Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Dân tộc Choang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.52 KB, 2 trang )

Dân tộc Choang
Choang (cịn có hơn 20 tên gọi khác nhau như Bố Choang, Bố Nùng, Bố Liêu, Bố Thổ, Bố Việt, Bố
Mạn, Bố Tày...) là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, có lịch sử phát triển lâu đời, và có nguồn gốc
từ cộng đồng dân cư Bách Việt thời cổ đại. Choang là dân tộc có số dân đông nhất trong các dân tộc
thiểu số ở Trung Quốc, phân bố chủ yếu ở khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây; châu tự trị dân tộc
Choang, Miêu Văn Sơn, Vân Nam, huyện tự trị dân tộc Choang, Dao Liên Sơn, Quảng Đông và rải rác
ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Tứ Xuyên. Năm 2001, dân tộc Choang trên tồn Trung Quốc có
khoảng 15,5 triệu người, riêng người Choang ở Quảng Tây đã chiếm hơn 91,3% với số dân 14,15 triệu.
Theo phát hiện của các nhà khảo cổ học, cách đây mấy chục vạn năm đến hơn một vạn năm, trên khắp
vùng Quảng tây đã có những hoạt động của người cổ đại. Lưu vực thung lũng sông Hữu nơi dân tộc
Choang sinh sống đã phát hiện nhiều di chỉ thời đại đồ đá cũ cách đây 6, 7 vạn năm của người cổ đại,
trong đó có khơng ít di vật văn hóa. Đặc trưng thể chất của người cổ đại là đầu to, lưỡng quyền nhô
cao, xương mũi thấp, sống mũi hơi lõm, hàm răng trên hình lưỡi cày... Những đặc trưng này thuộc về
chủng người Mongoloit, giống với đặc trưng thể chất người Choang hiện nay.
Tổ tiên của người Choang đã sống ở Quảng Tây trải qua các triều đại Thương, Chu, thời kỳ Xuân Thu,
Chiến Quốc, các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, với nhiều tên gọi khác nhau như Tây Âu, Lạc Việt,
Ô Hử, Lý, Liêu, Lương, Thổ... Thời kỳ này, ảnh hưởng của người Hán còn rất hạn chế. Thời Nam
Tống (1127 – 1279), mới bắt đầu có tên gọi Choang. Về sau, Choang dần trở thành danh xưng dân tộc
thống nhất, cùng với những cư dân người Hán từ Trung nguyên đến sinh sống ở Quảng Tây ngày một
nhiều.
Từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập và đặc biệt từ khi Trung Quốc thực hiện
công cuộc cải cách mở cửa, dân tộc Choang ln có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trình độ sản xuất, mọi lĩnh vực sinh hoạt trong đời sống xã hội đều được nâng cao rõ rệt, căn bản gần
với người Hán cùng địa phương.
Một số nét về văn hóa xã hội của dân tộc Choang
Ngôn ngữ dân tộc Choang thuộc ngữ hệ Hán Tạng, nhóm ngơn ngữ Choang Động, chi tiếng Choang
Thái, rất giống với tiếng dân tộc Tày, Nùng ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, tiếng Thái Lan, tiếng Lào
và tiếng Shan ở Myanmar. Dân tộc Choang có chữ viết riêng của mình. Từ thời Nam Tống đã xuất hiện
một loại chữ được cấu thành trên cơ sở chữ Hán, gọi là “Thổ tục”, nhưng được sử dụng phố biến. Năm
1955, dân tộc Choang tạo ra chữ viết phiên âm dùng chữ cái La tinh là cơ sở, đến tháng 11 năm 1957
được Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn và lưu hành rộng rãi cho đến ngày nay.


Người Choang chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp trồng lúa nước. Nền nơng nghiệp của họ đã có từ
lâu đời và ngày càng phát triển. Thủ công nghiệp của họ cũng rất phát triển, thông qua các nghề dệt,
nhuộm vải; làm đồ gốm sứ, đúc trống đồng. Kỹ thuật đóng thuyền của họ cũng được đánh giá cao.
Chợ (tiếng Choang gọi là “khư”) là hình thức giao thương buôn bán phổ biến nhất của người Choang.
Người Choang trao đổi, mua bán vật dụng, hàng hóa ở chợ và thậm chí chợ cịn biến thành nơi giao
lưu văn hóa nghệ thuật thơng qua các hình thức sinh hoạt ca hát.
Người Choang có một nền văn hóa nghệ thuật phong phú, nhiều màu sắc. Văn học dân gian, hội họa,
âm nhạc... đều có những thành tựu to lớn. Người Choang nổi tiếng thích ca hát nhảy múa, dùng lời ca
tiếng hát miêu tả cuộc sống và biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình.
Mỹ thuật của người Choang có những biểu hiện đa dạng. Tranh vẽ trên vách ở Hoa Sơn, lưu vực sơng
Tả là di sản văn hóa q báu do tổ tiên người Choang sáng tạo ra cách đây hơn 2.000 năm. Phạm vi
tranh vẽ cao 40 mét, dài hơn 220 mét, có 1.800 hình vẽ khác nhau.
Trống đồng là vật phẩm nghệ thuật quý báu của dân tộc Choang, vừa là nhạc cụ, vừa là vật tượng trưng
cho quyền lực và sự giàu có. Những hoa văn đúc trên mặt trống đồng thể hiện trình độ nghệ thuật cao
của người Choang từ mấy ngàn năm trước. Ở Bảo tàng Dân tộc Quảng Tây hiện đang bảo quản hơn
500 trống đồng.
Văn học dân gian của dân tộc Choang rất phong phú, đa dạng, đặc biệt là có những truyện kể dân gian
được lưu truyền sâu rộng như câu chuyện thần thoại “Muliujia”, “Buluotuo” kể về các vị thần sáng thế


tạo ra trời đất, vạn vật, sắp đặt lại trận tự của giới tự nhiên...; truyện anh hùng “Mạc Nhất đại vương”...
Người Choang có hình thức sinh hoạt chợ phiên. Năm 1983, khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây
định hội hát chợ phiên vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, từ đó cịn gọi là “Tết 3 tháng 3”. Trong
chợ phiên, thường có ca hát đối đáp và các cuộc vui dân gian như ném tú cầu, bắn pháo bông, múa lân,
thi kéo co, bắn nỏ... Đặc biệt, dân ca của dân tộc Choang có nội dung phong phú, được đánh giá là viên
ngọc quý trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Choang.
Hình thức nghệ thuật sân khấu dân tộc của người Choang là kịch Choang, bắt nguồn từ hình thức ca
múa dân gian, ngày nay phát triển rất mạnh mẽ với nhiều đoàn kịch chuyên nghiệp.
Vải gấm Choang là sản phẩm thủ công mỹ nghệ nổi tiếng của người Choang, chất liệu bền chắc, hoa
văn tinh xảo, sinh động, nhiều màu sắc, được người Choang tự hào và khách du lịch ưa chuộng.

Người Choang là dân tộc có phong vị ẩm thực phong phú. Những món ăn nổi tiếng là cơm nếp năm
màu, cơm nếp bí đỏ, cơm nếp khoai lang, bánh tét, bánh dày, đậu hũ viên nhồi thịt, thịt lợn quay...
Hình thức nhà ở của người Choang có 3 loại: nhà sàn, nhà trệt và nửa nhà sàn, nửa nhà trệt.
Trang phục truyền thống của người Choang cách đây 100 năm về trước: nam giới mặc áo ngắn không
cổ, cài khuy giữa, quần ống rộng, đầu quấn khăn; nữ giới mặc váy gấp nếp, áo ngắn khơng cổ có viền
hoa, đầu quấn khăn hoa. Ngày nay họ mặc áo dài hoặc ngắn có cổ, may bằng vải tự dệt màu xanh
dương đậm, đen hoặc đỏ, hay mặc trang phục hiện đại. Người Choang thực hiện chế độ hôn nhân một
vợ một chồng, lưu truyền tập tục phụ nữ không về nhà chồng, vẫn ở nhà cha mẹ đẻ, chỉ những ngày lễ
tết hay ngày mùa mới về nhà chồng ở một thời gian. Ngày xưa chồng phải theo họ vợ, ngày này có thể
khơng cần đổi nữa nhưng vẫn phải theo tập tục ở rể. Đây được xem là tàn tích của chế độ mẫu hệ trong
lịch sử dân tộc.
Những lễ hội quan trọng nhất của người Choang là “Tết 3 tháng 3”, ‘Trung ngun”, “Hồn trâu bị”.
Người Choang theo tín ngưỡng đa thần, họ thờ quỷ thần và tổ tiên. Hình thức an táng của người
Choang là chôn, thiêu hay để quan tài ngồi trời.
Người Choang có quan niệm đạo đức thuần hậu. Hiếu kính cha mẹ, kính già yêu trẻ là quan niệm đạo
đức cơ bản của người Choang. Họ trọng danh dự, đề cao tình đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nhiệt tình
hiếu khách. Họ cũng rất xem trọng tinh thần lao động cần cù, chăm chỉ. Đối với họ, trộm cắp là đáng
căm giận, lười biếng là đáng sỉ nhục.
Nhìn chung, từ sau khi Trung Quốc cải cách mở cửa, đời sống vật chất của người Choang được cải
thiện rõ rệt, mặt khác, những giá trị văn hóa truyền thống của họ cũng được lưu tâm bảo tồn và phát
huy.
(Nguồn: Phịng Chính trị Kinh tế Đối ngoại, Sở Ngoại vụ TPHCM ngày 16-4-2006)



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×