Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ấn chương Việt Nam - Giới thiệu một số ấn dấu của tướng lĩnh quân đội Nguyễn trên văn bản Hán Nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.3 KB, 11 trang )

Ấn chương Việt Nam - Giới thiệu một số ấn dấu của tướng lĩnh quân đội Nguyễn
trên văn bản Hán Nơm
Những dấu tích về ấn triện qn đội thời Nguyễn chủ yếu nằm ở kho Châu bản triều
Nguyễn. Trong các tập đời Minh Mệnh, Thiệu Trị, chúng tôi đã in sao được một số hình
dấu của các tướng tá ở nhiều đơn vị, binh chủng và khu vực khác nhau.
Dấu Trấn tây tướng quân chi ấn[213] 鎭西將軍之印 (ấn của Trấn tây tướng qn) có
kích thước 9x9cm, sáu chữ Triện chia làm ba hàng. Dấu đóng đè lên chữ “nguyệt” dịng
ghi niên hiệu Minh Mệnh thập cửu niên cửu nguyệt thất nhật. Trang trước ghi tên họ các
quan tướng ở Trấn tây: Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn Trọng, Dương Văn Phong.
Đây là bản tấu trình gửi về kinh của các quan tướng ở thành Trấn tây có đóng ấn của
Trấn tây tướng quân vào ngày mồng 7 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838). (H. 150)

Hai dấu Thảo nghịch tả tướng quân chi ấn 討逆左將軍之印 (ấn của Thảo nghịch Tả
tướng quân) và Thảo nghịch hữu tướng quân chi ấn 討逆右將軍之印 (ấn của Thảo
nghịch Hữu tướng qn)[214], đều hình vng có cỡ 8,3x8,3cm. Trên văn bản hai dấu
đóng dính liền nhau đoạn ngày tháng của dòng niên đại nằm giữa hai dấu (niên đại ghi
năm Minh Mệnh thứ 16 [1835]), đây là dấu của hai tướng ở quân thứ Gia Định đóng trên
một bản Tấu. Xin minh họa một hình dấu Thảo nghịch hữu tướng quân chi ấn. (H. 151)


Trong Châu bản triều Nguyễn số lượng dấu Quan phòng chức vụ nhiều hơn hẳn dấu ấn
quan, riêng hai trang ở quyển 18 chúng tôi đã in sao được 5 dấu Quan phòng khác
nhau[215].
Dấu Chưởng trung quân quan phòng 掌中軍關防 (Quan phịng của chưởng Trung qn)
có cỡ 3,0x4,2cm, năm chữ Triện chia ba hàng. Dấu đóng ở dưới dịng chữ Hán Chưởng
doanh thự trung quân ấn vụ kiêm quản thương thuyền thần Tống Phúc Lương (Bề tôi
Tống Phúc Lương chức chưởng Doanh quyền Trung quân ấn vụ kiêm quản thương
thuyền). (H. 152)

Dấu Thần sách hữu doanh quan phòng 神策右營關防 (Quan phịng của Hữu doanh Thần
sách) có cỡ 2,5x3,8cm, sáu chữ Triện chia ba hàng. Dấu đóng dưới dịng chữ Thần sách


quân hữu doanh đô thống chế thần Tôn Thất Trạch (Bề tôi Tôn Thất Trạch chức Đô


Thống chế Hữu doanh quân Thần sách). (H. 153)

Dấu Hữu thống chế quan phòng 右統制關防 (Quan phòng của Hữu thống chế) cỡ
2,5x3,8cm, năm chữ Triện chia ba hàng. Dấu đóng dưới dòng chữ Thị trung hữu thống
chế thần Trần Văn Cường (Bề tôi Trần Văn Cường chức Hữu Thống chế quân Thị trung)
(H. 154)

Dấu Long vũ đô thống chế quan phịng 龍武都統制關防 (Quan phịng của Đơ thống chế
doanh Long Vũ) cỡ 2,5x3,8cm, bảy chữ Triện chia ba hàng. Dấu đóng dưới dịng chữ Thị
nội long vũ đơ thống chế thần Phan Văn Thúy (Bề tôi Phan Văn Thúy chức Đô Thống
chế doanh Long Vũ quân Thị nội). (H. 155)


Dấu Thị tượng thự thống chế quan phòng 侍象署統制關防 (Quan phòng của quyền
Thống chế vệ Thị tượng) cỡ 2,2x3,4cm, bẩy chữ Triện chia làm ba hàng. Dấu đóng dưới
dịng chữ Thự tượng quân thống chế chuyên quản thị tượng cai tham vệ thần Phạm Văn
Điển (Bề tôi Phạm Văn Điển quyền Thống chế quân Tượng chuyên quản Cai tham vệ Thị
tượng). (H. 156)
Những hình dấu trên đóng trong một văn bản chữ Hán ghi về cuộc họp Công đồng
thường kỳ mà chúng tôi đã mô tả ở phần “lục Bộ”. Dòng ghi niên đại năm Minh Mệnh
thứ 7 (1826) được đóng ấn lớn Cơng đồng chi ấn. Phía dưới và sang cả trang sau là các
dòng chức vụ tên họ của những người dự hội nghị, dưới mỗi dòng đều có hình dấu Quan
phịng, các dấu trên là đại diện cho hàng võ quan tham dự họp.

Trong quyển 5 đời Thiệu Trị nguyên niên xuất hiện nhiều Quan phòng của chức Đô
thống phủ ở Ngũ quân.
Dấu Tiền quân đô thống phủ quan phịng (Quan phịng của Đơ thống phủ Tiền quân), dấu



Trung qn đơ thống phủ quan phịng (Quan phịng của Đô thống phủ Trung quân), dấu
Hữu quân đô thống phủ quan phịng (Quan phịng của Đơ thống phủ Hữu qn), và Hậu
qn đơ thống phủ quan phịng (Quan phịng của Đơ thống phủ Hậu qn). Các dấu đều
có kích thước 3,0x4,2cm, bảy chữ Triện chia ba hàng[216].
Mỗi dấu Tiền quân, Trung quân, Hữu quân và Hậu quân đều đóng ở dưới mỗi dòng chữ
ghi tên họ chức tước khác nhau. Ví dụ dấu Tiền qn đơ thống phủ quan phịng
前軍都統府關防 đóng dưới dịng chữ Tiền qn đơ thống phủ đơ thống chưởng phủ sự
tân phúc hầu thần Phạn Hữu Tâm (Bề tôi Phạm Hữu Tâm, tước Tân phúc hầu, chức Đô
thống phủ Đô thống chưởng phủ sự Tiền quân). (H. 157)

Vũ Văn Giải, một trong bốn đại thần quan trọng đời Thiệu Trị và Tự Đức, ông kiêm quản
nhiều chức vụ, trong đó có chức quyền thự Thống chế doanh Hổ oai (đời Thiệu Trị) mà
hình dấu sau này là minh chứng.
Dấu Hổ oai thống chế quan phòng[217] 虎威統制關防 (Quan phịng của Thống chế
doanh Hổ oai) có cỡ 2,5x3,8cm, sáu chữ Triện chia ba hàng. Dấu được đóng ở dịng chữ
Thự hổ oai doanh thống chế kiêm quản thị vệ tổng quản thái giám thần Vũ Văn Giải (Bề
tôi Vũ Văn Giải quyền Thống chế doanh Hổ oai kiêm quản Thị vệ Tổng quản Thái giám).
(H. 158)


Văn bản lưu giữ ghi về cuộc kháng chiến chống Pháp của triều đình Huế và nhân dân
Nam Bộ đời Tự Đức là những tập tấu có đóng dấu son. Ở quyển 119 - Tự Đức chúng tơi
gặp hai hình dấu đóng liền nhau ở đoạn chữ “nguyệt” của dịng ghi niên đại Tự Đức thập
tam niên sơ nguyệt nhị thập bát nhật nằm ở giữa hai dấu.
Dấu Thống đốc tiễu bổ quân vụ quan phòng[218] 統督勦捕軍務關防 (Quan phòng của
Thống đốc Tiễu bổ quân vụ), có cỡ 5,5x7,7cm, 8 chữ Triện đều nhau chia hai hàng. Dấu
đóng phía trái dịng ghi niên đại, phía dưới là dịng chữ Hán Quảng Nam quân thứ thống
đốc cách lưu thần Nguyễn Tri Phương (Bề tôi Nguyễn Tri Phương chức Thống đốc (thời

hạn) cách lưu ở quân thứ Quảng Nam). (H. 159)

Dấu Tham tán quân vụ quan phòng[219] 參贊軍務關防 (Quan phòng của chức Tham tán
quân vụ) có cỡ 5x7,3cm, sáu chữ Triện chia làm hai hàng. Dấu đóng phía phải dịng ghi
niên đại, bên dưới là dòng chữ Hán Tham tán quân vụ thần Phạm Thế Hiển (Bề tôi là
Phạm Thế Hiển chức Tham tán quân vụ). (H. 160)


Đây là bản Tấu của hai viên tướng gửi về Kinh báo cáo tình hình phịng thủ, chiến sự ở
Quảng Nam - Đà Nẵng. Hai con dấu đóng liền nhau có cùng thời gian: ngày 28 tháng
giêng năm Tự Đức thứ 13 (1860) trên cùng một văn bản, thể hiện sự quan trọng và thống
nhất của công việc. Trường hợp chỉ có một dấu đóng thì ý nghĩa của văn bản sẽ khác đi.
Chỉ huy quân đội ở các tỉnh là chức Đề đốc hoặc Lãnh binh, ấn dấu thường khắc 6 chữ
Triện, ví dụ dấu Gia Định đề đốc quan phòng[220] 嘉定提督關防 (Quan phòng của Đề
đốc tỉnh Gia Định) có cỡ 4,6x6,2cm. Đây là quy định chung về ấn Quan phòng của Đề
đốc các tỉnh. (H. 161)

Trong quyển 119 đời Tự Đức chúng tơi thấy xuất hiện hình dấu Đề đốc tiễu bổ quân vụ


quan phòng[221] 提督勦捕軍務關防 (Quan phòng của Đề đốc Tiễu bổ qn vụ) có kích
thước lớn cỡ 5,5x7,7cm. Dấu đóng ở đoạn chữ “nguyệt” dòng niên hiệu Tự Đức thứ 13
(1855), trang trước có dịng chữ Hán Đề đốc tiễu bổ quân vụ thần Tôn Thất Hàn (Bề tôi
là Tôn Thất Hàn chức Đề đốc Tiễu bổ quân vụ) cũng trong tập tấu gửi về Kinh của Tôn
Thất Hàn trong việc quân. Cùng với hình dấu của Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển
trên, hình dấu này đã chứng tỏ trong chiến tranh (thời Tự Đức) có những chức vụ, cấp
bậc về việc binh được đặt ra thêm, hoặc gắn thêm chức cho một chức đã có sẵn (ví dụ
trên) mà trong quy chế chức vụ cấp bậc của bộ Binh thời Nguyễn không thấy ghi. (H.
162)


Không chỉ tướng lĩnh cấp cao, mà hàng ngũ sĩ quan cấp Vệ, Cơ nhỏ cấp Đội, Thuyền và
những đơn vị ở kinh cũng dùng loại ấn dấu Đồ ký. Đồ ký chỉ dùng cho các đơn vị quân
đội và các cơ quan dân sự cấp thấp, trong quyển 53 - đời Minh Mệnh thứ 19 có một số
hình dấu Đồ ký.
Dấu Loan giá vệ đồ ký[222] 鑾駕衛圖記 (Đồ ký của Vệ Loan giá) có cỡ 4,4x5,8cm, năm
chữ Triện chia ba hàng, dấu đóng ở đoạn ngày tháng của dòng ghi niên hiệu Minh Mệnh
thứ 19 (1838). Đây là bản trình tấu của chức Loan giá khanh coi Vệ Loan giá do Tôn
Thất Tường chỉ huy. (H. 163)


Các đơn vị Vệ Cẩm y, Vệ Kim ngô đều sử dụng Đồ ký có hình thức và tính chất như Vệ
Loan giá, chỉ khác về tên chữ trong dấu.
Quy định về vị trí đóng dấu Đồ ký được ghi trong chính sử: “Từ nay về sau Đồ ký của
Thị trung, Thị nội và Dinh vệ các quân do quan cấp cho, phàm gặp những công việc như
tấu, sớ, tờ tư sổ sách, tiền lương và trình báo đều chuẩn cho đóng lên chữ “Tháng mỗ”
cịn tất cả các việc riêng đều không được dùng”[223].
Các đơn vị hải thuyền được gọi là Thuyền 船 biên chế theo từng chiến thuyền và dùng
Đồ ký có kích thước nhỏ hơn các đơn vị Cơ, Vệ. Xin ví dụ một dấu Đồ ký của đơn vị
Thuyền.
Dấu Nam hưng đồ ký[224] 南興圖記 (Đồ ký thuyền Nam Hưng) có cỡ 4x5,3cm, bốn
chữ Triện chia hai hàng. Dấu đóng trên chữ “nguyệt” dịng ghi niên đại Minh Mệnh thứ
19 (1838), phía dưới có dịng chữ Hán với nội dung là bản trình báo của các sĩ quan
thuyền Nam Hưng khi đi công cán trở về. (H. 164)

Hiện tượng có hai kiểu chữ (Triện thư và Chân thư) trong cùng một con dấu cũng trong
loại hình Đồ ký. Hai hình dấu của ví dụ dưới đây sẽ kết thúc dẫn chứng của mục: “Ấn


chương trong binh chế quân đội thời Nguyễn”.
Dấu Kinh tượng nhất vệ đồ ký[225] 京象壹衛圖記 (Đồ ký của Vệ thứ nhất Kinh tượng),

có cỡ 4,0x5,4cm. Chiều dài dấu 5,4cm được chia làm hai phần bằng một đường kẻ ngang,
phần trên nhỏ cỡ 1,2x4,0cm trong là hai chữ “Kinh tượng” 京象, kiểu chữ Chân xếp theo
hàng ngang, phần dưới cỡ chữ 4,0x4,2cm là bốn chữ Triện “Nhất vệ đồ ký” 壹衛圖記
xếp theo hai hàng dọc. Dấu đóng ở đoạn chữ “nguyệt” dòng niên hiệu ghi năm Minh
Mệnh thứ 16 (1835). Trang trước có dịng chữ Hán ghi rõ chức tước của viên chỉ huy là
Lê Văn Thụy tước Thông cương nam ở Vệ thứ nhất Kinh tượng thuộc Tượng binh. (H.
165)

Dấu Cẩm y túc trực đồ ký 錦衣肅直圖記 (Đồ ký của ban Túc trực Vệ cẩm y) có cỡ
4,0x5,4cm, cũng được chia làm hai phần giống như dấu trên. Phần trên là hai chữ Chân
“Cẩm y” 錦衣 phần dưới là bốn chữ Triện “Túc trực đồ ký” 肅直圖記, dấu cũng đóng ở
dòng niên hiệu ghi năm Minh Mệnh thứ 16 (1835). Đây là dấu của viên sĩ quan chỉ huy
ban Túc trực vệ Cẩm y thuộc Thân binh bảo vệ Hoàng thành. (H. 166)


Đời Đồng Khánh binh chế quân đội vẫn giữ nguyên như cũ, có điều chỉnh lại đơi chút,
giảm biên chế, dồn hai Dực tả, hữu Doanh Vũ lâm quân Cấm binh làm 4 Vệ, dồn 2
Doanh tả, hữu Thủy sư làm hai Vệ, số quân linh tinh ở các Doanh, Vệ: Tiền phong, Long
vũ, Hổ oai v.v… dồn thành một Vệ.
Về ấn, Kiềm Quan phòng, Đồ ký đời Đồng Khánh khơng thay đổi lớn, chủ yếu vẫn duy
trì các loại hình ấn triện cũ, bỏ một số Quan phịng, Đồ ký những đơn vị giảm biên chế,
đồng thời đúc lại những ấn triện bị mất. Trên thực tế ở các sách chữ Hán đời Đồng Khánh
chúng tôi thấy xuất hiện rất ít ấn dấu qn đội, chỉ có thưa thớt hình dấu kiềm Thống
sối, Loan giá với nét chữ Triện xấu và đơn giản hơn do chất liệu xấu và kỹ thuật làm ấn
triện kém hơn trước.
Ấn triện trong quân đội nhiều khi được hưởng chế độ ưu tiên riêng ngồi quy định chung.
Như lệ phong, khai ấn thì đều dùng cho tất cả các loại hình ấn triện ở mọi ngành, riêng ấn
triện trong quân đội ở thời kỳ và những khu vực có chiến tranh giặc giã, quân binh xuất
chinh, nếu quân vụ chưa xong thì các quan tướng ở nơi đó vẫn giữ ngun ấn triện, Quan
phịng, Đồ ký và miễn lệ phong ấn, khai ấn.




×