Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tim hieu ve Ca dao than than yeu thuong tinh nghia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.66 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>I /TÌM HIỂU CHUNG VỀ CA DAO</b>


<b>1/. Nội dung: Ca dao là tiếng nói của tình cảm gia đình, q hương đất nước, tình u lứa đơi và </b>
nhiều mối quan hệ khác


-Ca dao cổ truyền còn là tiếng hát than thân, những lời ca yêu thương, tình nghĩa cất lên từ cuộc
đời cịn nhiều xót xa cay đắng nhưng đằm thắm ân nghĩa bên gốc đa, giếng nước, sân đình. Bên
cạnh cịn là lời ca hài hước thể hiện tinh thần lạc quan của người lao động.


<b>2/. Nghệ thuật: Ca dao thường ngắn gọn, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ, biểu tượng truyền thống, </b>
hình thức lặp lại, đối đáp mang đậm sắc thái dân gian.


<b>II/ĐỌC-HIỂU :</b>


<b>A. Tiếng hát than thân</b>
<b>1-Bài 1 và 2:</b>


<b>a) Nét chung :</b>


+ Hai bài ca dao mở đầu bằng “Thân em như . . .” ( hình thức lặp lại) => khẳng định đây lời than
thân ngậm ngùi, xót xa của người phụ nữ: thân phận bị phụ thuộc, nhỏ bé, không tự quyết định
được số phận đời mình.


+ NT: Hình ảnh so sánh ẩn dụ và câu miêu tả bổ sung :“Tấm lụa đào phất phơ”, “Củ ấu gai . . . ”
đã gợi lên nỗi khổ cực sâu sắc nhất của người phụ nữ.


<b>b) Nỗi đau khổ riêng của từng thân phận :</b>


Tuy nhiên, mỗi thân phận ấy lại có nỗi đau riêng của từng người và được miêu tả bằng những
hình ảnh so sánh ẩn dụ khác nhau.



Bài 1: Người phụ nữ ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình (như tấm lụa đào) nhưng
số phận của họ thật chơng chênh khơng có gì đảm nỗi đau bị phụbảo, không biết sẽ vào tay ai
(Phất phơ… vào tay ai) thuộc hoàn toàn vào người mua, người sử dụng mình như một món
hàng.


Bài 2: Người phụ nữ tự ý thức được giá trị thực của mình : “Ruột trong thì trắng”( phẩm chất bên
trong), “vỏ ngồi thì đen”(dáng vẻ bên ngồi đen đủi, thiếu thẩm mỹ).


- Lời mời mọc da diết lại càng khẳng định giá trị thực của họ không ai biết đến : “Ai ơi,… ngọt
bùi” => Nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.


=> Hai bài ca dao khơng chỉ nói lên thân phận người phụ nữ bị phụ thuộc mà còn là tiếng nói
khẳng định giá trị, phẩm chất của họ.


<b>2- Bài 3: Tâm sự của người lỡ duyên</b>


- “Trèo lên cây khế nửa ngày . . .” -> lối nói đưa đẩy, gợi cảm hứng thể hiện nỗi chua xót vì lỡ
duyên. Cách mở bài này thường gặp trong ca dao như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- “Ai” là đại từ phiếm chỉ : chàng trai , cô gái , cha mẹ ép duyên mà chia cắt mối tình của họ hay
đối tượng nào đó, phải chăng là cái XHPK xưa tưìng ngăn cách, làm tan vỡ biết bao mối tình.
Lời than gợi sự trách móc, ốn giận, nghe chua xót(NT chơi chữ : khế (chua) cay đắng.
- Mặc dầu lỡ duyên nhưng tình nghĩa con người vẫn bền vững thuỷ chung.


- Hệ thống so sánh ẩn dụ ; “trời”, “trăng”, “sao” trong bài ca dao đã khẳng định điều đó.
“Mặt trăng sánh với mặt trời


Sao Hơm sánh với sao Mai chằng chằng”


=> “Sánh với láy lại 2 lần, lại thêm chằng chằng nhấn mạnh ở cuối câu khẳng định : Đôi ta dù


cách xa nhau (như mặt trăng với mặt trời, sao Hôm với sao Mai) nhưng đôi ta vẫn xứng với
nhau, vẫn đẹp đôi vừa lứa.


- Tác giả dân gian lấy hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ là cái to lớn, vĩnh hằng không thể đổi khác để
khẳng định lòng người bền vững, thuỷ chung.


- “Mình ơi!”=> tiếng gọi gợi nhớ gợi thương “có nhớ” : Chàng trao gởi vào đó nỗi lịng: dù
duyên kiếp dở dang vẫn chờ đợi, không thành đôi thì tình nghĩa vẫn khơng thay đổi. Đó là vẻ đẹp
của tình người trước sau vẫn nhấp nháy sáng như ngôi sao Vượt chờ trăng giữa trời.


<b>B. Tiếng hát yêu thương tình nghĩa:</b>
“Nhớ ai em những khóc thầm


Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa”
. . . . .. . . .


Yêu đi liền với nỗi nhớ. Khao khát được yêu, hạnh phúc trong ước nguyện thuỷ chung, đó là nét
đẹp trong tâm hồn người VN ta. Điều đó được nói nhiều ở những bài ca dao yêu thương tình
nghĩa về tình yêu nam nữ, vợ chồng. .


<b>3. Bài ca dao 4:</b>


<b>3.1 Nỗi thương nhớ người yêu:</b>


Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được biểu hiện một cách cụ thể, sinh động
bằng các biểu tượng khăn, đèn và mắt.


Cái khăn thường là vật trao duyên:
“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời



Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”.
“Nhớ khi khăn mở trầu trao


Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình”


Hình ảnh vận động của chiếc khăn diễn tả tâm trạng ngổn ngang trăm mối “nhớ ai bổi hổi…như
ngồi đống than”. Và nỗi nhớ ấy đã dẫn đến cảnh khóc thầm “khăn chùi nước mắt” như biết bao
cô gái trong cd thuở xưa“nhớ ai em những…đầm đầm như mưa”.


<b>a) Biểu tượng “Khăn”:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời


Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”.
“Nhớ khi khăn mở trầu trao


Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình”


Hình ảnh vận động của chiếc khăn diễn tả tâm trạng ngổn ngang trăm mối “nhớ ai bổi hổi…như
ngồi đống than”. Và nỗi nhớ ấy đã dẫn đến cảnh khóc thầm “khăn chùi nước mắt” như biết bao
cô gái trong cd thuở xưa“nhớ ai em những…đầm đầm như mưa”.


+ Khăn thương nhớ ai:
rơi xuống đất


vắt lên vai
chùi nước mắt


- Nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, nhân hoá thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết.
- Cái khăn thường là vật trao duyên luôn quấn



quýt bên người con gái.


- Nỗi nhớ trải ra trên nhiều chiều không gian: khăn rơi xuống đất, khăn vắt lên vai, khăn chùi
nước mắt => nỗi nhớ quay quắt, quanh quất mọi nơi, mọi hướng, tâm trạng ngổn ngang trăm
mối.


- Sáu câu 16 thanh Bằng (chủ yếu là thanh không)diễn tả nỗi nhớ bâng khuâng da diết mang màu
sắc nữ tính ( khơng ồn ào, dễ dãi).


<b>b) Biểu tượng “Đèn”:</b>


Chừng nào ngọn lửa tình vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia làm sao tắt
được. “Đèn khơng tắt” hay chính người con gái đang trằn trọc thâu đêm trong nỗi nhớ thương
đằng đẵng với thời gian.


- Đèn không tắt -> hình ảnh nhân hố: ngọn lửa tình u mãi bùng cháy trong lịng cơ gái , nỗi
nhớ như thao thức cùng đêm khuya.


Nỗi nhớ về đêm là nỗi nhớ sâu sắc trong tâm tưởng.Các tác giả VHTĐ như Nguyễn Du miêu tả
nỗi đau ê chề của Kiều:


“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh


Giật mình mình lại thương mình xót xa
Cịn Hồ Xn Hương :


“Đêm khuya văng vẳng trốn canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
<b>c). Biểu tượng “Đơi mắt”:</b>



- Mắt ngủ khơng n -> hình ảnh hốn dụ, diễntả nỗi nhớ trằn trọc ưu tư nặng trĩu trong cả tiềm
thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thức.


Cô gái hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt chính là cơ tự hỏi lịng mình. Nỗi nhớ được nói đến liên tiếp
dồn dập trong 10 câu thơ 4chữ (thể vãn 4). Cô chỉ hỏi mà khơng có lời đáp. Nhưng chính câu trả
lời đã được khẳng định từ trong điệp khúc “thương nhớ ai” vang lên, xốy sâu vào lịng ta một
niềm khắc khoải.


Ngồi tâm trạng nhớ nhung ra, cơ gái trong bài cd cịn có một tâm sự khác: tâm trạng lo lắng
xuất phát từ thân phận bấp bênh :


<b>3.2 Nỗi lo phiền:</b>


- Lo phiền một nỗi, không yên một bề -> nhớ thương người yêu nhưng vẫn lo lắng cho số phận
của mình, cho dun phận đơi lứa với hạnh phúc bấp bênh .


=> Bài ca dao là tiếng hát đầy yêu thương, của một tấm lòng địi hỏi phải được u thương, nỗi
nhớ khơng hề bi lụy mà vẫn chan chứa tình người như một nét đẹp tâm hồn của các cô gái
VN(giàu giá trị nhân văn cao cả).


<b>4. Bài ca dao 5: Ước muốn</b>


Trong cd tình yêu, chiếc cầu là một chi tiết nghệ thuật quen thuộc và đặc sắc, xuất hiện với tần
số khá lớn, trở thành một biểu tượng để chỉ nơi gặp gỡ, hị hẹn của những đơi lứa đang yêu, là
phương tiện để họ có thể đến được với nhau. Chiếc cầu đó có khi là cành hồng, cành trầm, ngọn
mùng tơi:



- Hai ta cách một con sông


Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.
- Cách nhau có một con đầm


Muốn sang anh bẻ cành trầm ch sang
Cành trầm lá dọc lá ngang


Để người bên ấy bước sang cành trầm.
- Gần đây mà chẳng sang chơi


Để em ngắt ngọn mùng tơi bắc cầu
Sợ rằng chàng chẳng đi cầu


Cho tốn cơng thợ, cho sầu lịng em.


- Bài cd là ước muốn của cô gái, cũng là lời cơ thầm nói với người u của mình : bắc cầu giải
yếm để chàng sang chơi => Ý tưởng táo bạo với một hình ảnh độc đáo.


= >Đó là những cái cầu khơng có thực, được dệt nên bằng ước mơ táo bạo của con người. Nhưng
chính những cái cầu ảo đó lại đem đến một vẻ đẹp rất dân gian, rất đồng quê mà chỉ có cd mới có
được.


- Hình ảnh : sơng chỉ rộng một gang, chiếc cầu dải yếm tưởng chừng như phi lí nhưng lại rất hợp
lí . Bởi nó là cầu nối tình u, là máu thịt, là trái tim rạo rực yêu đương của người con gái.
=> Ước muốn táo bạo, mãnh liệt mà đằm thắm,đầy nữ tính.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Muối và gừng là những gia vị trong bữa ăn của nhân dân ta,là vị thuốc của những người lao động
nghèo trong lúc đau ốm.Sự gắn bó tự nhiên của các hình ảnh đó tượng trưng cho tình nghĩa con
người gắn bó thủy chung:



- Tay bưng chén muối đĩa gừng


Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
- Muối càng mặn, gừng càng cay


Đơi ta tình nghĩa nặng dày em ơi.


-“Muối mặn” – “gừng cay” => hương vị, nghĩa tình con người => biểu trưng cho sự gắn bó thủy
chung của con người. Tình người có trải qua mặn mà,cay đắng thì mới sâu đậm, nặng nghĩa nặng
tình, mới thật thương nhau.


- Đơi ta: nghĩa nặng tình dày -> ba vạn sáu ngàn ngày mới xa -> lối nói kết cấu theo thời gian: độ
mặn của muối, độ cay của gừng còn có hạn nhưng tình nghĩa đơi ta là mãi mãi, đến trăm năm,
một đời người mới xa.


<b>III. Tổng kết:</b>
<b>1/. Nghệ thuật:</b>


+ Sự lặp lại mô thức mở đầu: thân em…


+ Dùng hình ảnh biểu tượng: chiếc cầu, tấm khăn, ngọn đèn, gừng cay, muối mặn, …
+ Dùng hình ảnh so sánh ẩn dụ: tấm lụa đào, củ ấu gai, mặt trời, mặt trăng, sao,…
+ Thể lục bát, thể 4 chữ, song thất lục bát, biến thể,…


</div>

<!--links-->

×