cổng chính, tạo thành một thể kiến
trúc thống nhất tựa như những ngôi tam quan của chùa, hay như những bức cửa mã
ở đình làng. Ở những chốn quê nghèo, cổng làng mộc mạc lắm. Hai bên trụ gạch
thấp nhỏ, khiêm nhường đỡ một tấm xà cũng bằng gạch, thế là thành cổng làng.
Không một nét vẽ trang điểm, khơng màu mè, thậm chí khơng một nét chữ tên làng,
vậy mà chính những chiếc cổng vơ danh như thế lại trở nên thân thiết gắn bó vơ
chừng.
- Cây đa đầu làng:

Nguyễn Thị Vĩnh Linh

17

Năm 2012


+ Từ bao đời nay, mỗi người Việt đều coi mái đình, cây đa như một biểu tượng
của làng quê truyền thống. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là sự trường tồn,
sức sống dẻo dai. Không phải ngẫu nhiên mà những bậc cao niên, những người có
vai vế trong làng được xem là "cây đa, cây đề", biểu tượng cho sức làm việc quên
mình, dẻo dai, cho sự tích lũy kiến thức phong phú.
+ Cũng với ý nghĩa trường tồn ấy, cây đa xuất hiện trong ca dao như một nhân
chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của đất trời, đôi
khi là cả một vòng đời người.
“Trǎm nǎm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
Cây đa cũ, bến đị xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ”
Như vậy, cây đa luôn là biểu tượng đẹp với hầu hết các ý nghĩa chuẩn mực của
biểu tượng: vừa hiện hữu, vừa tiềm ẩn, huyền bí, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa
mang đậm yếu tố tâm linh. Phải chǎng chính sự kết hợp này đã tạo nên biểu tượng
cây đa có sức sống bền lâu trong vǎn học dân gian, vǎn thơ bác học và trong tâm hồn
mỗi con người Việt Nam.
- Đường làng( Đường công hương):
- Cổng phụ:
- Xóm: Đó là những tập hợp gia đình cư trú, nhỏ hơn và nằm bên trong làng xã,
xóm chính là phân thể của làng nhưng xóm vẫn có một đời sống riêng dựa trên quan
hệ cộng cảm giữa những người sống gần nhau và được bảo hộ bởi thần xóm. Người
ta xây dựng miếu xóm làm nơi thờ tự thần xóm.

- Ngõ: Là một đơn vị của xóm, một xóm có thể bao gồm nhiều ngõ, mỗi ngõ
tính theo một con đường nhỏ ăn từ đường lối xóm đi vào. Ngõ cũng được tổ chức
thành hàng ngõ và đứng đầu là một ơng ngõ trưởng, có nơi gọi là trưởng khu vì
người ta coi ngõ là một khu của xóm. Thật ra, ngõ là một khóm dân cư trong xóm
nằm hai bên một con đường hàng ngõ.
- Nhà ở (gia đình, trong đó gia: nhà, đình: sân): là tế bào nhỏ nhất trong một
làng, ở đó tập hợp những người có quan hệ huyết thống gần gũi với nhau, sống
chung với nhau dưới một mái nhà.
- Bến nước: ở nhiều vùng q cịn có những đoạn hoặc những con kênh nhỏ.
Bến nước là nơi dân làng tập trung để đi đò hoặc tiến hành các sinh hoạt cộng đồng
khác. Dần dần nơi đây trở thành một nét văn hóa khơng thể thiếu trong đời sống của
các cư dân làng quê Việt Nam.
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

18

Năm 2012


- Giếng làng: Nông thôn Việt Nam xưa phần nhiều là nhà gianh, do đó rất ít nhà
có bể nước mưa, người làng chủ yếu dùng nước giếng công cộng để nấu ăn. Vì thế
“Cây đa - Giếng nước - Mái chùa” đã trở thành những hình ảnh của quê hương.
+ Nước mưa là tinh khí của trời cha và được đất mẹ giữ lấy, để từ đây mọi sinh
linh sinh sôi và phát triển. Giếng nước là nơi tụ hội nguồn sống, là nơi tích phúc để
dân làng ăn nên làm ra. Giếng nước còn là chiếc gương lớn để các cơ gái ra gánh
nước thì tranh thủ soi mình làm duyên. Và vì thế bên giếng làng thường diễn ra
những cuộc hị hẹn ân tình lứa đơi.
+ Trong cái tổng thể văn hố làng q bình dị mà lung linh huyền ảo, cây đa có
thần, mái chùa có Phật thì giếng nước là sự tượng trưng cho sự dồi dào sung mãn và
cho nguồn gốc của sự sống. Bàn thờ gia tiên ở nhà dân hay bàn thờ thần thánh ở đền,

đình đều khơng thể thiếu được bát nước mưa hay nước giếng. Trước ngày hội làng,
bài vị và ngai thờ Thành hoàng đều được mộc dục (lau chùi) bằng nước giếng hay
nước sơng. Và nếu hội có thi nấu cơm hay thi làm cỗ thì đều lấy nước từ giếng làng.
- Đình làng: Bất kỳ một làng q nào ở Việt Nam cũng có một ngơi đình. Ðình
là ngơi nhà cơng cộng của làng q thời xưa, dùng làm nơi thờ Thành Hồng và họp
việc làng.
Ngơi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau luỹ tre xanh mướt
là một tác phẩm nghệ thuật của con người hoà nhập trong làng quê.
- Chùa làng: Cũng là một yếu tố có mặt trong hầu hết các làng xã được phản
ánh qua câu nói cửa miệng của người dân: “đất của vua, chùa của làng”. Đó là nơi
thờ Phật cũng là nơi sinh hoạt hội hè của dân làng. Chùa làng thường được xây dựng
ở nơi phong cảnh thanh tịnh, nơi gò cao trong làng.
- Các cơ sở nghè, đền, miếu: Là nơi thờ chính thức các vị thần trong làng, được
xây dựng gần đình làng, cũng có khi được đặt rải rác trong làng.
- Chợ làng: Nhắc đến văn hố làng xã người ta khơng thể không nhắc tới chợ
làng. Quả thật một phần đời sống của những người dân quê được khắc hoạ qua sự
phát triển của chợ làng. Ngoài ý nghĩa trao đổi mua bán, chợ làng còn là nơi để thăm
hỏi, mời gọi, nói chuyện con trâu, cái cày, chuyện ruộng, vườn, đồi núi... Tất cả cứ
ồn ã, xôn xao và đậm đà tình làng, nghĩa xóm. Bởi thế, người xưa đã từng ao ước:
"Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi về".
- Cánh đồng làng: từ những cánh cổng phụ của làng nhìn ra, người ta thấy cánh
đồng làng rộng bát ngát với những thửa ruộng nối liền bờ, tùy theo từng tháng trong
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

19

Năm 2012



năm mà đây là những ruộng lúa chín vàng hay những ruộng mạ. Đây chính là nguồn
sống chủ yếu của dân làng.
Ngày nay, do tình hình biến đổi và nhất là tác động của cơng cuộc cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nên diện mạo các làng xã đã có những đổi thay khơng cịn đầy đủ
các diện mạo như trên.
-------------------------------------------------------------------------------------------CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP
1. So sánh nét tương đồng và dị biệt trong hai khái niệm “làng”, “xã”?
2. Chế độ quân điền thời nhà Lê tác động như thế nào đến quá trình thành lập
làng xã ?
3. Vai trò của dòng họ trong làng xã Việt Nam cổ truyền?
4. Nét đặc trưng của các làng Việt ở Bắc - Trung - Nam bộ?
PHẦN TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
1. SV cần đọc hệ thống tài liệu tham khảo chính của chương này gồm những
cuốn sách sau:
- Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu Văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội
- Toan Ánh (1992), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, NXB tp Hồ Chí Minh
- Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất Việt Nam trong lịch sử từ thế kỷ XIXVIII (T.1), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982
- Cùng các nguồn tài liệu khác lấy từ Internet, các sách báo, tạp chí
2. SV cần chú ý đến các câu hỏi thảo luận cuối chương để có cách tiếp cận vấn
đề phù hợp nhất.
3. Nhận đề tài và làm bài kiểm tra học trình
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

20

Năm 2012


Chương 2: GIA ĐÌNH, DỊNG HỌ, LÀNG XÃ VIỆT NAM CỔ TRUYỀN NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA XÃ HỘI

* Mục tiêu:
Giáo dục: SV nắm vững và hiểu rõ những đơn vị kiến thức trọng tâm, SV biết
được về gia đạo của một nhà, gia phong của dòng họ đến sự hình thành hương ước,
khốn ước trong làng xã.
Giáo dưỡng: Từ những kiến thức được lĩnh hội, người học sẽ có một nhận thức
đúng đắn về nếp nhà, những truyền thống lâu đời tốt đẹp tạo nên tính cộng đồng
trong dịng họ và làng xã. Từ đó, bồi dưỡng lịng u thương mọi nguwoif, cố gắng
phấn đấu học tập theo đúng lời dạy của tiền nhân/
Phát triển: bồi dưỡng kỹ năng phân tích tổng hợp...
* Phương pháp giảng dạy: sử dụng tổng hợp các phương pháp: phát vấn,
thuyết minh, đặc biệt sử dụng hệ thống các câu hỏi gợi mở để giúp SV tiếp cận vấn
đề một cách nhanh chóng và chính xác.
Tổ chức thảo luận, cho SV phát huy tối đa năng lực và khả năng dẫn dắt, giải
quyết vấn đề.
2.1 Gia phong
2.1.1 Nguồn gốc triết lý gia phong
- Tâm lý cội nguồn: Dân tộc nào trên thế giới cũng đều mang trong mình
những đặc trưng văn hóa riêng đáng tự hào. Người Việt từ khi mới lập quốc, trải qua
hàng ngàn năm lịch sử đã tự tạo dựng cho mình bản sắc khơng thể hịa lẫn – bản sắc
văn hóa Việt Nam. Trong đó, người Việt ln tự hào về truyền thống gia đình, gia
tộc và làng xã đều cùng chung một gốc. câu truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ cho
thấy cách nhìn nhận của người Việt cổ về nguồn gốc dân tộc mình. “Đồng bào” –
cùng chung một bọc. Chình vì thế, nước non cũng chính là một đại gia đình mà
trong đó mọi thành viên cùng sinh sống hoàn thuận, cùng giúp đỡ và yêu thương lẫn
nhau.
- Xuất phát từ quan niệm về gia đình như thế, mà trong văn hóa người Việt, có
những đặc điểm mà khơng có bất kỳ một dân tộc nào khác trên thế giới có. “Rồng”
một linh vật siêu thực là cha. Vì thế khắp nơi trên đất nước Việt Nam đâu đâu cũng
có rồng: Rồng bay ở Thăng Long, rồng xuống ở Quảng Ninh, rồng xanh ở Nghệ An,
rồng vàng ở Phủ Lý,…Để rồi từ đó, khi tiếp nhận văn hóa Trung Hoa, vua – người

đứng đầu nhà nước lấy biểu tượng của rồng.
- Từ tâm lý tự hào về nguồn gốc dân tộc Việt, mà người Việt ln có ý thức về
sự tồn tại của bản thân mình và dịng giống mình. Cho nên, quan niệm “con đàn,
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

21

Năm 2012


cháu đống” tượng trưng cho sự xum tụ, yên vui. Và người Việt ln muốn dịng tộc
của mình được duy trì mãi mãi và trường cữu với thời gian.
- Cuộc sống tâm linh: nằm trong khuôn khổ của văn minh phương Đông với
hằng số là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, người Việt có đời sống tín ngưỡng
vơ cùng phong phú. Trên cơ sở tín ngưỡng bản địa đa thần, người Việt đã tiếp nhận
và bản địa hóa các tôn giáo ngoại nhập để làm chúng trở nên gần gũi và dễ nắm bắt
hơn. Quan niệm về nhân quả, thiện ác đã chi phối mạnh đến đời sống người dân
Việt. Cho nên, cuộc sống trường cữu sau khi chết đi mới là cuộc sống mà con người
theo đuổi. Từ đó, hình thành nên một lối sống họ hàng, làng xóm đầy tình nghĩa,
cùng “tối lửa, tắt đèn” có nhau. Bất kỳ ai khi trở thành cha, thành mẹ đều mong
muốn nuôi dạy con cái lớn khôn, đồng thời tạo phúc sau này cho con. Đó chính là
quan niệm sâu sắc nhất về văn hóa gia đình Việt.
2.1.2 Triết lý gia phong
2.1.2.1 Quan niệm “nhà có phúc”
Trong quan niệm của người Việt truyền thống, nhà có phúc là điều mong ước
cũng là niềm vinh hạnh nhất của một gia đình. Nhà có phúc chính là nhà có được
cuộc sống bình yên, thanh thản
“ Vàng tuy trời chẳng trao tay
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi”
(Gia huấn ca)

Nhà có phúc phải có con nối dõi tơng đường, là gia đình liền mạch từ cố can,
ông bà, bố mẹ đến con cái các đời về sau. Người Việt rất quan trọng việc thờ tự, cho
nên một gia đình tuyệt tự khơng thể nào là nhà có phúc. Chính ý thức “tiếp nối”
trong tâm linh người Việt đã đưa vấn đề duy trì nịi giống lên hàng đầu. Tuy nhiên,
khơng q cực đoan như câu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ”, trên bàn thờ gia
tiên người Việt, vị trí của các bà Ngũ đại tổ cô, tam đại tổ cô rất quan trọng. Và
trong thực tế, có những nhà khơng có con trai nhưng bố mẹ vợ vẫn được con rể thờ
tự một cách chu đáo.
Nhà có phúc cịn là một gia đình, con cháu đạt được những cơng tích nhất định,
làm vẻ vang cho dịng họ. Đó có thể là thi cử đỗ đạt hoặc sống tốt với làng xóm cũng
đều được xem là nhà có phúc.
2.1.2.2 Gia đạo
- Gia đạo chính là đạo nhà, mỗi gia đình đều phải có đạo của nhà mình. Nội
dung của chữ đạo vô cùng phong phú:
+ Đạo là tâm niệm mà gia đình hướng đến.
+ Đạo cũng chỉ vào nghề nghiệp của gia đình.
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
22


+ Đạo cũng là danh dự, nề nếp, truyền thống của một gia đình.
+ Đạo cũng là bổn phận, trách nhiệm của từng thành viên trong gia đình. Nhà
có gia đạo, nghĩa là những người trong gia đình cần nhận thức về vị trí, trách nhiệm
của mình trong gia đình để sống và ững xử sao cho có tình, có nghĩa, có trước, có
sau.
- Gia đạo cũng đồng thời là đạo của dân tộc, của Tổ quốc Việt Nam như nhà thơ
Nguyễn Đình Chiểu đã viết “Dù đui mà giữa đạo nhà
Cịn hơn có mắt ơng cha khơng thờ
Dù đui mà khỏi danh nhơ

Cịn hơn có mắt ăn nhơ tanh rình”
(Ngư tiều vấn đáp)
2.1.2.3 Gia pháp
- Gia pháp là những quy tắt, lề luật quy định mà những thành viên trong gia
đình phải tn thủ và thực hiện để tơn trọng sự tơn ty trật tự trong gia đình, giữ gìn
sao cho gia đình được nghiêm minh, vững bền và tiến bộ.
- Người phạm vào gia pháp có thể phải chịu các hình phạt sau đây:
Bị trách cứ: phải đứng nghiêm trước bàn thờ gia tiên để sám hối, quỳ lạy các
bậc tơn trưởng để xin thứ lỗi
Đánh địn
Đuổi ra khởi nhà, khỏi họ…
- Gia pháp là những quy tắt đặc biệt vì dù khơng thành văn nhưng hồn tồn
nhận được sự nhất trí chung của tất cả mọi người trong gia đình. Giữ gìn gia pháp là
giữ gìn nếp nhà, đạo nhà, lệ làng, luật nước.
2.1.2.4 Gia lễ
* Cần hiểu rõ gia lễ trên hai khía cạnh:
- Sự gìn giữ lễ nghĩa của một gia đình: Đó là vấn đề giáo dục, nhắc nhở con cái
phải biết bổn phận, phải rèn luyện để có hạnh kiểm tốt, phải biêt giữ lễ ngay trong
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó, mỗi thành viên có trách
nhiệm và nghĩa vụ khác nhau: Người cha, người mẹ phải có lịng nhân từ, người con
phải có lịng hiếu thảo. Thành ngữ “phụ từ, tử hiếu” là câu khen giành cho các gia
đình biết giữ lễ. Bên cạnh đó, con em trong nhà cần hiếu đễ. Những người vợ, chồng
phải ăn ở thuận hòa “Thuận vợ thuận chống, tát bể Đơng cũng cạn”. Anh chị em
trong họ hàng phải hịa mục
- Các nghi lễ, nghi thức của gia đình phải thực hiện theo đúng quy định: tất cả
những lễ nghi này đều được người xưa biên soạn thành văn. Ở Trung Hoa đó là Chu
lễ, Nghi lễ và Lễ ký. Đối với người Việt nổi tiếng nhất là Thọ mai gia lễ. Những lễ
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
23



nghi trong gia lễ được chia ra thành 4 nhóm: quan, hôn, tang, tế được quy định hết
sức chặt chẽ.
2.1.2.5 Gia phong
- Đạo đức, lễ nghĩa. Ví dụ cha ơng có cơng với đất nước, con cháu khơng theo
được, nhưng vẫn giữ tư cách người dân, không phản bội, thực hiện đầy đủ trách
nhiệm của mình thì nhà đó vẫn có gia phong
- Học hành: Cha làm thầy khơng thể để cho con mù chữ. Nếu khơng được làm
quan thì người con cũng cần phải tiếp nối việc đèn sách của cha…
- Nghề nghiệp: Các thế hệ sau tiếp tục phát huy nghề đã được cha ông truyền
lại. Gia truyền chính là kinh nghiệm, cũng đồng thời là sự cần cù, chăm chỉ trong lao
động, sáng tạo để tạo ra các sản phẩm ngày càng tốt hơn…Vì thế nếu con cái khơng
tiếp tục cơng việc của cha mẹ thì cũng cần nâng niu, trân trọng những đức tính tốt
đó.
Những gia đình nào con cháu khơng giữ được nếp nhà, khơng nối nghiệp cha
ơng, thậm chí trở thành kẻ ăn chơi, phá hoại thì bị gọi là điểm nhục gia phong.
Giữ gìn gia phong khơng chỉ đối với nhà mà cịn đối với đất nước nưã. Nhiều
gia đình Việt Nam xưa được gọi là “cừu gia tử đệ, nghĩa là con cháu nối chí cha ơng,
vì nước qn thân, xơng pha chống giặc. Đó là những nhà có gia phong tốt.
2.2 Tộc phả
2.2.1 Quá trình hình thành
- Tộc phả (gia phả) là một cuốn lịch sử chung của gia tộc. Nó không những ghi
chép lại nguồn gốc của gia tộc, quỹ đạo di chuyển, cịn bao gồm tồn bộ q trình
lịch sử văn hóa như: kế tục nịi giống, văn hóa, quy tắc, quy ước của gia tộc…oại xâ
- Phả hệ truyền miệng chính là hình thức tồn tại đầu tiên của gia phả. Chức
năng đầu tiên của nó là xác định quan hệ thân sơ, tập hợp họ hàng, ưu hóa sự sinh để
được gọi là thân thân dĩ tương cập.
- Gia phả viết của từng tộc họ có thể cho ta biết nguồn gốc tộc họ, nguyên nhân
di dời, nguồn gốc phả hệ. Thơng qua đó, tìm hiểu tổ tiên, nhận tổ tơng, gắn bó họ

hàng và gia đình làm thành quần thể xã hội. Vậy gia phả viết được hình thành từ khi
nào?
- Theo phỏng đốn của các nhà sử học thì việc ghi chép sổ điền để nhà vua
kiểm ra nhân khẩu có thể là nguồn gốc dẫn đến sự ra đời của gia phả. Ý kiến khác lại
cho rằng, gia phả có nguồn gốc ở Trung Quốc chỉ xuất hiện tại Việt Nam thời kỳ Sĩ
Nhiếp làm thái thú ở Giao Chỉ hoặc gần hơn thời Lý Nam Đế (476 – 545), nhưng
phải đến thời Lý – Trần cùng với hàng loạt chiến công hiển hách của cha ông trong
Nguyễn Thị Vĩnh Linh

24

Năm 2012


chống giặc ngoại xâm đem lại cho đất nước thời kỳ ổn định tương đối lâu dài thì gia
phả mới có điều kiện xuất hiện.
- Lúc đầu, chỉ có gia phả trong hoàng tộc và các gia tộc quan lại. Nhà Lý có
Hồng Triều ngọc điệp, nhà Trần có Hồng tơng ngọc điệp, nhà lê có Hồng Lê
ngọc phả….Bên cạnh đó là gia phả của các danh gia vọng tộc, sau đó lan rộng ra
tầng lớp bình dân. Đại thể có thể chi làm 3 thời kỳ: quý tộc, sĩ tộc và bình dân
2.2.2 Nội dung của gia phả
- Nguồn gốc và quá trình phát triển của họ: chúng ta biết rằng nguồn gốc họ của
người Việt Nam có từ rất lâu đời, nếu khơng có sự ghi chép từ các sách cổ hoặc gia
phả cổ thì người đời sau rất khó để biết được tổ tơng của mình. Bên cạnh đó, do
hồn cảnh đất nước, người dân Việt ln phải đối mặt với nạn ngoại xâm, hay là các
cuộc nội chiến, một số họ đã thay đổi vì nhiều lý do khác nhau. Cho nên, việc tìm ra
đúng nguồn gốc cần những khảo chứng cụ thể mà gia phả là một trong những minh
chứng quan trọng nhất.
Trong gia phả có ghi chép về họ và Thủy tổ của mình, mục đích là nhằm xác
định rõ huyết thống, phân biệt quan hệ thân sơ và xác định nguồn gốc của họ

- Đường hiệu: đây là một tiêu chí đặc biệt của họ, nó thể hiện quan hệ địa lý của
nguồn gốc họ. Trong gia phả, đường hiệu có ý nghĩa gắn bó mối quan hệ giữa họ và
họ hàng, cũng là một đầu mối quan trọng để các thế hệ sau tìm hiểu về cội nguồn.
Tên gọi đường hiệu nói chung lấy từ tên quận huyện. Cùng với sự phát triển lớn
mạnh của các gia tộc họ, đã xuất hiện nhiều tên họ nổi tiếng. Trải qua nhiều biến cố
thiên tai….người trong gia tộc lớn di chuyển đi và phân tán mọi nơi. Do đó, mới nảy
sinh cách nhập chi nhánh đường hiệu dưới đường hiệu chung. Đường hiệu chung đại
diện cho cái nôi của gia tộc, để người đời sau không quên gia tộc. Đường hiệu nhánh
đại diện cho mảnh đất mới chuyển đến của người trong họ. Sau khi trở thành gia tộc
danh vọng ở nơi đó, thì lấy tên quận của nơi này làm đường hiệu chung và chi nhánh
đường hiệu chung gọi là quận vọng.
- Bảng phả hệ gia phả cung cấp rất nhiều thông tin quan trọng cho các thế hệ
sau: tổ tiên, những danh nhân trong dòng họ, đồng thời ghi rõ nơi ở của từng người
trong họ.
Bảng phả hệ ghi lại nội dung quan trọng nhất của gia phả, đó là xác định mối
quan hệ giữa các thành viên trong tộc họ. Ví dụ, quan hệ cha con, anh em, viết rõ sơ
đồ tên thành viên trong gia tộc của Tổ tiên và thế hệ sau. Có 4 cách thức trình bày cơ
bản: Âu thức, Tô thức, Kiểu tháp thức, Điệp ký thức.
- Gia huấn: có tác dụng rất lớn đối với việc giáo dục truyền thống tộc họ. Đây
cũng là một bộ phận cấu thành nên gia phả.
Nguyễn Thị Vĩnh Linh
Năm 2012
25


×