Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Luận văn nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống thanh long và biện pháp kỹ thuật tăng năng suất, phẩm chất giống thanh long ruột đỏ trồng ở gia lâm hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.38 KB, 71 trang )

phần 1
Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Cây thanh long (Hylocereus undatus, Haw) thuéc hä X−¬ng rång
(Cactaceae) cã nguån gèc ë khu vực Trung và Bắc Mĩ. Theo nhiều tài liệu,
cây thanh long đợc ngời Pháp nhập vào Việt Nam cách đây khoảng một
trăm năm, ban đầu cây thanh long chỉ đợc trồng với số lợng ít để phục vụ
cho vua chúa và sau đó là cho các gia đình quý tộc và để thờ cúng ở các đền,
chùa [3] [5]. Thanh long thực sự đợc trồng rộng rÃi và phát triển thành hàng
hoá từ năm 1989 - 1990 trở lại đây, từ khi quả thanh long đợc xuất khẩu
sang các nớc nh Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore và Châu
Âu.
Cây thanh long là một trong những cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh
tế cao ở những nơi không chủ động nớc của các tỉnh phía nam và phù hợp
với phơng thức canh tác kinh tế hộ gia đình nh hiện nay. Cây thanh long
sau trồng một năm đà bắt đầu cho quả, thời gian cho quả kéo dài từ 6 - 7
tháng trong năm và chia ra thành nhiều đợt quả, tránh đợc hiện tợng quả bị
ế đọng trong mùa vụ. Quả thanh long có giá trị dinh dỡng rất cao và khác
hẳn với thành phần dinh dỡng của các loại qủa khác. Hàm lợng dinh dỡng
có trong 100gr thịt quả thanh long ruột trắng là tổng hàm lợng chất rắn hoà
tan: 13%; đờng khử: 6,1g; đờng tổng số: 11,5g; acid hữu cơ: 0,13g; protein:
0,53g; K20: 212,2mg; P205: 8,7mg; Ca: 134,5mg; Mg: 60,4mg; Vitamin C:
9,4mg và chất xơ là 0,71g (Nguồn bộ môm sinh lí sinh hoá - Trờng Đại học
Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh,1995) [11].
Giống thanh long ruột đỏ đợc Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đài
Loan tạo ra bằng phơng pháp lai hữu tính, giữa giống thanh long ruét tr¾ng

1


và một giống thanh long của Mêhicô. Kể từ khi giống này đợc ra đời, nó đÃ


thay thế dần giống thanh long ruột trắng và hiện tại ở Đài Loan giống thanh
long ruột trắng còn trồng không đáng kể. Giống thanh long ruột đỏ đợc một
số chuyên gia nông nghiệp Đài Loan đa sang trồng ở đảo Hải Nam - Trung
Quốc từ năm 1996 - 1997 và giống này đang đợc phát triển rất tốt ở một số
trang trại liên doanh giữa Trung Quốc - Đài Loan tại đảo Hải Nam. Đặc điểm
của giống này là cho quả có hình thức cũng nh chất lợng hơn hẳn quả thanh
long ruột trắng. Quả khi thu hoạch có khối lợng từ 300 - 400g, vỏ màu đỏ và
thịt quả màu đỏ thẫm. Thịt quả ăn ngọt trung bình đạt 18 - 20% tổng chất rắn
hoà tan, không có vị ngái. Nhờ thịt quả có màu đỏ thẫm tự nhiên, những quả
không có khả năng bán để ăn tơi có thể sử dụng làm nguyên liệu chế biến
rợu vang để cho ra loại rợu có màu rất hấp dẫn. Hàm lợng dinh dỡng có
trong 100gr thịt quả thanh long ruột đỏ thuỷ phần: 82,5 - 83g; chÊt bÐo: 0,21 0,61g; Protein: 0,159 - 0.229g; chÊt x¬: 0,7 - 0,9g; Carotene: 0,005 0.012mg; Ca: 6,3 - 8,8mg; P205: 30,2 - 36,1mg; Fe: 0,55 - 0,65mg; Vitamin
C: 8 - 9mg; Vitamin B1: 0,028 - 0,043mg; Vitamin B2: 0,043 - 0,045mg;
Vitamin B3: 0,297 - 0,43mg; tro: 0,28g và chất khác là 0,54 - 0,68g [2] [33].
Vài năm gần đây giống này không chỉ phát triển mạnh ở đảo Hải Nam
mà cả ở một số vùng thuộc tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Sản phẩm của
giống này chủ yếu đợc tiêu thụ ở thị trờng Bắc Kinh và Hồng Kông. Năm
2001, giống thanh long ruột đỏ lần đầu tiên đợc Viện nghiên cứu Rau quả
đa về trồng thử nghiệm tại Viện và một số vùng miền Bắc nớc ta nh Hà
Tây, Hng Yên, Nghệ an...
Ngoài tác dụng ăn tơi, quả thanh long còn có giá trị cao trong y học
nh thịt quả thanh long có tác dụng chữa bệnh thiếu máu, huyết áp cao và
xuất huyết nÃo. Thịt quả thanh long ruột vàng có chứa hàm lợng chÊt captin

2


cao, ngời ta chiết xuất để làm thuốc trợ tim. Hoa thanh long đem sắc lấy
nớc uống chữa bệnh ho. Vỏ quả đợc chiết xuất lấy màu đỏ tự nhiên dùng
trong chế biến công nghiệp thực phẩm [20]. Thân cành thanh long chữa bệnh

thần kinh toạ và có thể là nguồn thức ăn cho gia súc ở những nơi khô hạn, cỏ
không thể mọc đợc. Quả thanh long ăn vị ngọt mát, nên rất hấp dẫn thị hiếu
ngời Việt Nam cũng nh ngời nớc ngoài. Ngoài việc dùng để ăn tơi, thịt
quả còn sử dụng để chế biến. ở Malaysia, họ dùng thịt quả để trộn salad, làm
xirô, rợu, nớc quả, mứt. Hoa thanh long để nấu súp, ớp chè.
Thanh long là một loại cây rất dễ trồng, có thể sinh trởng, phát triển
trên mọi loại đất nhng để góp phần tăng năng suất, chất lợng sản phẩm,
ngoài việc mở rộng diện tích thì vấn đề tăng cờng về giống, biện pháp kĩ
thuật là vô cùng quan trọng. ở Việt Nam, cây thanh long phát triển mạnh ở
các tỉnh phía nam víi diƯn tÝch trång thanh long hiƯn nay lªn tới 5.000 ha với
sản lợng 125. 000 tấn. Tuy nhiên ở miền Bắc nớc ta, cây thanh long ruột
trắng đợc trồng rải rác từ lâu nhng cha đợc chú trọng do năng suất, chất
lợng thấp. Vì vậy, việc đánh giá khả năng sinh trởng, phát triển của một số
giống thanh long là để đa cây thanh long vào cơ cấu giống cây trồng ở miền
Bắc. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: Nghiên
cứu khả năng sinh trởng, phát triển của một số giống thanh long và biện
pháp kĩ thuật tăng năng suất, phẩm chất giống thanh long ruột đỏ trồng ở Gia
Lâm - Hà Nội.
1. 2. Mục đích và yêu cầu
1. 2.1. Mục đích
1. Đánh giá khả năng sinh trởng, phát triển của mét sè gièng thanh long
nh»m tuyÓn chän gièng thanh long có năng suất cao, phẩm chất tốt trồng sản
xuất ở miỊn B¾c - ViƯt Nam.

3


2. Thăm dò ảnh hởng của một số biện pháp kĩ thuật làm tăng năng suất,
chất lợng giống thanh long ruột đỏ trồng trong điều kiện Gia Lâm - Hà Nội.
1. 2. 2. Yêu cầu

1. Đánh giá khả năng sinh tr−ëng, ph¸t triĨn cđa mét sè gièng thanh long
trång trong điều kiện Gia Lâm - Hà Nội.
2. Đánh giá ảnh hởng của một số liều lợng phân kaliclorua, phân bón lá
và thời gian cắt tỉa đến năng suất, phẩm chất giống thanh long ruột đỏ trồng ở
Gia Lâm - Hà Nội.
1.2.3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- ý nghĩa khoa học
Cho phép khẳng định khả năng phát triển trồng trọt cây thanh long ở
điều kiện của vùng đồng bằng sông Hồng và miền Bắc - Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho các công trình nghiên cứu
tiếp theo để chọn lọc và xây dựng quy trình kỹ thuật thâm canh tăng năng
suất thanh long ở điều kiện miền Bắc nớc ta.
Đề tài đà khẳng định đợc vai trò của các giải pháp kỹ thuật nhằm ổn
định và tăng năng suất cây thanh long ë miỊn B¾c - ViƯt Nam.
- ý nghÜa thực tiễn
Những kết quả thu đợc của đề tài nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung
hoàn thiện quy trình thâm canh thanh long cho vùng Gia Lâm - Hà Nội và có
thể đợc áp dụng mở rộng cho tất cả các vùng trồng thanh long ở miền Bắc Việt Nam.

4


phần 2
tổng quan các vấn đề nghiên cứu
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Việc xây dựng vùng trồng thanh long phải phù hợp về điều kiện khí
hậu thời tiết, đất đai, giống và các biện pháp kỹ thuật trồng trọt. Tuy vậy, với
các yếu tố trên thì yếu tố giống và biện pháp kỹ thuật là những yếu tố cần
thiết, đang thiếu nhất.
Thanh long trồng ở miền Bắc - Việt Nam ra hoa tốt nhng tỷ lệ đậu quả

không cao dẫn đến năng suất thấp. Nguyên nhân của vấn đề này đợc nhiều
tác giả trong một số tài liệu cho rằng: các giống hiện trồng có ít hoa và mïa
ra hoa trïng víi mïa m−a nªn sù thơ phÊn, thụ tinh bị hạn chế. Vì vậy, cần
thiết phải có giống thanh long thích ứng với điều kiện này để khắc phục đợc
hạn chế trên. Tuy nhiên, thanh long ra hoa trong điều kiện ngày dài, vì thế
phải nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thúc đẩy cho cây ra hoa tại thời điểm
thích hợp.
Ngoài năng suất không cao, khối lợng quả của thanh long cũng là vấn
đề cần chú ý khi trồng trọt trong điều kiện vùng sinh thái Gia Lâm - Hà Nội.
Những hạn chế này, có thể do chế độ chăm sóc, việc bổ sung dinh dỡng cho
cây cha hợp lý. Vì vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu để xây dựng quy
trình chăm sóc hợp lý cho cây thanh long trồng tại miền Bắc - ViƯt Nam.
2.2. Tỉng quan nghiªn cøu vỊ thanh long
2.2.1. Ngn gốc phân bố và phân loại
Cây Thanh long có tên khoa học là Hylocereus undatus (Haw) Britt &
Rose (Phạm Hoàng Hộ 1968, 1970, Vũ Văn Chuyên 1977, Võ Văn Chi và
Dơng Đức Tiến 1978) [3]. Cây thanh long ngoài tên phổ thông là dragon
fruit còn có tên nh Pitahaya, Strawberry bear (Phạm Hoàng Hộ 1970,

5


Barbeau 1990) [31]. Thanh long thuéc hä Cactaceae (X−¬ng rång) bé
Cactales líp Dicotyledonac (Song tư diƯp), ngµnh Angiospermae (Hét kÝn).
Hä Xơng rồng có từ 50 đến 200 giống và hơn 2.000 loài (Mascré và
Deysson 1967, Phạm Hoàng Hộ 1968, Vũ Văn Chuyên 1977, Trơng Thị
Đẹp 1999) [3].
Theo Võ Hữu Thoại và Nguyễn Minh Châu [13] cho thấy: họ xơng
rồng gồm có 220 giống và trên 1.500 loài, phân bố từ vĩ tuyến 360 Bắc đến 450
Nam; chủ yếu là các vùng nóng và khô của châu Mỹ nh ở vùng sa mạc

Mêhicô. Một số loài ở vùng nhiệt đới châu Phi, Madagasca, Xây-lan...[3]. Có
khoảng 20 loài trong họ xơng rồng, đợc trồng lấy quả và có một số chi
quan trọng nh− Hylocerus, Opuntia, Stenocereus, Cereus, Selenicereus. Trong
loµi Opuntia. ficus - Indica (L) có giống Stenocereus đợc trồng trong vùng
Bắc khô hạn ở miền Trung và miền Nam - Mêhicô. Loài Cereus. peruvianus
(L) Miller đà đợc biết đến nh là cây cảnh trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới, gần đây đợc trồng ở israel và miền Nam - California để lÊy qu¶ (Nerd at
al 1994) [31]. Theo Mazrahi 1996 [29], loài Selenicereus đợc trồng với diện
tích lớn ở Colombia và loài Hylocereus undatus trồng ở Việt Nam với quy mô
lớn.
Các cây thuộc họ Cactaceae có lá giảm và có thể không có lá ở cây
trởng thành, hoặc chỉ tồn tại dạng vẩy thậm chí lá biến đổi thành gai (Backer
& cs 1963, Deyson 1965, Fletcher, RJ 1997, MascrÐ vµ Deysson 1967, Vũ
Văn Chuyên 1977, Trơng Thị Đẹp 1999) [3] [26]. Cây thanh long có kiểu
đồng hoá theo chu trình CAM cña hä Tr−êng sinh (CAM: CRassulacean Acid
Metabolism) (Laval & cs 1979, Ting 1985, Trơng Thị Đẹp 1999) [3].
Theo Võ Hữu Thoại 1999 [14] cho rằng một số cây lấy quả thuéc hä
x−¬ng rång nh− sau:

6


Bảng 2.1: Phân loại một số cây lấy quả thuộc họ xơng rồng.
Chi/Loài
Tên thờng gọi
Đặc tính thực vật
Đặc điểm quả
1. Opuntia
O.ficus-indica (L) Tuna, prickly or Thân phẳng có Quả nặng 100-200g, hình bầu
Miller

cactus pear
nhiều đoạn khúc dục. Màu sắc vỏ và thịt quả
khỷu, dạng bụi
thay đổi rất khác nhau từ
xanh, vàng đến đỏ. Vỏ quả có
nhiều lông
O. amylaea Tenore Tuna, prickly or Thân phẳng có Quả nặng 100-200g, hình bầu
cactus pear
nhiều đoạn khúc dục. Màu sắc vỏ và thịt quả
khỷu, dạng bụi. thay đổi rất khác nhau từ
Thân có nhiều gai xanh, vàng đến đỏ. Vỏ quả có
nhiều lông.
2. Stenocereus
S.griseus (Howarth) Pitaya de Mayo
Thân thẳng đứng Quả hình cầu trọng lợng
Buxbaum
mọc bụi hoặc 100-200g, vỏ có nhiều gai,
dạng cây nhỏ
thịt quả màu vàng đến đỏ.
S.queretaroensis
Pitaya
de Thân thẳng đứng Quả hình cầu trọng lợng
(Weber) Busbaum
Quertaro
mọc bụi hoặc 100-200g, vỏ có nhiều gai,
dạng cây nhỏ
thịt quả màu trắng, vàng, đỏ
tía đến đỏ thẫm.
S.stellatus
Pitaya de Augusto Thân thẳng đứng Quả hình cầu trọng lợng

(Pfeiffier)
mọc bụi hoặc 100-200g, vỏ có nhiều gai,
Riccobobo
dạng cây nhỏ
thịt quả màu đỏ.
3. Ceureus
C.Peruvianus (L) Pitaya,
apple Thân thẳng đứng Quả bầu dục nặng 200-300g.
Miller
cactus
mọc bụi hoặc Vỏ mỏng, màu vàng, tím đến
dạng cây nhỏ
màu đỏ. Thịt màu trắng.
4. Hylocereus
H.costaricensis
Pitaya,
apple Thân mảnh, hình Quả hình cầu, 300-600g, vỏ
(Weber) Britton & cactus
tam giác, dạng bò màu đỏ sẫm có nhiều vẩy lớn,
Rose
thịt quả màu đỏ tím.
H.
polyhizus Pitaya, Pitahaya
Thân mảnh, hình Quả hình cầu, 300-600g, vỏ
(Weber) Britton &
tam giác, dạng bò màu đỏ sẫm có nhiều vẩy lớn,
Rose
thịt quả màu đỏ.
H.
undatus Pitaya (Pitahaya) Thân mảnh, hình Quả hình cầu nặng 300-600g,

(Haworth) Britton roja, red pitaya
tam giác, dạng bò vỏ màu đỏ sẫm có nhiều vẩy
lớn, thịt quả màu trắng.
& Rose

7


2.2.2. Một số nghiên cứu về giống và chọn tạo gièng thanh long
* Mét sè nghiªn cøu vỊ gièng
ë australia có 3 giống chính đó là giống vỏ đỏ ruột trắng, giống vỏ đỏ
ruột đỏ và giống vỏ vàng ruột trắng [26].
Giống vỏ đỏ ruột trắng (Hylocerus undatus Britt & Rose) là giống
thuộc họ xơng rồng, có nguồn gốc từ rừng nhiệt đới ẩm của miền Trung và
miền Bắc Nam Mĩ. Trớc đây, cây thanh long đợc coi là hoang dại, sử dụng
nh cây cảnh vì có nhiều hoa với kích thớc lớn, có mùi thơm và nở vào ban
đêm. Hiện nay giống này rất đợc a chuộng trên toàn thế giới đặc biệt ở
israel, Việt Nam, australia... Bởi vì, quả thanh long ăn rất hấp dẫn, có mùi vị
khác biệt so với các loại quả khác. Giống này có thân hình tam giác, ít gai
thờng cho quả rất to, nặng khoảng 1kg thậm chí còn cao hơn. Vỏ quả có
màu đỏ sáng rất đẹp, thịt quả màu trắng đục có nhiều hạt nhỏ màu đen. Thời
gian từ khi nở hoa đến thu hoạch khoảng 30 ngày.
Giống vỏ đỏ ruột đỏ (Hylocerus polyrhizus): giống này có thân 3 - 4
cánh dẹp, nhiều gai, quả nhỏ hơn giống vỏ đỏ ruột trắng thờng dới 1kg. Vỏ
màu đỏ thẫm, thịt quả màu đỏ thẫm và nhiều hạt nhỏ màu đen.
Giống vỏ vàng ruột trắng (Selenicereus megalanthus): thân cây gầy hơn
thân cây của hai giống trên, có nhiều gai nhng gai to và ngắn. Quả nhỏ
thờng chỉ 200 - 300g/quả, vỏ quả màu vàng có nhiều gai. Thịt quả màu trắng
trong, rất nhiều hạt màu đen. Quả có chứa hàm lợng đờng rất cao [26] [30].
* Một số nghiên cứu về chọn tạo gièng

Theo Weiss 1994, trong cïng mét loµi Hylocerus spp, loµi Hylocerus
undatus tù thơ phÊn kÐm nh−ng thơ phÊn chÐo víi các loài khác đạt tỷ lệ đậu
quả cao. Và ông ghi nhËn r»ng, bao phÊn ë thanh long thµnh thơc trớc khi
hoa nở và nhuỵ nhận hạt phấn ngay đó. Theo Ngun Minh TrÝ, Bïi ThÞ Mü

8


Hồng, Nguyễn Trịnh Nhất Hằng [17], thanh long ruột đỏ đợc thụ phấn bổ
sung với nguồn phấn hoa từ các giống/dòng thanh long Chợ Gạo và Bình
Thuận đều làm tăng năng suất, phẩm chất quả thanh long. Đặc biệt, khối
lợng quả trên 350g/quả đà tăng lên đáng kể, tăng độ dầy vỏ quả, màu sắc vỏ
quả đồng đều hơn giống ruột đỏ để thụ phấn tự nhiên và ruột đỏ đợc thụ
phấn với ruột đỏ.
Trần Thi Oanh Yến, Trần Kim Cơng và Phạm Ngọc Liễu (2001 2002), bớc đầu đánh giá các con lai của hai tổ hợp lai thuận nghịch thanh
long Bình Thuận và thanh long ruột đỏ, thu ®−ỵc 188 con lai trong ®ã cã 18
con lai cã đặc tính tốt: cây sinh trởng khoẻ, khối lợng quả lớn, vỏ quả bóng
đẹp và không mẫn cảm với các bệnh nguy hiểm. Những con lai đó là: TLL15, TLL 1-11, TLL 1-28, TLL 1-35, TLL 1-50, TLL 1-61, TLL 1-80, TLL1-86
thuộc tổ hợp lai thanh long ruột đỏ với thanh long Bình Thuận và TLL 2-12,
TLL 2-22, TLL 2-23, TLL 2-39, TLL 2-66, TLL 2-76, TLL 2-80, TLL 2-93,
TLL 2-95 thuộc tổ hợp lai thanh long Bình Thuận với thanh long ruột đỏ [23].
Qua quá trình khảo nghiệm giống của Trần Thị Oanh Yến và ctv (2001
- 2002), cho kết quả là hai dòng thanh long Bình Thuận và Chợ Gạo cho năng
suất cao hơn hai giống thanh long vỏ vàng ruột trắng và giống thanh long ruột
đỏ ở điều kiện thụ phấn tự nhiên [22].
2.2.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ thanh long
Sản xuất cây ăn quả xuất khẩu đang là vấn đề quan tâm không chỉ đối
với các nhà chuyên môn, mà cả đối với ngời dân. Thanh long ở miền Nam,
đang có mặt ở nhiều thị trờng trên thế giới và có ở hầu hết các vùng trong cả
nớc. Riêng tỉnh Bình Thuận, thu đợc kim ngạch xuất khẩu gần 9 triệu USD

từ thanh long với lợng xuất khẩu 25.000 tấn. Tuy nhiên, điều này cha thực
sự phát huy hết thế mạnh của cây trồng, vì sản lợng thanh long mỗi năm ở

9


Bình Thuận lên tới 95.000 tấn do còn nhiều mặt hạn chế nh chất lợng sản
phẩm cha đợc an toàn, sản phẩm cha đợc đồng đều...
Theo đánh giá của trung tâm thông tin (Bộ Thơng mại), thanh long ở
tỉnh Bình Thuận đứng đầu cả nớc về năng suất và sản lợng. Trong 10 năm
gần đây, sản lợng thanh long ở đây tăng bình quân 33 - 38%/năm. Riêng
2003, sản lợng đạt 87.000 tấn trong đó lợng quả đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
đạt từ 40 - 50%. Tỉnh Bình Thuận đà có qui hoạch phát triển thanh long đến
năm 2010 với diện tích 11.000ha, đạt sản lợng 250.000 tấn [13].
Bảng 2.1: Diện tích và sản lợng quả thanh long trên cả nớc [34].
Năm

Diện tích(ha)

Sản lợng (tấn)

1991

300

5.000

1992

620


7.000

1993

800

12.000

1994

1.200

12.600

1995

1.300

14.000

1996

1.321

15.120

1997

1.978


17.509

1998

2.236

20.589

1999

2.772

33.367

2000

3.223

43.548

2001

4.485

57.744

2002

4.773


65.102

10


Mặc dù, thanh long ở miền Nam phát triển rất mạnh nhng ở miền Bắc
- Việt Nam, việc trồng cây thanh long ch−a thùc sù thu hót ng−êi d©n do năng
suất thấp, cha có bộ giống phù hợp...
2.2.4. Yêu cầu về sinh thái của cây thanh long
* Nhiệt độ
Cây thanh long có nguồn gốc ở vùng sa mạc Mêhicô và Côlômbia, là
cây nhiệt đới khô. Nhiệt độ thích hợp cho thanh long sinh trởng và phát triển
là 14 - 260C và tối đa 38 - 400C [14] [25]. Trong điều kiện có sơng giá nhẹ,
với thời gian ngắn sẽ gây thiệt hại nhẹ cho thanh long.
* ánh sáng
Cây thanh long chịu ảnh hởng của quang chu kì, ra hoa trong điều
kiện ngày dài; sinh trởng, phát triển tốt ở những nơi có ánh sáng đầy đủ [3]
[11] [33]. Vì thế, khi thân cây bị che nắng, cây sẽ bị yếu và chậm ra quả. Tuy
nhiên, nếu cờng độ ánh sáng quá mạnh, nhiệt độ cao sẽ làm giảm khả năng
sinh tr−ëng cđa thanh long.
* N−íc
Thanh long cã tÝnh chèng chÞu cao với điều kiện môi trờng không
thuận lợi nh chịu hạn tốt. Tuy nhiên, khả năng chịu úng của cây không cao.
Do vậy, để cây thanh long phát triển tốt, cho năng suất cao cần phải cung cấp
nớc đầy đủ, nhất là trong thời kì phân hoá mầm hoa, ra hoa và đậu quả. Nhu
cầu về lợng ma cho cây là 800 - 2000 mm/năm (Nguyễn Văn Kế, 1998)
[11], 500 - 1.500mm/năm [33] phân bố đều trong năm, nếu lợng ma quá
cao sẽ dẫn tới hiện tợng rụng hoa và thối quả.
* Đất đai

Thanh long trồng đợc trên nhiều loại đất từ đất khô cằn, đất cát, đất
xám bạc màu, ®Êt phÌn ®Õn ®Êt thÞt, thÞt pha sÐt [11]. Tuy nhiên, để trồng
thanh long đạt hiệu quả cao, đất phải tơi xốp, thông thoáng, thoát nớc tốt đặc

11


biệt ở đất có chứa 30 - 40% cát [26] [33]. Yêu cầu đất có pH từ 6,5 - 7,5, hàm
lợng hữu cơ cao, không bị nhiễm mặn.
2.2.5. Một số đặc điểm thực vật học của cây thanh long
* Rễ cây
Thanh long có hai loại rễ, đó là rễ địa sinh và rễ khí sinh. Rễ địa sinh
phát triển từ phần lõi ở gốc hom. Sau khi đặt hom từ 10 - 20 ngày, từ gốc hom
đó xuất hiện các rễ tơ màu vàng nhạt. Số lợng và kích thớc rễ tăng dần theo
tuổi cây. Những rễ lớn đạt đờng kính từ 1 - 2cm. Rễ địa sinh có nhiệm vụ
bám vào đất và hút các chất dinh dỡng nuôi cây. Rễ này phân bố chủ yếu ở
tầng đất mặt, khoảng 30cm trở lên. Rễ khí sinh mọc dọc theo thân cây. Phần
rễ trên không bám vào các chỗ hổng, chỗ trống của choái để giúp cây leo lên
đỉnh choái và cũng làm một phần nhiệm vụ hút dinh dỡng để nuôi cây [30].
Vì vậy, việc phun phân bón lên thân cây, cây không chỉ hấp thụ chất dinh
dỡng qua các lỗ khí khổng mà hút bởi các lông hút ở rễ khí sinh. Những rễ
khí sinh nằm gần đất sẽ đi dần xuống đất. Khả năng ra rễ của thanh long rất
cao, do một yếu tố nào đó mà đoạn gốc (cả nhu mô và lõi) bị mất đi mà đoạn
phía trên vẫn ra rễ và hút chất dinh dỡng tiếp tục nuôi cây.
* Thân, cành
Thanh long là loại cây leo nửa phụ sinh - lúc đầu mọc rễ dới đất sau
đó tạo ra nhiều rễ bất định bám lên một vật nơng tựa nào đó nh bờ tờng,
trụ, thân cây khác [3]...
Thân, cành thanh long a nắng, thân mËp th−êng cã 3 c¸nh dĐp hiÕm
khi cã 4 c¸nh, màu xanh lục (Nguyễn Văn Kế 1998) [11]. ở một số chi khác,

thân có 3 - 5 cánh, thắt khúc từng đoạn là điểm giới hạn của những đợt sinh
trởng. Thân bò rất dài thậm chí tới 5 - 7m, đờng kính 3 - 7cm. Thân không
có lá, lá đà bị tiêu giảm [11] [26] [30]. Theo Nguyễn Văn Kế (1998) [11],
chiều dài trung bình của cành thanh long ở cây 3 - 5 tuổi là 1,0 đến 1,1m.

12


Trên mỗi cành có nhiều thuỳ, tại thuỳ có nhiều lông mịn, ngắn và có 2 - 5 gai
nhỏ dài 2 - 4mm (Barbeau 1990, Trơng Thị Đẹp 1999) [3]. Các thuỳ xuất
hiện đều trên 3 cánh của thân xếp dọc theo một đờng xoắn ốc. Thuỳ là vị trí
bị tiêu giảm đợc gọi là mắt và cũng là nơi nụ hoa xuất hiện. Bìa mỗi cánh có
đờng viền màu vàng nâu nối liền các mắt với nhau. Tiết diện ngang cho thấy
có hai phần: bên ngoài là nhu mô chứa diệp lục, bên trong là lõi cứng hình
trụ.
* Hoa
Thanh long có duy nhất một loại hoa đó là hoa lỡng tính rất to, chiều
dài khoảng 25 - 35cm [3] [11] [30], chiều rộng 22,5cm [30]. Hoa màu vàng
sáng, mọc đơn độc trên thân cây, nhiều lá đài và cánh hoa dính nhau thành
ống, nhiều chỉ nhị và một vòi nhuỵ. Các lá đài hình vẩy dài, màu xanh xếp
kiểu xoắn ốc. Các cánh hoa có màu trắng ngà, mỏng manh xếp nối tiếp lá đài.
Các chỉ nhị xếp xoắn ốc trên ống bao hoa. ở bầu noÃn hạ, vòi nhuỵ dài hơn
chỉ nhị, vòi nhuỵ dài khoảng 18 - 24cm, đờng kính 5 - 8mm. Tận cùng là
nuốm nhuỵ, chia làm nhiều nhánh.
Hoa nở vào ban đêm, thờng nở tập trung từ 20 - 23 giờ. Hoa nở đồng
loạt trong vờn và sáng hôm sau thì hoa héo dần. Số đợt hoa xuất hiện trong
năm tuỳ thuộc vào từng giống, từng vùng. Theo tác giả Nguyễn Văn Kế 1998
[11], hàng năm có khoảng 4 - 6 đợt đối với giống thanh long ruột trắng trồng
tại miền Nam - Việt Nam. Giống thanh long ruột đỏ trồng tại đảo Hải Nam Trung Quốc, có 13 - 15 đợt hoa trong năm [2]. Mỗi đợt hoa chỉ kéo dài 2 - 3
ngày. Hoa xuất hiện sớm nhất vào cuối tháng 3 kết thúc vào khoảng tháng 10,

nở rộ từ tháng 4 đến tháng 9. Theo Trơng Thị Đẹp 1999 [3], sự në hoa cđa
thanh long theo chu kú sau: tÊt c¶ các hoa trong cùng một cây và tất cả các
cây trong cïng mét dßng tiÕn triĨn cïng mét thêi gian theo ba pha đó là:
Xuất nụ tới nở hoa: 15 - 16 ngµy

13


Nở hoa: 3 - 5 ngày
Nở hoa đến khi quả chÝn: 30 - 35 ngµy
Sù në hoa võa kÕt thóc, ®· xt hiƯn nh÷ng nơ hoa míi cđa chu kú tiếp
theo. Vì vậy, có thể thấy trên một cây ở cùng một thời điểm có cả nụ hoa,
những quả non và những quả gần chín. Do đó, để tăng năng suất, chất lợng
quả thanh long cần chú trọng đến kỹ thuật bón phân cho cây trong thời kỳ cây
cho quả.
Sự nở hoa phụ thuộc vào hiện tợng quang chu kỳ, việc tới nớc cho
cây trong suốt mùa khô không phân hoá mầm hoa, ngoại trừ nếu gần đến thời
kỳ ra hoa chính vụ (Barbeau 1990) [3]. Đợt nụ đầu tiên rụng 30 - 40%, sau đó
tỷ lệ này giảm dần khi gặp điều kiện thuận lợi [3] [11]. Cây thanh long ruột
trắng 3 tuổi có khoảng 94 - 95 hoa/trụ trong năm (Nguyễn Văn Kế 1998)
[11]. Hoa thanh long tự thụ phấn nhờ gió và côn trùng [2] [5] [26] [27] [33].
* Qu¶
Sau khi hoa thơ phÊn, thơ tinh sÏ phát triển thành quả. Trong 10 ngày
đầu, tốc độ quả phát triển tơng đối chậm sau đó tăng rất nhanh về kích thớc
và khối lợng [10] [11] [20]. Vì vậy, có thể phun phân bón lá vào thời điểm
sau 10 ngày đậu quả cho hiệu quả cao. Khi chín, quả rất to có màu đỏ tía.
Quả có thể hình tròn hoặc hình bầu dục. Quả thờng có chiều dài khoảng 12 16cm, đờng kính 8 - 13,5cm. Vỏ quả có mang nhiỊu vÈy (tai) mµu xanh vµ
cã chiỊu dµi 2 - 5cm. Đó là những phiến ngoài cùng của bao hoa. Mỗi trụ
thanh long ruột đỏ trồng tại đảo Hải Nam - Trung Quốc, cho khoảng 30
quả/năm. Số lợng quả trên cây tuỳ thuộc vào vùng sinh thái, kỹ thuật chăm

sóc. Quả thanh long ruột đỏ có khối lợng từ 400 - 800g, tổng hàm lợng chất
rắn hoà tan 18% [2]. Khối lợng quả phụ thuộc phần lớn vào kỹ thuật bón
phân, tới nớc. Khối lợng trung bình là 250 - 350g/quả (Barbeau 1990) [3].
ở giai đoạn đầu vào ngày thứ 26, từ khi hoa nở đến khi quả thành thục,
khối lợng quả tăng chủ yếu là do khối lợng vỏ, tỷ lệ thịt quả tăng rất chậm.

14


Vào ngày thứ 5 sau khi quả đậu, vỏ quả chiếm 92,25% đến khi quả thành thục
tỷ lệ vỏ quả chỉ còn 59,31% ở ngày thứ 26, lúc này vỏ quả thanh long rất dầy,
thịt quả có màu hồng tím nhạt. Khi quả chín hoàn toàn, thịt quả chiếm
khoảng 60% ở ngày thứ 28 - 30 sau khi quả đậu. Nếu tiếp tục để quả trên cây,
tỷ lệ thịt quả vẫn tăng nhng dễ dẫn đến hiện tợng vỏ quả bị nứt và vẩy quả
bị úa vàng rất nhanh (Thái Thị Hoà, 2002) [10]. Quả thanh long ruột đỏ có
khuynh hớng chiều cao quả tăng chậm hơn so với đờng kính quả [10].
Màu sắc của thịt quả rất đa dạng, có thể màu trắng trong, trắng đục
hoặc màu đỏ tuỳ thuộc vào giống. Thịt quả chứa nhiều hạt nhỏ màu đen giống
nh hạt vừng đen. Một quả có khoảng 10.500 - 20.000 hạt [2], hạt nhỏ phân
bố đều, hạt mềm nên khi ăn không ảnh hởng đến chất lợng quả.
Bên ngoài thịt quả giáp với phần vỏ quả là màng trong suốt do vậy rất
dễ bóc vỏ (Trơng Thị Đẹp 1999, Vũ Công Hậu 1996) [3] [5].
2.2.6. Một số nghiên cứu về dinh dỡng cho cây thanh long
Khác với một số cây ăn quả khác, cây thanh long ra quả tập trung và
sau mỗi vụ quả cây bị lấy đi khối lợng sản phẩm lớn. Mặt khác, cây thanh
long không có lá, khí khổng đóng vào ban ngày và mở vào ban đêm nên
cờng độ và sản phẩm quang hợp ở cây rất thấp [3]. Vì thế, việc cung cấp
dinh dỡng cho cây là vô cùng quan trọng. Theo khuyến cáo của một số nông
dân vùng xuất xứ cây thanh long ruột đỏ, bón lót phân hữu cơ 10 - 20 kg/trụ
trong năm. Tỷ lệ phân N - P - K là 3: 4: 5 với lợng bón nh sau [2]:

Bảng 2.3: Lợng phân bón cho một trụ thanh long ruột đỏ trong năm.
Tuổi cây

Đạm urê (g)

Lân supe (g)

Kaliclorua (g)

Năm thứ nhất

180

240

300

Năm thứ hai

420

560

700

Năm thứ hai trở đi

900

1.200


1.500

15


Lợng phân trên dùng trong một năm và đợc chia làm 12 lần, bón vào
tháng 3 là 1/6 lợng phân trên + toàn bộ lợng phân hữu cơ. Từ tháng 4 - 11,
mỗi tháng bón 1/12 lợng phân trên.
Từ tháng 12 sau khi thu hoạch và cắt tỉa, bón 1/6 tổng lợng phân. Vào
mùa đông, cần bón tăng phân kali để tăng cờng sức chống hạn và chống rét
cho cây.
Những cây con mới trồng, khả năng hấp thu dinh dỡng của bộ rễ yếu
hơn, sau khi bón phân phải tới nớc tránh ảnh hởng đến bộ rễ hoặc có thể
hoà phân vào nớc để tới là tốt nhất.
ở khu vực đảo Hoa Nam - Đài Loan, hàng năm nhiệt độ xng 60C
kÌm theo m−a phïn, c¸c bé phËn non cđa cây thanh long ruột đỏ dễ bị ảnh
hởng xấu trớc khi vào mùa đông. Vì vậy, khi bón phân cần chú ý thêm
phân kali để chống rét, chống hạn cho cây.
Có rất nhiều quan điểm về bón phân cho cây thanh long, theo khuyến
cáo của Sở khoa học công nghệ môi trờng tỉnh Bình Thuận [14] [15] nh
sau:
Thời kỳ 1 - 2 năm đầu:
Bón lót 15 - 20kg phân chuồng hoai mơc, 100g supe l©n cho 1 trơ.
Bãn thóc: 100g ure + 100g N - P - K 16 - 16 - 8 vào các giai đoạn 20 30 ngày sau khi trồng, sau đó 3 tháng bón một lần. Khi cây ra hoa, có thể
cung cấp thêm 50g kaliclorua.
Thời kỳ từ năm thứ 3 trở đi: Liều lợng bón 500g N + 500g P2O5 +
500g K2O t−¬ng øng 1.080g ure + 3.200g supe lân + 800g kaliclorua. Cách
bón chia làm 8 lần trong năm. Rải phân đều trên bề mặt đất xung quanh trụ
thanh long, xới nhẹ cho phân lọt xuống đất hoặc phủ lên bằng một lớp đất

mỏng. Sau đó tủ rơm hoặc cỏ khô và tới nớc cho ph©n tan.

16


Lần 1 bón sau khi thu hoạch : 100% lân + toàn bộ lợng phân chuồng
hoai mục + 200g urê.
Lần 2 cuối tháng 12: 200g urê + 150g KCl.
Lần 3 cuối tháng 2: 80g urê + 150g KCl thúc ra hoa.
Lần 4 cuối tháng 4: 200g urê + 100g KCl.
Từ lần thứ 5 đến lần thứ 8 cứ mỗi tháng bón một lần, liều lợng bón là
100g urê + 100g KCl.
Ngoài ra, có thể phun bổ sung thêm các loại phân vi lợng bằng cách
phun thêm phân bón lá vào 10 ngày sau khi đậu quả và lúc quả phát triển
nhanh. Theo tác giả Nguyễn Văn Kế 1998 [11], cha có một thí nghiệm nào
về bón phân cho thanh long trên các loại đất khác nhau. Lợng phân bón thay
đổi tuỳ thuộc vào tính chất đất, theo tuổi cây và theo sản lợng mà cây đà cho
thu hoạch. Qua kết quả điều tra thu thập số liệu ở các vờn có năng suất cao
cho thấy có hai kiểu bón phân điển hình [11]:
Bón theo đợt: 3 lần/năm chiếm 70% số hộ phỏng vấn.
Bón rải ra nhiều lần trong năm chiếm 30% số hộ còn lại.
Riêng phân chuồng chỉ cần bón một lần sau tỉa cành, vào tháng 11.
Đây là loại phân quan trọng nhất đối với các loại đất thiếu chất hữu cơ, đất
giữ ẩm kém. Phân vô cơ đem hoà tan vào nớc để tới, riêng phân đạm urê có
thể tới hoặc phun lên cả thân cành để thúc cành nhanh leo lên đầu trụ. Các
năm sau rải phân quanh gốc rồi tới nhẹ cho phân hoà tan và ngấm xuống đất.
Giai đoạn kiến thiết cơ bản: chỉ kéo dài từ 1 - 2 năm. Tổng lợng phân
bón thúc thờng đợc áp dụng là 300g urê + 200g N - P - K (16 - 16 - 8) cho
1trô bón trong năm và đợc chia đều để bón cho cây làm 3 lần vào giai đoạn
15 20 ngày, 4 - 5 tháng và 7 - 8 tháng sau khi trồng.

Nh vậy, việc chia phân bón làm nhiều lần ®· n©ng cao hiƯu st sư
dơng ph©n bãn cđa c©y và tránh đợc sự ảnh hởng xấu đến bộ rễ u ít cđa

17


cây thanh long. Ngoài ra, bổ sung các phân vi lợng bằng cách phun hoặc
tới các chế phẩm nh HVP 301, Mymix... Nh vậy, cây con sẽ tăng trởng
nhanh ở giai đoạn đầu cây sẽ sớm ra quả.
Giai đoạn kinh doanh: năm thứ 3 trở đi năng suất đà khá ổn định cần
chú trọng bón phân kali. Đó là một loại phân cần thiết để làm tăng chất lợng
quả và chống hạn, chống rét cho cây. Lợng phân trung bình bón cho mỗi trụ
nh sau:
Phân chuồng 15kg, supe lân 500g, urª 500g, N - P - K (16 - 16 - 8)
1.500g, Kaliclorua 500g chia làm 3 lần bón.
Lần 1 sau khi cắt tỉa vào tháng 10 - 11, gồm toàn bộ lợng phân
chuồng và phân lân + 1/3 lợng phân urê để thúc các đợt lộc cành đầu tiên
xuất hiện sớm và nhanh thành thục; làm cơ sở cho việc ra quả vào vụ tới.
Lần 2 cách lần 1 là 40 - 50 ngày, gồm 1/3 lợng phân urê + 1/5 lợng
phân N - P - K + 1/2 lợng phân kaliclorua để thúc đợt cành thứ 2.
Lần 3 bón vào tháng 3, gồm lợng phân urê còn lại + 2/5 lợng phân N
- P - K + lợng phân kaliclorua còn lại nhằm thúc đợt lộc cuối cùng và tạo
điều kiện cho đợt cành thứ nhất phân hoá mầm hoa.
Sau 3 lần bón thúc, bụi cây thanh long có 3 - 4 đợt lộc và sau đó là các
đợt nụ, các đợt quả xen kẽ nhau. Thông thờng, ngời làm vờn quan sát sự
ra hoa và năng suất mà bón bổ sung từng đợt N - P - K cho hết 2/5 lợng phân
còn lại, bằng cách chia nhỏ lợng phân này để bón làm nhiều đợt trong thời
gian cây nuôi quả. Ngoài ra, còn bổ sung thêm phân vi lợng nh Bortrac,
Kích phát tố Thiên nông...
Theo Vũ Công Hậu 1996 [5], phân bón chủ yếu cho thanh long là phân

chuồng với lợng bón là 10 - 20 tấn/ha tức là khoảng 10 - 20kg phân chuồng
và 400 - 500g ph©n N - P - K cho mét trụ khi cây còn nhỏ. Khi cây đà lớn,

18


bãn 1.000 – 2.000g ph©n N - P - K cho một trụ. Trong thời gian cây cho quả
thì yếu tố phân đạm và kali cần thiết nhất sau đó ®Õn ph©n l©n.
Theo Ngun Nh− HiÕn 1998 [7], bãn ph©n ë møc 500g N + 500g P2O5
+ 500g K2O t−¬ng øng 1.080g ure + 3.200g supe l©n + 800g kaliclorua đÃ
làm tăng số lợng, khối lợng quả, tăng năng suất và chất lợng quả thanh
long. Lợng phân bón này đợc chia đều cho hai lần bón, vào tháng 3 và
tháng 10. Bón phân đạm đà nâng cao số lợng quả, khối lợng quả, tăng tỷ lệ
quả trên 400g, tăng năng suất và phẩm chất quả thanh long.
2.2.7. Những nghiên cứu về kỹ thuật trồng thanh long
* Chuẩn bị đất
Nhiều tác giả cho rằng, đối với vùng đất đồi núi, đào hè víi kÝch th−íc
50 x 100 x 50cm, vïng ®ång b»ng kÝch th−íc hè 50 x 50 x 50cm. Ch«n trụ,
lấp đất đến khi hố sâu khoảng 20 - 30cm so với mặt đất, bón lót phân chuồng
rồi phủ lớp đất mặt lên trên. Đối với vùng đất thấp phải đào mơng, độ cao
băng đất trồng phải cao hơn mực nớc cao nhất trong năm từ 20 - 30cm. Sau
đó đào hố trồng và bón lót. Việc chuẩn bị đất trớc khi trồng khoảng 1 tháng
[1] [19] [21].
* Chuẩn bị trụ
Thanh long không thể thiếu cây trụ, nên phải chuẩn bị trụ trớc khi đặt
hom giống. Có nhiều loại trụ có thể dùng trụ gỗ, trụ ximăng...Theo kết luận
của tác giả Trần Ngọc Hùng 1999 [9], thay thế đợc trụ gỗ bằng trụ bêtông
cho việc trồng mới hoặc thay thế những trụ gỗ ở vờn kinh doanh, không làm
ảnh hởng đến năng suất, chất lợng quả trong những năm tới. Trồng trụ
trớc khi đặt hom một tháng, chiều cao trụ 1,5 - 1,7m, phần chôn xuống từ

0,5 - 0,7m đảm bảo trụ phải đứng chắc không bị đổ khi cây từ 3 năm tuổi trở
đi hoặc khi có gió bÃo. Đờng kính trụ 15 - 20cm. Đối với trụ ximăng mỗi
cạnh 12 - 15cm. Trên đầu trụ, đặt thêm giá đỡ hình chữ thập hoặc đóng nẹp

19


hai bên mép trụ giúp cành thanh long có chỗ bám trên đầu trụ, cành dễ rủ
xuống.
* Cách đặt hom
Đặt hom giống sâu khoảng 3 - 5cm lấp đất nhẹ không cần ấn chặt. Mỗi
trụ đặt 3 - 4 hom, đặt áp phần phẳng của hom vào trụ. Buộc dây nhẹ nhàng để
cố định vào trụ tránh gió lay đổ cây, khi rễ cha xuống sâu dới đất và cha
bám trụ.
* Mật độ trồng
Mật độ trồng khoảng 700 - 1.000 trụ/ha khoảng cách 3m x 3m hoặc 3m
x 3,5m. Có thể bố trí trồng xen các loại cây ngắn ngày, nhng phải đảm bảo
cho thanh long nhận đủ ánh sáng.
* Thời vụ trồng
Thông thờng, thời vụ trồng thanh long vào tháng 10 - 11. Thời gian
này, nguồn hom giống dồi dào do trùng với thời gian tỉa cành, lợi dụng ẩm độ
cuối mùa ma, tránh đợc ngập úng. Tuy nhiên, đến mùa khô cây cha đủ sức
chống chịu với nắng hạn, cần phải tới và giữ ẩm cho cây.
* Tỉa cành và tạo tán
Mục đích tỉa cành là tạo bộ khung tán đẹp cho trụ thanh long, mặt khác
làm hạn chế sâu bệnh và sự cạnh tranh dinh dỡng. Sau khi trồng 7 - 10 ngày,
cây đà ổn định và bắt đầu đâm chồi, chọn một chồi khoẻ nhất, bám chặt vào
trụ để lại. Số chồi còn lại cần tỉa bỏ. Khi cành từ đỉnh trụ trở lên cao 30 40cm, tiến hành uốn cành nằm xuống đỉnh trụ. Nên uốn vào lúc tra nắng, lúc
này cành mềm dễ uốn. Uốn cành hàng ngày đến khi cành nằm ngang trên
đỉnh trụ dùng dây buộc cố định. Biện pháp này giúp cành mau ra chồi mới.

Khi cành đâm chồi, chỉ chọn 1- 2 chồi khỏe để lại, các chồi khác tỉa bỏ. Trụ
có dạng hình tròn đều sẽ cho năng suất cao và ổn định.

20



×