Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quan hệ đối ngoại của Xiêm với các nước phương Tây dưới thời Rama III (1824 - 1851)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.09 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005

QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA XIÊM VỚI CÁC NƯỚC
PHƯƠNG TÂY DƯỚI THỜI RAMA III (1824 - 1851)
Đặng Văn Chương
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

Khi nghiên cứu về quan hệ đối ngoại của Xiêm với các nước phương Tây thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX, người ta thường chú ý đến những thành cơng nỗi bật trong chính
sách đối ngoại khôn khéo của Xiêm dưới thời vua Mongkut (Rama IV) và vua
Chulalongkon (Rama V) mà hầu như không đề cập đến thời Rama III trước đó, vì một
số nhà sử học phương Tây cho rằng Rama III là một con người cứng nhắc và thiếu cởi
mở. Vương quốc Xiêm dưới thời Mongkut (1851-1868) và Chulalongkon (1868-1910)
đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác với
các nước phương Tây, dần dần đi theo quỹ đạo của các nước phương Tây và từng bước
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, khi nhìn lại mối quan hệ của vương quốc Xiêm với các
nước phương Tây dưới thời Rama III (1824 – 1851), Xiêm cũng đã đạt được những kết
quả rất quan trọng trong việc giữ gìn nền hịa bình và đã kiên quyết bảo vệ quyền lợi
chính đáng của họ trước những địi hỏi ngang ngược của các nước đế quốc, thực dân
phương Tây mà nhiều nước chung quanh ở khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ đã không
thể thực hiện được. Chính thành cơng đó mở đường cho thắng lợi ngoại giao của Xiêm
trong các giai đoạn tiếp theo.
I. Nền tảng chính trỊ, kinh tế - quân sự của đường lối đối ngoại của Xiêm
dưới thời Rama III (1824 - 1851)
Trước những áp lực và thách thức ngày càng gia tăng đối với Xiêm từ các thế lực
thực dân và tư bản phương Tây thì Rama II qua đời (7-1824) khơng để lại di chúc về
người kế vị. Trước tình hình đó, buộc triều đình Xiêm (sau mấy lần thảo luận) phải chọn
hồng tử Chet-xa-bơ-đin, là con trai trưởng của Rama II nhưng khơng phải là con của
Chính cung hồng hậu lên ngôi vua lúc 37 tuổi - tức là Rama III (1824-1851), thay vì
theo luật là phải chọn hồng tử Mongkút là con của Chính cung hồng hậu. Điều đó
được giải thích là, lúc bấy giờ, nước Xiêm cần có một ơng vua cứng rắn, quyết đốn,


kiên quyết nhưng linh hoạt trong ứng xử với các thế lực phương Tây đầy tham vọng
đang toan tính can thiệp, xâm lược nước Xiêm. Hồng tử Chet-xa-bơ-đin được triều đình
lựa chọn vì ơng ta lớn hơn hồng tử Mơngkút 17 tuổi, "lại rất giỏi việc nước, đã từng giữ
nhiều chức vụ quan trọng, đã từng thay vua cha điều hành đất nước" [8, tr.127], cịn
hồng tử Mơngkút vẫn tiếp tục tu hành ở trong chùa.
89


Chính sách đối ngoại có mối quan hệ mật thiết với đường lối đối nội và nó cũng
phản ánh sức mạnh, vị thế và khuynh hướng của quốc gia trong mối quan hệ với các
nước khác. Do vậy, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi cũng đề cập đến những nét khái
quát về chính trị - tổ chức nhà nước, kinh tế, quân sự và vị thế của Xiêm dưới thời Rama
III. Đó chính là cơ sở, là tiền đề cần thiết để Xiêm thực hiện đường lối đối ngoại ''mềm
dẻo'' nhưng cũng rất ''kiên quyết'' trong việc bảo vệ nền hịa bình, độc lập và quyền lợi
của vương quốc Xiêm đối với các nước lớn phương Tây mà trực tiếp là Anh và Mỹ.
1. Về chính trị - tổ chức bộ máy Nhà nước:
Ngay từ khi vương triều Chakri thành lập, quá trình xác lập và tập trung hóa cao
độ nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã được các vua đầu triều đặc biệt chú ý.
Dưới thời Rama I (1782-1809) và Rama II (1809-1824), việc xây dựng, củng cố tổ chức
hành chính, tăng cường sức mạnh quyền lực của nhà vua đã được đẩy mạnh. Hệ thống
các quan hệ họ hàng huyết thống được củng cố, hình thành nên một nhóm các gia đình
hồng tộc và quý tộc hùng mạnh, nắm trong tay các quyền lực chủ yếu của nhà nước
phong kiến. Đó là hệ thống các Bộ do các hoàng tử, hoàng thân cầm đầu. Rama I đã đưa
11 hồng thân và cơng chúa đứng đầu các bộ ngành trong bộ máy nhà nước Xiêm [1,
tr.55].
Dưới thời Rama III, q trình tập trung hóa cao độ nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền càng được đẩy mạnh hơn. Sau khi đăng quang (1-8-1824), vua Rama III
đã cho tổ chức lễ tuyên thệ “thề trung thành với nhà vua” cho các hoàng tử và quan chức
cao cấp. "Một vị quan chức cao cấp nhất của triều đình (Brahman) đọc lời tuyên thệ thề
trung thành với nhà vua và lời nguyền rủa những ai không trung thành với nhà vua" [9,

tr.5]. Sau khi đọc lời tuyên thệ, các hoàng tử và quý tộc uống "nước trung thành" (the
water of allegiance).
Việc làm đầu tiên sau khi đăng quang, Rama III bổ nhiệm các quan chức vào bộ
máy Nhà nước trung ương. Ở Xiêm, có hai tầng lớp quan chức chính: quan chức hồng
gia (gồm các hồng tử) và quan chức q tộc. Chỉ có các hồng tử mới được bổ nhiệm
đứng đầu các bộ. Quan chức quý tộc cũng được phong chức tước. Số quan chức quý tộc
chiếm một phần lớn trong cơng việc hành chính của chính phủ. Họ đã thực sự người
thực thi các chính sách, chủ trương của Nhà nước.
Hoàng tử Krom Mun Sakdiphonlasep (chú và cũng là người bạn thân của Rama
III) được chọn giữ chức vụ Upparat (phó vương), quyền lực chỉ sau nhà vua. Nhà vua
phong chức Hoàng thái hậu cho mẹ của mình và bổ nhiệm 8 hồng tử (trong đó 2 người
chú, 3 em trai) vào các chức quan cao trong triều đình.
Đến năm 1830, để hồn thiện các bộ, ngành, Rama III đặc biệt quan tâm đến ba bộ
quan trọng nhất: Bộ Nội vụ (Mahatthai), Bộ Chiến tranh (Kralahom) và Bộ Tài chính
(Phraklang) phụ trách cả ngoại thương. Ơng cử Chao Phraya Bodinthondecha (thường
gọi tắt là Phìa Bođin), một viên tướng có tài và là người chỉ huy quân sự nổi tiếng vào
90


chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. (Bođin giữ chức vụ này cho đến lúc chết, 1849). Rama III cử
Chao Phraya PhraKhlang (thường gọi tắt là PhraKhlang), người đã có cơng lao vận động
các phe phái dưới thời Rama II để ủng hộ ông lên ngôi vua, nắm giữ chức Bộ trưởng Bộ
Tài chính và ơng cịn giao cho PhraKhlang kiêm luôn chức Bộ trưởng Bộ Chiến tranh.
PhraKhlang giữ hai chức vụ này cho đến hết thời Rama III [3, tr.70-71].
Càng về sau, ơng càng có khuynh hướng tập trung quyền lực vào tay mình và
hồng gia. Vào năm 1832, phó vương mất, triều đình Xiêm xơn xao chưa biết ai sẽ được
chọn là người kế vị. Song Rama III không chọn ai cả với lý do không một người nào có
đủ khả năng [2, tr.134]. Thế là mọi quyền hành càng tập trung vào tay nhà vua. Cùng
năm đó, ơng đã thăng chức cho 7 hoàng tử: 3 người chú, 3 anh trai và 1 người anh họ.
Như vậy dưới thời Rama III nền quân chủ chuyên chế Xiêm đạt đến đỉnh cao và

Xiêm thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực Đông Nam Á lục địa lúc
bấy giờ. Đây là cơ sở cho chính sách đối ngoại “mềm dẻo” nhưng rất “cứng rắn” của
Xiêm trước áp lực của các nước phương Tây đầy tham vọng, đang lăm le xâm chiếm các
nước Đông Nam Á trong đó có Xiêm.
2. Về kinh tế và quân sự:
Dưới hai triều vua đầu tiên (Rama I, Rama II) của vương triều Chakri, Xiêm đã
khắc phục hậu quả chiến tranh xâm lược của Miến Điện (Mianma), từng bước phát triển
kinh tế, tăng cường sức mạnh quân sự, củng cố và nâng cao vị thế của họ đối với các
nước chung quanh mà trước hết là đối với Miến Điện, các tiểu quốc Lào, Campuchia và
các tiểu quốc Hồi giáo ở bán đảo Malaixia...
Xiêm từng bước đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa và đường,
không chỉ đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu và số lượng xuất khẩu
ngày càng tăng. Đây là thành tựu vượt bậc so với các nước khác trong vùng. Ngay sau
khi giành lại độc lập (1767), Taksin và các vua đầu tiên của vương triều Chakri đã rất
quan tâm đến vấn đề ngoại thương. Cũng như các triều vua trước, Rama III càng đẩy
mạnh việc buôn bán với Trung Quốc, một bạn hàng truyền thống của Xiêm, luôn chiếm
một vị trí lớn nhất trong ngoại thương của Xiêm, kế đến là khu vực các nước Đông Nam
á như các tiểu quốc ở bán đảo Mã Lai, quần đảo Inđônêxia, Singapo, Campuchia, Việt
Nam (Hà Tiên, Gia Định, Hội An)... Nhờ vậy, trong khoảng 20 năm cuối của thế kỷ
XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, ngoại thương của Xiêm phát triển hết sức mạnh mẽ (nhất
là dưới thời Rama III), mang lại nguồn thu nhập lớn cho Nhà nước. Vào nửa đầu thế kỷ
XIX, tổng giá trị buôn bán hằng năm trong xuất khẩu của Xiêm có năm lên tới 5.500.000
bạt, còn nhập khẩu là 4.300.000bạt [5, tr. 122]. Giá trị xuất khẩu năm 1850 là 5.585.000
bạt, vượt xa giá trị nhập khẩu 1.200.000 bạt [7, tr.43]. Từ thu nhập của Nhà nước dưới
thời Rama II là 5.169.000 bạt tăng lên 14.000.000 bạt (khoảng 8,5 triệu US lúc bấy giờ)
vào cuối thời Rama III [4, tr.16].
91


Cùng với việc phát triển nhanh chóng về ngoại thương, Rama III tiến hành cải

cách việc thu thuế. Trước đây thu thuế bằng thóc nay thu thuế bằng tiền, thêm vào đó
nhà nước cho đấu thầu việc thu thuế (nhiều người Hoa thắng thầu trong việc thu thuế),
nên nguồn thu của nhà nước đã tăng lên đáng kể. Việc thu thuế bằng tiền thay thế cho
thuế bằng hiện vật, chứng tỏ sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Từ đó, Xiêm càng
có điều kiện thuận lợi để đầu tư cho quốc phịng , tăng cường đối phó với sự đe doạ xâm
lược ngày càng tăng từ chủ nghĩa thực dân phương Tây đối với các nước ở khu vực
Đông Nam Á, mà Rama III đã sớm nhận thức được. Chống lại sự xâm lược của phương
Tây chứ không bài xích phương Tây, Rama III đã mạnh dạn thuê các chuyên gia quân sự
châu Âu huấn luyện cho quân đội Xiêm theo mơ hình và chiến thuật qn sự của phương
Tây. Họ còn giúp Xiêm chế tạo các loại tàu chiến mới. Nhờ đó, đến cuối năm 1830
Xiêm có một lực lượng bộ binh 10.000 người và lực lượng pháo binh đã được huấn
luyện theo kỹ thuật tác chiến của châu Âu. Về hải quân, Xiêm có 4 chiến hạm, 12 hải
phòng hạm và khoảng 500 chiến thuyền cải tiến [4, tr.16]. Bờ biển và cửa sông Mê Nam
của Xiêm đều được bảo vệ bởi các công sự, đồn bốt được xây dựng theo kiểu mới nhất
lúc bấy giờ.
Như vậy, ngay từ khi vương triều Chakri được thành lập, các vị vua đầu tiên từ
Rama I đến Rama III đã đặc biệt quan tâm đến việc phát triển kinh tế, mở rộng ngoại
thương, nỗ lực xây dựng an ninh quốc phòng. Dưới thời Rama III, nhằm xây dựng quân
đội hiện đại, hùng mạnh, nhà vua chú trọng đến việc tổ chức huấn luyện quân sự, trang
bị vũ khí và kỹ thuật phương Tây cho quân đội. Đây thực sự là một nét mới của quân đội
Xiêm so với các nước khác trong khu vực. Ơng xem đó như là một trong những mục tiêu
quân sự quan trọng cần đạt tới. Đó khơng những là cơ sở quan trọng để Xiêm bảo tồn
nền độc lập của mình mà cịn là điều kiện thuận lợi để Xiêm có thể mở rộng bành trướng
lãnh thổ và uy thế của mình đối với các nước chung quanh, đặc biệt là ở Lào và
Campuchia cũng như việc tranh giành ảnh hưởng một cách quyết liệt với Miến Điện về
một số cơng quốc ở phía Bắc, như Chiềng Mai, Keng Tung...
II. Quan hệ với các nước phương Tây:
Xiêm có một vị trí chiến lược quan trọng trên con đường giao thương từ châu Âu
sang châu Á. Xiêm như nơi trung chuyển giũa các nước Tây Âu với các nước Đông Nam
Á và Đông Bắc Á. Ngay từ thế kỷ XVI, nhiều phái bộ truyền giáo, thương nhân châu Âu

đã đến Xiêm và từ đó họ đi đến các nước khác trong vùng và ngược lại. Các nước như:
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, sau đó là Hà Lan rồi Anh, Pháp, Đức... đã từng có mặt ở
Xiêm để tranh giành quyền lợi và có những lúc đã xung đột quyền lợi với nhau. Trong
quan hệ với các nước phương Tây từ thế kỷ XVI cho đến khi Ayuthaya (thủ đô của
Xiêm) bị sụp đổ 1767, Xiêm đã khá thành cơng, có nhiều kinh nghiệm trong việc dựa
vào nước này để chống lại nước khác nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Xiêm đã từng
biết cách dựa vào Hà Lan để chống lại thế lực ngày càng lớn của Tây Ban Nha, nhưng
92


khi thế lực của Hà Lan ngày càng chi phối mạnh mẽ ở Xiêm thì họ lại tìm cách dựa vào
Anh để chống lại Hà Lan... Và cũng như vậy, họ đã biết cách liên kết với Nga để đi đến
tiếp xúc với Pháp, Anh, Đức, Bỉ vào thế kỷ XIX...
1. Quan hệ Xiêm - Anh, từ bất hợp tác đến hợp tác:
Quan hệ đối ngoại của Xiêm dưới thời Rama III với các nước phương Tây đáng
chú ý hơn cả là quan hệ với nước Anh. Người Anh đã đến Xiêm lần đầu tiên vào năm
1512, một năm sau khi người Bồ Đào Nha đặt chân đến Malacca, sau khi đã thành công
trong các cuộc phát kiến địa lý đầy mạo hiểm và gian trn. Sau đó, cơng ty Đông Ấn
của Anh đã thiết lập quan hệ thương mại và ngày càng có ảnh hưởng to lớn tại Xiêm.
Sau một thời gian bị ngưng vì các cuộc cách mạng tư sản và chiến tranh Napoléon nổ ra
ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nước Anh lại đẩy mạnh việc xâm
chiếm khu vực Đông Nam Á (sau 1815). Sau khi chiếm được Singapo (1819), Anh lại
tập trung sự chú ý vào bán đảo Mã Lai (Malaixia) và thị trường Xiêm. Năm 1822, một
chiến hạm chở đại sứ Anh Jơn Krâu-phéc-đơ lên đường và nhanh chóng thả neo ở sơng
Mê-nam (Xiêm). Trong q trình đàm phán, phía Xiêm đề nghị Anh bán vũ khí cho
mình, cịn phía Anh u cầu được hồn tồn tự do bn bán và quyền tối huệ quốc. Kết
quả là ngày 10/6/1822 hai bên đã đi đến kí hiệp ước, theo đó tàu của Anh được phép đi
sâu vào sông Mê-nam nhưng với điều kiện là phải tháo dỡ đại bác cùng các vũ khí khác
lên bờ và phía Xiêm được phép kiểm tra tàu Anh. Về phần mình cơ quan hải quan của
Xiêm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán của người Anh và đảm bảo không

tăng thuế trong tương lai.
Tuy nhiên, hai năm sau tình hình trở nên phức tạp hơn khi thực dân Anh phát động
chiến tranh xâm lược Miến Điện (3-1824). Ngay sau khi lên cầm quyền (8-1824), Rama
III đã điều ngay 3 đạo quân tới biên giới Miến - Xiêm và một đạo quân khác tới Li-go để
chờ cơ hội mở rộng lãnh thổ trong trường hợp Anh bị sa lầy trong cuộc chiến tranh với
Miến Điện.
Trước tình hình đó, Anh đề nghị Xiêm tấn cơng Miến Điện từ phía đơng bắc, nơi
qn Anh chưa thể vươn tới được, để phân tán lực lượng của quân Miến Điện, tạo điều
kiện cho lực lượng Anh tấn cơng từ phía biển lên; đồng thời, gây sức ép buộc Xiêm phải
từ bỏ tham vọng ở các tiểu quốc trên bán đảo Mã Lai, nơi có vị trí thương mại quan
trọng đối với cả Xiêm lẫn Anh. Biết được ý đồ "một mũi tên bắn trúng hai đích" của Anh
nên lúc đầu Xiêm không tham gia. Đến năm 1825, Anh cử một phái bộ do đại uý Hăngri Bơ-ni (Henry Burney) cầm đầu đến Xiêm xin tiếp viện. Vua Rama III đồng ý giúp Anh
đánh Miến Điện, nhưng không phối hợp với quân Anh mà độc lập tác chiến, bằng cách
cho quân tiến đánh Mo-ta-ma, nơi trước đây Miến Điện thường tập trung quân trước khi
tấn công Xiêm và một số nơi khác. Trước sự tấn công mạnh mẽ của quân Anh và Xiêm,
vua Miến Điện, Bagyido, (tiếng Thái gọi là Chặc-cai-nung) phải đầu hàng và phải ký với
Anh hiệp ước gồm 10 điểm. Theo hiệp ước, Miến Điện phải nhường các địa phương ven
93


biển và các đảo cho Anh, đồng thời phải nộp phạt 10 triệu ru-pi. Trong hiệp ước này còn
ghi rõ "vua Xiêm là đồng minh rất trung thực của nước Anh sẽ được hưởng nhiều quyền
lợi" [8, tr.134].
Nhờ chủ động và tham chiến một cách khơn khéo, Xiêm vừa góp phần tiêu diệt
Miến Điện, kẻ thù lâu đời của mình vừa không bị rơi vào mưu đồ của Anh, ngược lại
được chia phần "thắng lợi" và trở thành đồng minh với Anh trong cuộc chiến chống lại
Miến Điện. Điều đó mang lại cho Xiêm một vị thế mới trong quan hệ với Anh.
Nhớ đó, ngày 20 - 6 -1826, Xiêm đã kí với Anh một hiệp ước mới trong tư thế
hồn tồn bình đẳng với Anh. Nội dung chủ yếu của hiệp ước là hai bên thỏa thuận phân
chia ảnh hưởng trên bán đảo Mã Lai. Cụ thể là:

1. Anh thừa nhận quyền bảo hộ của Xiêm đối với Patani, Trengganu, Kedah và
Kelantan. Ngược lại, Xiêm đồng ý không cản trở việc buôn bán của người Anh ở những
tiểu quốc này và không can thiệp vào công việc nội bộ của họ, các tiểu quốc này tiếp tục
gửi cây vàng, cây bạc đến triều cống Xiêm như trước đây.
2. Người Anh được phép buôn bán ở Kedah mà sẽ không phải trả thêm thuế quan.
Anh khơng được tìm cách giúp đỡ Sultan Ahmad Tajuddin (người đã bị Xiêm trục xuất)
để trở lại ngôi vua. Anh phải buộc ông ta rời khỏi vùng Penang, nơi người Anh đang
kiểm soát.
3. Xiêm đồng ý không can thiệp vào Perak và Anh cũng đồng ý khơng can thiệp
vào chính quyền của Perak và Selangor.
4. Thương nhân Anh được tự do mua, bán hàng hóa tại Bangkok và chỉ trả thuế hải
quan.
5. Xiêm thừa nhận quyền kiểm soát của Anh ở Penang và các tỉnh phía tây [6,
tr.188].
Hai bên khẳng định một nền hịa bình vững chắc Xiêm - Anh, tự do buôn bán với
nhau. Ngồi ra, hiệp ước này cịn quy định: nhà nước Xiêm từ bỏ độc quyền của mình
trong thương mại, thay toàn bộ các loại thuế đánh vào tàu Anh bằng một thuế duy nhất là
750 bạt đối với mỗi mét chiều dài và rộng của tàu, khoản thuế mà cả Xiêm và Anh đều
chấp thuận.
Như vậy, Xiêm không hề bị thua thiệt trong bất cứ một điều khoản nào cả đối với
Anh. Chính vì vậy, sau này khi Anh thắng lợi trong cuộc chiến tranh thuốc phiện ở
Trung Quốc vào những năm 40 của thế kỷ XIX, Anh đòi Xiêm xét lại, ký lại các điều
khoản của hiệp ước này theo chiều hướng có lợi hơn đối với Anh. Nhưng Anh không đạt
được điều này dưới thời Rama III mà chỉ đạt được vào năm đầu tiên của Rama IV trị vì
(1851).
2. Quan hệ Xiêm - Mỹ, khởi đầu tốt đẹp nhưng đầy thách thức:
Trên cơ sở đạt được một hiệp ước bình đẳng với nước Anh hùng mạnh, đầy tham
vọng, Rama III đã chủ động thiết lập quan hệ với Mỹ, một thế lực mà Xiêm cho là “dễ
94



chịu“ hơn so với các thế lực phương Tây khác lúc bấy giờ. Về phía chính phủ Mỹ cho
rằng "Thái Lan không thành kiến với người Âu” như Trung Hoa và tất nhiên Mỹ cũng
rất quan tâm đến vị trí chiến lược và tầm quan trọng của thị trường Xiêm. Chính phủ Mỹ
đã cử phái bộ đầu tiên do Edmund Roberts cầm đầu đến Bangkok, mở đầu cho quá trình
thiết lập mối quan hệ giữa 2 nước Xiêm - Mỹ. Phái đồn đã được chính vua Rama III
tiếp đón trọng thể. Xuất phát từ nhận thức về vị thế và tầm quan trọng của Mỹ lúc bấy
giờ, Rama III đã nhanh chóng ký hiệp định thương mại với Mỹ (20-3-1833) với những
điều khoản tương tự như hiệp ước với Anh. Ngoài ra người Mỹ được phép truyền bá đạo
Tin Lành (Protestant) ở Xiêm.
Hiệp định thương mại chưa mang lại nhiều lợi lộc cho Xiêm nhưng họ đã thu được
nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật trong một số lĩnh vực như in ấn, y tế, đóng tàu và kể
cả việc học tiếng Anh miễn phí từ các nhà truyền đạo của Mỹ. Nhóm truyền giáo đạo Tin
Lành đầu tiên đến Băng Cốc vào ngày 23-8-1828, gồm có, một bác sĩ người Đức thuộc
Hội truyền giáo Hà Lan tên là Khan-kút-stáp, mục sư người Anh thuộc Hội truyền giáo
London. Hai người này trước đây đã truyền đạo ở Trung Hoa rồi đến truyền đạo cho
người Hoa ở Băng Cốc. Họ nhận thấy ở Xiêm khơng có sự kỳ thị về tơn giáo và các tôn
giáo đều được tự do hoạt động, nên họ viết báo cáo gửi về Hội truyền giáo ở Mỹ. Từ đó
nhiều nhóm truyền đạo Mỹ lần lượt sang Xiêm. Nhóm American board of commissioner
for foreign mission đến Băng Cốc vào các năm 1831, 1843, 1835, 1840. Nhóm
American Baptist mission đến Xiêm vào năm 1833. Nhóm Presbyterien đến Băng Cốc
vào các năm 1840, 1847 [8, tr.139]. Trong các nhóm truyền đạo nói trên có nhiều bác sĩ
cấp phát thuốc và chữa bệnh miễn phí và giúp cho Xiêm cách tiêm chủng đậu mùa.
Ngày 18-7-1835, nhà truyền đạo Wyliam đã mang theo máy in. Nhờ đó, tháng 6 năm
1835, thầy giảng Robinson đã chế tạo ra máy in chữ Thái đầu tiên ở Băng Cốc. Năm
1849, chính phủ Xiêm lần đầu tiên đã in thông báo cấm buôn bán thuốc phiện. Năm
1833, thông qua các nhà truyền giáo Xiêm đã chế tạo tàu thủy chạy bằng máy trên sông
Chao-phray-a...[8, tr.140].
Sau đó, Rama III cịn chủ động đề nghị ký một hiệp ước tương tự như trên với
Pháp nhưng không thành. Bảy năm sau, năm 1840 Xiêm chủ động ký với Mỹ một hiệp

ước khác nhằm đẩy mạnh trao đổi thương mại giữa hai nước. Từ 1826 – 1840, Rama III
đã sáu lần tiếp sứ thần phương Tây đã giúp ông nhận thức được rằng là một nước nhỏ,
đứng trước các đối thủ lớn như vậy, phải biết cách để sinh tồn. Từ đó, Rama III thận
trọng và dè dặt hơn trong quan hệ đối ngoại với Mỹ.
Sau hiệp ước 1833 và 1840 giữa Mỹ và Xiêm, cũng như Anh, Mỹ khơng thoả mãn
tham vọng của mình. Mỹ muốn lấn tới hơn nữa. Các hiệp ước Mỹ ký với Trung Quốc
năm 1844 đem lại cho họ những món lợi khổng lồ, điều đó thơi thúc Mỹ tiếp tục tìm
kiếm thị trường và đỏi hỏi ở nước Xiêm nhiều hơn nữa. Năm 1850, tổng thống Mỹ
Taylor đã cử Josep Barestier đến Băng Cốc yêu cầu Xiêm xét lại hiệp ước đã ký năm
95


1833. Triều đình Xiêm một mặt tỏ ra nhu mì, tiếp thu những ý kiến phía Mỹ đưa ra,
song mặt khác soạn thảo một công hàm gửi tới Josep Barestier với nội dung từ chối
những yêu cầu của Mỹ. Trước sự từ chối của Xiêm, Mỹ đe doạ sẽ tấn công Xiêm, Mỹ
tuyên bố rằng: Mỹ sẽ cấm thương nhân Xiêm tới Mỹ buôn bán, kế tiếp Mỹ phát động
phong trào bài trừ hàng hóa của Xiêm. Mỹ đóng cửa khơng thơng thương bn bán với
Xiêm, mục đích của Mỹ là cô lập Xiêm về kinh tế, buộc Xiêm chấp nhận các điều khoản
của Mỹ.
Đứng trước tình hình đó, những nhà ngoại giao Xiêm vẫn tỏ ra bình tĩnh. Vì họ
cho rằng Mỹ không thể độc chiếm thị trường Xiêm. Vì nếu Mỹ độc chiếm Xiêm, sẽ gặp
phải sự kháng cự quyết liệt của cường quốc Anh, Hà Lan và một số nước tư bản khác vì
những nước này đã ký với Xiêm nhiều hiệp ước thương mại. Kết quả là đúng như người
Xiêm dự đốn, Mỹ chỉ nói như vậy nhưng sau đó họ lại tiếp tục đặt quan hệ với Xiêm.
Như vậy, Xiêm đã khơn khéo tìm cách thiết lập quan hệ bang giao và thương mại
với một số nước lớn phương Tây trong bối cảnh chung chủ nghĩa thực dân đang mở rộng
chiến tranh xâm chiếm thuộc địa khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ La tinh nửa đầu thế kỷ
XIX. Đó là một thành cơng to lớn của Xiêm và nhờ đó họ đã giảm được áp lực về sự đe
dọa đối với nền độc lập của mình từ phía các nước thực dân và tư bản phương Tây, tạo
điều kiện thuận lợi cho họ tiếp tục khống chế các nước chung quanh.

III. Một vài nhận xét:
1. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực
cũng như nhanh chóng phát triển thực lực của đất nước, Xiêm dưới thời Rama III biết
cách "lựa chiều" nhằm cân bằng quyền lực giữa các nước lớn, để tồn tại và phát triển.
2. Trong quan hệ với Anh, Rama III đã đi từng nước cờ khôn khéo để đưa vương
quốc Xiêm, nước mà Anh muốn lợi dụng và xâm chiếm, trở thành đồng minh với Anh,
cùng hưởng lợi trong cuộc chiến tranh Anh - Miến và đã thực sự bình đẳng với Anh
trong hiệp ước thương mại Anh - Xiêm 1826.
3. Tuy là một ông vua độc tài chuyên chế nhưng Rama III khá mềm dẻo, linh
hoạt trong quan hệ với các cường quốc phương Tây. Rama III không dành cho các
cường quốc đó nhiều quyền lợi (như người kế nhiệm Mongkut và Chulalongkon) mà chỉ
dành cho họ những quyền lợi vừa đủ để chính phủ các nước đó khơng thể gây ra cuộc
chiến tranh xâm lược đối với Xiêm. Ngược lại, ông đã tranh thủ tiếp nhận được một số
thành tựu về khoa học và kỹ thuật tiên tiến của phương Tây. Có thể đó là lý do mà một
số học giả phương Tây cho rằng Rama III “là người bảo thủ và cứng rắn”.
4. Nhờ những thành tựu to lớn trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại mà Xiêm đạt
được dưới thời Rama III đã tạo điều kiện thuận lợi cho vương quốc Xiêm thực hiện cải
cách, đổi mới trong thời Mongkút và Chulalongkon, đồng thời giúp Xiêm tiếp tục giữ
vững độc lập, phát triển đất nước theo con đường hiện đại của các nước phương Tây.
96


TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. Akin Rabibhadawa. The organization of Thai Society in the early Bangkok period,
1782-1873, Amarin Printing & Publishing Public Compagny limited, Bangkok (1996)
6. B.J. Terwiel. A history of modern Thailand 1767 - 1942, University of Queensland
Press, London (1983)
7. Đặng Văn Chương. Quan hệ Xiêm - Việt từ 1782 đến 1847 (Luận án tiến sĩ), Hà Nội
(2003)
8. Đào Minh Hồng. Chính sách đối ngoại của Thái Lan (Xiêm) nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (luận án tiến sĩ lịch sử), Thành phố Hồ Chí Minh (1999).

9. Lê Văn Quang. Lịch sử vương quốc Thái Lan, Nxb Tp Hồ Chí Minh (1995).
10. Nigel Kelly. History of Malaya & South - East Asia, Heinemann Asia, Singapore
(1995).
11. Nguyễn Khắc Viện. Thái Lan - Một số nét về chính trị, kinh tế xã hội, văn hóa và lịch
sử, Hà Nội (1988).
12. Viện Đông Á. (Bản dịch viết tay), Lịch sử nền thống trị Thái Lan, tập 2
13. W. Vella. Siam under Rama III. Locust Valley, New York (1957)

TÓM TẮT
Vua Xiêm nói chung đã rất khơn khéo trong việc thiết lập quan hệ với các nước lớn trên
thế giới từ Trung Quốc láng giềng cho đến cường quốc phương Tây thời cận đại. Họ biết cách
“lựa chiều” nhằm cân bằng quyền lực giữa các nước lớn để tồn tại và phát triển. Rama III rất
khôn khéo trong quan hệ với Anh, nồng nhiệt trong quan hệ với Mỹ. Nhưng ông chỉ dành cho
các nước phương Tây những quyền lợi vừa đủ để chính phủ các nước đó khơng thể gây ra cuộc
chiến tranh xâm lược đối với Xiêm, để bảo vệ nền độc lập và phát triển đất nước.

RELATIONSHIP OF SIAM WITH WESTERN COUNTRIES
UNDER RAMA III (1824 - 1851)
Dang Van Chuong
College of Pedagogy, Hue University

SUMMARY
The kings of Siam in general were very clever in their building the relationship with
powerful nations in the world from China, its neighbor, to the distant western countries in their
contemporary time. They knew how to ‘wait for the cat to jump’ among those powerful countries
for their nation’s existence and development. King Rama III behaved quite cleverly in the
relation with Great Britain and showed his warm attitude towards the USA. He, however, gave
97



the western countries the benefits only to such a degree sufficient enough to prevent them from
invading Siam so that Siam could maintain its independence and development.

98



×