Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.64 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề: Anh hoặc chị hãy phân tích và chứng minh tư tưởng nhân đạo của nhà </b>
<b>văn Tơ Hồi qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ . </b>
<b>BÀI LÀM </b>
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, vùng núi cao Tây Bắc xa xôi của đất nước ta và những đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống ở nơi ấy, trong ấn tượng khơng ít người, vẫn hãy còn là mảnh đất rừng thiên nước độc
cùng với những người sống tối tăm mê muội. Nhưng sau cách mạng tháng Tám, năm 1952, trong chuyến đi
công tác Tơ Hồi đã sống, gắn bó và nghĩa tình với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, H’mông … Dưới đơi
mắt của Tơ Hồi, đất và người Tây Bắc hiện lên rất thơ mộng và đẹp ở nhiều phương diện. Cùng với việc chứng
kiến cuộc sống tủi nhục của đồng bào dưới ách phong kiến và thực dân, Tơ Hồi đã xúc động, đau thương viết
nên ba tác phẩm: Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ và được in trong tập truyện Tây Bắc.
Truyện Tây được giành giải nhất nhất về truyện, kí (Đồng hạng với Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc) -giải
thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Nhưng trong ba truyện này, Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn
thành công hơn cả. Một trong những thành công của Vợ chồng A Phủ là tư tưởng nhân đạo được Tơ Hồi thể
hiện rất mới mẻ, có nội dung giai cấp khác với những tác phẩm nhà văn viết trước cách mạng.
Ở đây, tư tưởng nhân đạo của Tơ Hồi được thể hiện qua bốn cấp độ:
<i>Ở cấp độ thứ nhất, nhà văn phê phán, tố cáo những thế lực phong kiến, thần quyền </i>đã chà đạp lên danh dự,
nhân phẩm, cướp đoạt quyền tự do và làm mê hoặc con người.
Trước hết, nhà văn phê phán, tố cáo những thế lực phong kiến đã chà đạp lên danh dự, nhân phẩm, cướp đoạt
quyền tự do của con người. Chính nan cho vay nặng lãi của bọn chúa đất miền núi đã đẩy người nông dân
nghèo H’mông vào cảnh khốn cùng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cụ thể là bố của nhân vật Mỵ trong truyện.
Ngày trước khơng có đủ tiền để cưới mẹ của Mỵ, phải đến vay nhà thống lý, bổ của thống lý Pá Tra bây giờ.
Mỗi năm phải đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được
nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ. Thế là Mỵ lớn lên, thống lý Pá Tra đến bảo bố Mỵ: cho tao đứa con gái
về làm dâu thì tao xóa hết nợ. Mỵ chưa đồng ý thì một đêm tết, Mỵ bị người nhà thống lý lập mưu kế bắt Mỵ
đem về nhà chúng. Họ nhốt Mỵ vào buồng. Trong khi đó, A Sử đến nàh bố Mỵ báo tin mình đã trắng trợn cướp
đoạt quyền tự do yêu đương của Mỵ với hình thức bắt làm vợ anh ta, làm con dâu gạt nợ cho gia đình mình. Từ
trăm lạng bạc trắng gồm tiền phạt, tiền cho quan hút thuốc phiện, tiền lợn cho quan ăn nhậu. Biết A Phủ khơng
có tiền, chúng tun bố: Mày khơng có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày trả nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao
<i>cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu </i>
<i>mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ đành phải lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như hổ phù, </i>
cúi sờ lên đồng bạc trên trap, nhưng nhặt xong lại để ngay cả xuống mặt trap. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào
trong trap. Thế là từ đấy A Phủ phải đi ở trừ nợ cho nhà Thống lý. Một lần, A Phủ đi chăn bò, ngựa chẳng may
bị hổ ăn thịt mất một con bò. Thống lý biết đựợc bắt A Phủ vác cọc gỗ rồi lấy mấy cuộn mây trên gác bếp
xuống, rồi tự tay đóng cái cọc gỗ xuống bên cột. Pá Tra đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi
dây mây quấn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc đựợc. Đến đêm, A Phủ nhích dãn được dây trói một
bên tay nhưng Pá tra vào khám quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. A Phủ khơgn cúi cũng khơg cịn lắc
được nữa. Nếu Mỵ không phát hiện, giải cứu kịp thời chắc chắn A Phủ sẽ chết.
Thêm vào đó, nhà văn phê phán, tố cáo bọn thống trị đã lợi dụng thần quyền để làm cho những người kiếp nô lệ
phải yên phận với cảnh sống đau khổ, đày đọa. Điều này nổi rõ qua hai nhân vật chính. Nhân vật Mỵ bị ảnh
hưởng nặng nề bởi quan niệm Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời người chỉ biết đi
theo đi con ngựa của chồng. Đặc biệt là khi bị đầu độc óc mê tín: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma
<i>nhà nó rồi thì chỉ cịn biết đợi ngày rũ xương ở đây thơi…Hậu quả của điều này thật bi thảm: Mỵ phải sống tăm </i>
tối, nhẫn nhục, cam chịu, có lúc khơng hi vọng vào sự thay đổi ở tương lai, ở lâu trong cái khổ Mỵ quen rồi.
<i>Bây giờ thì Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến cái </i>
<i>tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm mà thôi.Mỵ cuối mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào </i>
cũng chỉ nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt. Mỗi ngày, Mỵ càng khơng nói, lùi lũi như
<i>con rùa ni trong xó cửa. Ở cái buồng Mỵ nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lổ vuông bằng bàn tay. Lúc </i>
<i>nào trông ra chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Mỵ nghĩ rằng, mình cứ chỉ ngồi trông cái lổ </i>
<i>vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thơi. Và trong suốt nữa đầu tác phẩm, Mỵ gần như câm lặng, sống </i>
<i>Ở cấp độ hai: Nhà văn hết lòng bên vực con người </i>
Cùng với sự phê phán, tố cáo là lịng xót thương vơ hạn của Tơ Hồi đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng
núi cao Tây Bắc xa xôi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mịn vì đau khổ,
đọa đày. Hai sự sống sơi nổi, trẻ trung đang bị trói đứng trong nhà thống lý Pá Tra là một luận chứng trái với
quy luật tự nhiên và do đó cũng trái với tinh thần nhân đạo chủ nghĩa bao la. Bênh vực cho con người trởvề với
tinh thần nhân dân chủ nghĩa bao la. Bênh vực cho con người trở về với quy luật tự nhiên, phải chăng cũng là tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm?
<i>Ở cấp độ 3: Nhà văn đề cao con người ở cái đẹp hình thức, ở khả năng lao động và ở tâm hồn </i>
dám đánh A Sử, con quan Thống lý, vì A Sử cậy quyền, ỷ thế gây sự với trai làng anh. Trong bữa tiệc phạt vạ
anh lỳ như tượng đá. Nhờ tinh thần gai góc. Do đó ý định dũng cảm: vào rừng bắt hổ để đền lại bò bị mất cho
nhà Thống lý. Khi được Mỵ cứu thoát, sức lực của A Phủ rất yếu khụy xuống, không bước nổi nhưng anh vẫn
quặt sức vùng là chạy để thóat khỏi bàn tay độc ác của lũ chúa đất, thoát khỏi nanh vuốt của cái chết, để được
sống. Sau này, khi được A Châu cán bộ Đảng, giác ngộ. A Phủ kết nghĩa với A Châu, trở thành tiểu đội trưởng
du kích, cùng đồng đội giải phóng q hương. Còn nhân vật Mỵ: ẩn giấu nơi hồ sâu hun hút, tâm hồn Mỵ là một
sức sống tiềm tang. Kể từ khi bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, sức sống tiềm tàng của cô gái
mèo ấy đã trổi dậy mạnh mẽ ba lần. Lần 1: Mỵ tìm trong rừng một nắm lá ngón, giấu trong áo về quỳ lạy chào
bố lần cuối để tự kết liễu đời minh. Tự tử trong hồn cảnh của Mỵ là thái độ bất bình, không chấp nhận số phận.
Muốn chết, nghĩa là chống lại cuộc sống khơng ra sống, nghĩa là cịn u cuộc sống, cuộc sống khác chứ không
phải cuộc sống trâu ngựa, hay nói cách khác là Mỵ thà chết chứ không chịu sống để làm nô lệ. Nhưng qua lời
giải thích chan chứa nước mắt của bố, Mỵ khơng đành lịng chết. Nếu Mỵ chết thì bố Mỵ cọn khổ hơn bao
nhiêu lần bây giờ nữa. Mỹ đành trở lại nhà Thống lý để sống kiếp đọa đày, tăm tối nơi trần thế. Lần thứ hai: là
ra, Mỵ ngã sụp xuống, chị dâu ôm vai Mỵ, hai người khổ sở dìu nhau bước ra khi buồng tối để vào rừng hái
thuốc. Trong khi đó, cảnh ngộ của người chị dâu chẳng khác gì Mỵ: tuy chưa già nhưng cái lưng của chị quanh
năm phải đeo thồ nặng quá, đã còng rạp xuống.
Đối với A Phủ, chị dâu cũng rất chú ý đến cảnh ngộ của anh. Nhờ chị nói lại, Mỵ mới biết tại sao A Phủ lại bị
bắt, lại bị hành hạ. Riêng nhân vật Mỵ: ban đầu ngồi sưởi bên bếp nhìn sang thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới
biết A Phủ còn sống. Mấy đêm rồi vẫn vậy nhưng Mỵ vẫn thản nhiên lạnh lung thổi lửa, hơ tay như khơng có
một A Phủ bằng xương,bằng thịt đang hiện hữu ở đó, bởi vì nỗi đau của Mỵ quá lớn đâu còn khả năng quan tâm
đến người khác. Thế nhưng sau đó nhìn thấy dòng nước mắt chảy từ hốc mắt của A Phủ bị trói đứng bên bếp
lửa, như tiếng gọi tha thiết, thiêng liêng của tình giai cấp đã làm dâng lên nỗi niềm xúc động, thương cảm và
đồng cảm của Mỵ và A Phủ. Mỵ cứu A Phủ, còn nhân vật A Phủ :được Mỵ cứu sống đã rủ Mỵ: “đi với tơi” và
cịn lẳng lặng đỡ Mỵ lao chạy xuống dốc. Mặt khác, nhà văn tin vào khả năng cách mạng của con người. Khi
Mỵ và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa thì lại rơi vào bọn giặc Tây ở đồn Bản Pe. A Phủ lại bị chúng
đánh đạp không thương tiếc, lưng đầy sẹo, cái roi tóc của cha mẹ để lại cho anh đã bị lũ lang sói cắt đi. Hai con
lợn nhỏ cũng bị giặc cướp mất. Ngọn lửa căm thù quân cướp nước và bọn thống trị phong kiến bùng cháy mạnh
mẽ. Được A Châu, cán bộ Đảng tìm đến giác ngộ kịp thời. A Phủ đã kết nghĩa anh em với A Châu. Lễ ăn thề
thiêng liêng kết nghĩa anh em giữa hai người cũng có nghĩa là giữa nhân dân và cách mạng. Từ đó vợ chồng A
Phủ khơng những làm rẫy làm lán bí mật mà cịn biết tham gia trực tiếp vào công cuộc cách mạng. A Phủ trở
thành tiểu đội trưởng du kích cùng đồng đội bảo vệ quê hương. A phủ khẳng định một ý chí, một quyết tâm cao
đẹp qua lời bộc bạch dứt khóat với Mỵ: Đây khơng phải là Hồng Ngài! Đây là khu du kích Phiềng Sa, A Phủ là
<i>tiểu đội trưởng du kích mà!. Thực ra đó là tiếng quat, anh quát để xua tan cái uy thế khủng khiếp của bố con nhà </i>
Thống lý Pá Tra vẫn hãy cịn ám ảnh Mỵ của anh. Mỵ cũng tìm đến cách mạng một cách dè dặt là vì vậy. Rồi
Mỵ và anh dũng cảm, hiên ngang cầm súng cùng với trai, gái bản H’mông hẻo lánh làm công tác “giữ đường
cho bộ đội”, giải phóng người H’mơng, góp phần cơng sức đánh đổ chế độ phong kiến và bọn thực dân Pháp