Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sáng kiến đổi mới phương pháp giảng dạy môn văn ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.3 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HOẰNG HĨA 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MƠN VĂN Ở CẤP THPT THEO HƯỚNG
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO”

Người thực hiện: Đặng Thị Hà
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HĨA, NĂM 2019


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................2
Phần I....................................................................................................................3
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................3
Phần II..................................................................................................................5
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................................................5
I. CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ.................................................................................5
1. Cơ sở pháp lý.............................................................................................5
2. Cơ sở lý luận..............................................................................................6
II. GIÁO VIÊN, ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN THPT VÀ
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC.....................................................................................6
1. Giáo viên THPT........................................................................................6
2. Đặc điểm lao động nghề nghiệp và năng lực của giáo viên THPT...........7
3. Đổi mới phương pháp giáo dục...............................................................12
III. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG DẠY VÀ HỌC
MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV THỜI GIAN QUA...13


1. Tồn tại......................................................................................................13
2. Nguyên nhân............................................................................................14
IV. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
GIẢNG DẠY MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV...........16
1. Các giải pháp đổi mới giảng dạy môn Văn ở cấp THPT theo hướng đổi
mới giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo..................................................16
2. Kết quả sau ba năm thực hiện.................................................................20
Phần III..............................................................................................................22
KẾT LUẬN.........................................................................................................22

2


Phần I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phát triển ngày càng mở ra nhiều cách tiếp cận mới đến cùng một
vấn đề, điều đó thúc đẩy khơng chỉ các nhà nghiên cứu mà tất cả đối tượng trong
xã hội đều tích cực tìm cho bản thân mình các phương pháp tiếp cận khác nhau
để cùng khám phá, nghiên cứu hoặc tìm hiểu một vấn đề, hiện tượng hoặc sự
việc sảy ra trong cuộc sống.
Phổ thông trung học là cấp học cuối cùng trong hệ thống giáo dục phổ
thông, ở cấp học này cả cán bộ, giáo viên và học sinh đều được tiếp cận với một
trình độ giáo dục khá cao và có khả năng tiếp cận với nhiều phát kiến, sáng kiến
khoa học, phương pháp nghiên cứu, tìm tịi khác nhau. Đồng thời, chương trình
giáo dục của cấp học này cũng địi hỏi cả người dạy và người học phải ln ln
có những sáng tạo để làm mới, làm phong phú và làm sâu sắc hơn các kiến thức
trong sách giáo khoa. Ngồi ra, chương trình giáo dục ở cấp THPT cũng là một
chương trình mở, giúp cho giáo viên và học sinh bước ra khỏi khuôn khổ giáo
án để tiếp cận với các kiến thức rộng lớn hơn, mới mẻ hơn và đa dạng hơn. Đó
là những điều hết sức cần thiết giúp cho giáo viên ngày càng phát triển về tư duy

khoa học, đổi mới phương pháp truyền đạt và chủ động trong q trình lên lớp;
nó cũng giúp cho học sinh mạnh dạn hơn, chủ động hơn trong việc khám phá
năng lực bản thân, tích cực hơn trong q trình tìm tịi, phát kiến và ứng dụng
các phương pháp mới, tích cực vào q trình học tập, rèn luyện và vào cuộc
sống hiện tại cũng như tương lai.
Văn là một môn học rất quan trọng, chiếm thời lượng lớn trong chương
trình học của của học sinh các cấp, đặc biệt là cấp Trung học phổ thông. Môn
Ngữ văn không chỉ là môn học quan trọng để thi tốt nghiệp cấp THPT, xét tuyển
vào đại học, cao đẳng mà quan trọng hơn là mơn Văn có vai trị đặc biệt trong
giáo dục tư tưởng và bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách cho học sinh vì “Văn là
người”. Nếu như việc giỏi các mơn Tốn, Lý, Hóa để thành cơng thì mơn Văn
giúp chúng ta giàu có về tâm hồn và tư tưởng, nhân cách, việc học môn Văn rất
quan trọng, như Bác Hồ đã nói “Có tài mà khơng có đức thì là người vơ dụng,
có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”; tài trong câu nói này chính là
tài năng, là kiến thức, là hiểu biết, là kĩ năng kĩ xảo, là kinh nghiệm sống để con
người có thể hồn thành cơng việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong
3


những hồn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp; đức chính là đạo đức, là
tư cách tác phong, là lịng nhiệt tình, là những khát vọng chân thiện, mĩ… Người
có đức biết tơn trọng và bảo vệ chân lí, dám đấu tranh với sai lầm, sẵn sàng hi
sinh quyển lợi cá nhân cho quyền lợi của tập thể; ăn, nói và cách ứng xử với mọi
người và thế giới xung quanh một cách văn minh, lịch sự, có văn hóa. Mơn Văn,
ngồi việc luyện tài cịn là mơn học quan trọng nhất bồi đắp nên đạo đức của
mỗi con người. Vì thế dạy Văn chính là dạy để làm người.
Tuy nhiên, gần đây số học sinh khơng thích học mơn văn ngày càng có
chiều hướng gia tăng thể hiện qua việc số lượng học sinh đăng ký thi khối C, D
trong các kỳ thi đại học, cao đẳng ngày càng giảm và hiên tượng học lệch các
môn tự nhiên ngày càng gia tăng. Hiện tượng này không chỉ là kết quả của việc

khó tìm việc sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng tuyển sinh đầu vào
từ khối C mà còn do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa thực sự khoa
học, cuốn hút. Đa số các giáo viên dạy Văn là dạy cho học sinh thấy cái hay, cái
đẹp mà thầy cô hiểu và cảm được từ tác phẩm. Hệ quả là thầy cô trở thành người
đọc hộ, cảm thụ và hiểu hộ học sinh, học sinh chỉ biết ghi chép và học thuộc
những điều thầy cô cho ghi; khi kiểm tra chỉ cần nhắc lại những điều học thuộc
ấy. Điều đó làm cho đa số học sinh trở thành những “con vẹt” một cách bất đắc
dĩ, luôn thụ động trong việc cảm thụ văn học đồng thời thụ động luôn trong cả
suy nghĩ và hành động; biến môn Văn từ một môn học gần gũi với đời sống
thường ngày trở nên xa lạ, khó hiểu và bị xem nhẹ.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Đổi
mới giảng dạy môn Văn ở cấp THPT theo hướng đổi mới giáo dục của Bộ Giáo
dục và Đào tạo” nhằm tìm tịi, thử nghiệm những phương pháp giảng dạy mới,
tích cực hơn, thúc đẩy được sự tham gia, khuyến khích tính tự lập và khả năng
cảm thụ văn học một cách chủ động của học sinh cấp Trung học phổ thông, góp
phần trả lại vị trí vốn có của mơn Văn trong giáo dục nói riêng và trong cuộc
sống hằng ngày của nhân dân nói chung.

4


Phần II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ
1. Cơ sở pháp lý

- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của BCH Trung ương Đảng
Khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
- Điều 5, Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 (Sử đổi năm 2009) Yêu cầu về
phương pháp giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”;
- Thơng tư 30/2009/TT-BGDĐT qui định chuẩn nghề nghiệp giáo viên
(thường gọi là chuẩn nghề nghiệp) có 6 tiêu chuẩn và 25 tiêu chí đã nêu rõ các
phẩm chất và năng lực cần có của giáo viên THCS, THPT. Trong đó, tiêu chuẩn
3, năng lực dạy học được quy định tại Điểu 6 với tiêu chí 11 về vận dụng các
phương pháp dạy học phải “theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng
tạo của học sinh, phát triển năng lực tự học và tư duy của học sinh”;
- Tiểu mục 2.6. của Kế hoạch thực hiện mục tiêu phát triển bền vững lĩnh
vực giáo dục và đào tạo đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 ban hành
kèm theo Quyết định 2161/QĐ-BGDĐT ngày 26/6/2017 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo nêu rõ: “Tăng cường các nội dung giáo dục có tính thực tiễn, sử dụng
phương pháp dạy học tích cực, học qua trải nghiệm/nghiên cứu, học qua các dự
án/tình huống và phương pháp tiếp cận trường học toàn diện”;
- Điểm b, tiểu mục 3, mục I, Chỉ thị số 2919/CT-BGDĐT ngày 10/8/2018
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Nhiệm vụ chủ yếu trong năm học
2018- 2019 của ngành Giáo dục chỉ rõ: “Ban hành chương trình giáo dục phổ
thơng mới; hướng dẫn lựa chọn sách giáo khoa; xây dựng nội dung và tài liệu
giáo dục địa phương; hướng dẫn triển khai thực hiện chương trình giáo dục
phổ thơng mới….”.
5


2. Cơ sở lý luận

- Học sinh THPT là chủ thể, là đối tượng cảm thụ các tác phẩm văn học,
nhưng trong suy nghĩ và thực tế dạy học của một bộ phận thầy, cơ vẫn cịn thiếu

tính sáng tạo, chưa tư duy sâu, do đó phương pháp giảng dạy học sinh chưa phù
hợp. Hầu như chúng ta vẫn coi học sinh là đối tượng chịu sự tác động thụ động;
thầy, cô giáo thường áp đặt cảm nhận của bản thân, giảng dạy theo kiểu nhồi
nhét kiến thức, định hướng học sinh cảm thụ tác phẩm văn học theo cách cảm
thụ của giáo viên; phân tích tình huống nghệ thuật của tác phẩm theo thế giới
quan của giáo viên. Mặc dù động cơ, mục đích giáo dục của thầy cơ giáo là cao
quý và tốt dẹp, song phương pháp chưa phù hợp nên không đem lại hiệu quả
như mong muốn.
- Trang bị kiến thức nói chung và kiến thức về mơn Văn nói riêng là trách
nhiệm của giáo viên và được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà
nước. Dạy văn là dạy làm người, vì thế việc dạy văn khơng chỉ bó hẹp trong việc
cảm thụ, phân tích các tác phẩm văn học mà cịn là việc định hướng cho học
sinh về các sử dụng ngôn ngữ, trau chuốt trong lời ăn tiếng nói, cách hành xử và
đối đáp hàng ngày với gia đình, bạn bè và xã hội,… Vì vậy, dạy Văn khơng chỉ
là trách nhiệm của các giáo viên mơn Văn mà cịn là của tất cả mọi người, trong
đó các giáo viên đóng một vai trị vơ cùng quan trọng và giáo viên dạy văn có
vị trí then chốt mà nếu khơng có phương pháp đúng thì vai trị của giáo viên dạy
văn sẽ trở nên mờ nhạt, đồng nghĩa với việc đánh mất vai trị, vị trí của mơn Văn
trong q trình cạnh tranh xã hội và cuộc sống hàng ngày của nhân dân.
II. GIÁO VIÊN, ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN THPT
VÀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
1. Giáo viên THPT

Theo Điều 70, Luật Giáo dục số 38/2005/QH11: “Nhà giáo là người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác” và “Nhà
giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”.
Nhà giáo có những nhiệm vụ sau đây (Điều 72 Luật giáo dục số 38):
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục;

6


- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ nhà trường;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính
đáng của người học;
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chính trị, chun môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu
gương tốt cho người học;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, giáo viên THPT là những nhà giáo giảng dạy ở các trường
THPT của hệ thống giáo dục Việt Nam. Giáo viên THPT có đầy đủ nhiệm vụ và
quyền hạn của một nhà giáo theo quy định của pháp luật.
2. Đặc điểm lao động nghề nghiệp và năng lực của giáo viên THPT

2.1. Đặc điểm lao động nghề nghiệp của giáo viên THPT
Lao động của người giáo viên cấp THPT trước hết mang đầy đủ các đặc
điểm chung ở tất cả các cấp học, đó là:
Về loại hình lao động: Lao động nghề nghiệp của giáo viên là lao động sư
phạm. Đây là loại hình lao động nghề nghiệp đặc biệt, có tính đa dạng, phong
phú, phức tạp, đa lĩnh vực có tác động đến đối tượng lao động đặc biệt, sử dụng
những công cụ lao động đặc biệt để tạo ra những sản phẩm đặc biệt; có khả năng
kiến tạo nên những sản phẩm khác, kiến tạo nên xã hội và lịch sử loài người.
Loại hình lao động này có thể sử dụng cơng nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả
giảng dạy nhưng không thể sử dụng những dây truyền công nghiệp để tạo ra
hàng loạt sản phẩm có kiểu cách, chất lượng và cơng dụng giống nhau cho xã
hội như các loại hình lao động khác trong thế giới văn minh hiện nay.
Về đối tượng lao động: Đối tượng lao động của người giáo viên là con

người, là thế hệ trẻ đang lớn lên cùng với nhân cách của nó. Đối tượng này
khơng phải là vật vô tri vô giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của
người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ mộc ... mà là một con người rất nhạy
cảm với những tác động của môi trường bên ngồi theo hướng tích cực và cả
hướng ngược lại. Như vậy người giáo viên phải lựa chọn và gia công lại những

7


tác động xã hội và tri thức loài người bằng lao động sư phạm của mình nhằm
hình thành con người đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đối tượng đó vừa là khách thể
vừa là chủ thể của quá trình giáo dục. Tác động đến đối tượng đó khơng phải lúc
nào cũng mang lại hiệu quả như nhau. Hiệu qủa đó cũng khơng tỷ lệ thuận với
số lần tác động. Do đó, trong tay người giáo viên phải có nhiều phương án để tác
động đến đối tượng, không thể rập khn máy móc như lao động khác. Bản thân
đối tượng lao động đã quyết định tính đặc thù của lao động sư phạm của nghề
dạy học.
Về công cụ lao động của người giáo viên: Công cụ lao động của người
giáo viên là tri thức, đạo đức và lao động động sư phạm của người giáo viên.
Trong đó, tri thức là nền tảng quan trọng, đạo đức là tấm gương phản chiếu và
lao động sư phạm là phương tiện truyền tải tri thức từ người giáo viên đến các
đối tượng học sinh, đồng thời cũng nhận lại những phản hồi của học sinh đối với
người giáo viên. Như vậy công cụ lao động của người giáo viên khơng hồn
tồn tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình mà cịn ở trạng thái vơ hình nhưng có
thể cảm nhận được, nghe được, hiểu được và ứng dụng được trong thực tế cuộc
sống. Đạo đức, nhân cách của người giáo viên là một yếu tố vô cùng quan trọng,
nhân cách càng cao, càng hồn hảo thì sản phẩm làm ra càng hồn thiện. Nhân
cách đó bao gồm tâm hồn, tư tưởng, phong cách sống cũng như sinh hoạt cuả
người giáo viên.
Về sản phẩm của lao động sư phạm của người giáo viên: Các loại lao

động khác khi kết thúc qua trình lao động thì thu được sản phẩm. Cịn q trình
lao động của người giáo viên chưa thể kết thúc khi sản phẩm của họ ra đời. Hiệu
quả lao động của người giáo viên sống mãi trong nhân cách của người được học
đào tạo nên lao động sư phạm vừa mang tính tập thể rất sâu, vừa mang dấu ấn cá
nhân rất đậm. Vì vậy nó địi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao và sự am hiểu
nghề nghiệp nhất định. Tính nghề nghiệp là một đòi hỏi, đồng thời cũng tạo ra
điều kiện để cho người giáo viên tự rèn luyện mình. Chính thế nâng cao tồn bộ
phẩm chất của người giáo viên là một yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội như
Mác nói: "Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục". Có điều kiện là một
mặt, mặt khác địi hỏi người giáo viên phải có sự nỗ lực chủ quan trong rèn
luyện. Điều kiện "hoàn cảnh" ở đây do bản thân nghề nghiệp và xã hội tạo ra. Vì
vậy, để làm trịn trách nhiệm với xã hội, một mặt đòi hỏi người giáo viên phải
rèn luyện nhân cách, mặt khác cũng phải quan tâm tạo điều kiệnt huận lợi để cho
8


người giáo viên tự rèn luyện mình thành người có đầy đủ nhân cách để cống
hiến công sức một cách xứng đáng.
Bên cạnh đó, đặc điểm lao động của người giáo viên cấp THPT cũng có
những đặc điểm mang tính riêng biệt mang tính đặc thù của cấp học và lứa tuổi
học sinh, đó là:
Về đối tượng lao động: Đối tượng lao động của người giáo viên THPT
vẫn là con người nhưng ở đây là những con người đang ở độ tuổi vị thành niên.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) quy định lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị
thành niên, đây là lứa tuổi có những thay đổi lớn về mặt sinh học và tâm lý. Với
những đặc điểm sinh lý riêng biệt, trẻ muốn khẳng định mình nên dễ thay đổi
tính cách, hành vi ứng xử; bắt đầu có xu hướng tách ra, ít phụ thuộc vào cha
mẹ; chuyển từ sinh hoạt gia đình sang sinh hoạt bạn bè, tín ngưỡng để đạt được
sự độc lập; cố gắng khẳng định mình như một người lớn vì vậy có những hành
vi bắt chước người lớn; có những mối quan tâm về tình cảm, trau chuốt hình

thức bên ngồi; tích hợp những thơng tin thu thập được từ cha mẹ, nhà trường,
xã hội, bạn bè, người trung gian, các hoạt động văn hóa là cơ sở để tạo ra giá trị
của bản thân tạo niềm tự tin và cách ứng xử; thích lập luận, suy diễn nhìn sự vật
theo quan điểm lý tưởng hóa. Giai đoạn phát triển đặc biệt này chịu ảnh hưởng
rất mạnh mẽ của các điều kiện văn hóa, giáo dục, kinh tế của nhà trường, gia
đình và xã hội. Chính vì thế giáo viên THPT có ảnh hưởng rất sâu đậm đến quá
trình hình thành nhân cách, gu thẩm mỹ, tình cảm và khả năng thích nghi với xã
hội của học sinh. Nó hồn tồn khác với đối tượng học sinh ở các cấp học khác
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Về công cụ lao động của người giáo viên THPT: Nếu như ở các cấp học
thấp hơn, công cụ quan trọng nhất của người giáo viên là lao động sư phạm mà
cụ thể là phương pháp giảng dạy thì ở cấp học này, công cụ quan trọng nhất của
người giáo viên phải là tri thức. THPT là cấp học cuối cùng trong hệ thống giáo
dục phổ thơng nước ta; nó địi hỏi sau khi kết thúc cấp học này, mỗi học sinh
phải là một cơng dân thực sự, có khả năng tự lao động, sản xuất để nuôi sống
bản thân và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, tri thức là thứ
cần thiết nhất, để có thể truyền thụ tri thức cần thiết cho học sinh, người giáo
viên THPT cần phải có nền tảng kiến thức đủ lớn, có khả năng phân hóa và
hướng nghiệp cho các đối tượng học sinh, từ đó có cách truyền thụ khác nhau
cho phù hợp. Nói như vậy khơng có nghĩa là coi nhẹ đạo đức, nhân cách của
9


người giáo viên đối với cấp học THPT. Bác Hồ đã từng nói: “Có tài mà khơng
có đức là người vơ dụng”, điều đó cho thấy đạo đức, nhân cách của con người là
phẩm chất vô cùng quý giá, để có thể xây dựng được xã hội nhân văn, cần phải
có những con người nhân văn và những học sinh THPT đó sẽ trở thành con
người nhân văn, có đức, có tài hay ngược lại phụ thuộc rất nhiều “cơng cụ lao
động” mà người giáo viên THPT sử dụng trong quá trình lao động của mình.
Về sản phẩm của lao động sư phạm của người giáo viên THPT: Sản phẩm

của giáo viên THPT là sản phẩm cuối cùng của hệ thống giáo dục phổ thông,
đây là cấp học cung cấp cho xã hội “nguyên liệu đầu vào” để xây dựng xã hội.
Xã hội tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều vào nguồn “ngun liệu” này. Nó hồn
tồn khác với các cấp học khác. Nếu như các cấp học thấp hơn, học sinh đang ở
dạng “nguyên liệu thô” hay nguyên liệu mới qua “sơ chế”, thì ở cấp THPT cọc
sinh đã trở thành “nguyên liệu tinh” để cung cấp cho việc kiến thiết, xây dựng
xã hội sau và cấp học cao hơn chính là biến học sinh từ dạng “nguyên liệu”
thành “sản phẩm” một cách hồn chỉnh. Đặc điểm này địi hỏi người giáo viên
THPT phải đủ tầm, đủ tâm để chính sửa những chỗ “sai” của các cấp học thấp
hơn và bổ khuyết những chỗ “sót” của học sinh nhằm có được những con người
xứng đáng làm chủ đất nước.
2.2. Năng lực người giáo viên THPT
Trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đòi hỏi tất cả các nước, các ngành nghề, các lĩnh vực đều phải đổi mới
mạnh mẽ để đáp ứng và theo kịp sự phát triển này. Vấn đề quan trọng và quyết
định để thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đó là nhân tố con người,
nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ chun mơn sâu sắc, trình độ khoa
học cơng nghệ cao địi hỏi giáo dục và đào tạo. Chính vì thế, người giáo viên
hiện nay không chỉ là người cung cấp thông tin và truyền thụ kiến thức, mà còn
là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập của học sinh. Từ những thay đổi
về vai trị, vị trí của người học và người dạy trong những hồn cảnh biến đổi
nhanh, phức tạp địi hỏi người giáo viên phải được trang bị không chỉ kiến thức
chun mơn mà cịn phải nâng cao năng lực sư phạm, khả năng nắm bắt cơ hội,
khả năng tìm tòi và phát triển các phương pháp giảng dạy,…. Cụ thể:
Về năng lực chuyên môn: Giáo viên không chỉ đảm bảo kiến thức đầy đủ,
sâu sắc của một hoặc một số mơn học chính đã được đào tạo mà cịn phải đảm

10



bảo kiến thức chuyên môn của tất cả các môn học khác trong chương trình phổ
thơng ở mức cơ bản nhất. Giáo viên phải đảm bảo chuẩn nghề nghiệp về năng
lực dạy học (Xây dựng kế hoạch dạy học; Đảm bảo kiến thức mơn học; Đảm
bảo chương trình mơn học; Vận dụng các phương pháp dạy học; Xây dựng môi
trường học tập; Sử dụng các phương tiện dạy học; Quản lý hồ sơ dạy học; Kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh); trong đó nhấn mạnh đến việc đổi
mới phương pháp giảng dạy của thầy; đổi mới phương pháp học của trò;…
Về năng lực phương pháp luận: Tìm kiếm phương pháp làm việc, giảng
dạy linh hoạt, hiệu quả; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
Về năng lực hợp tác: Năng lực giao tiếp thành công bằng ngôn ngữ, ngoại
ngữ, phương tiện kỹ thuật xuyên suốt chương trình giáo dục; năng lực cơng
nghệ, thơng tin.
Về năng lực giáo dục học sinh: Các kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm trong đó
nhấn mạnh đến giáo dục kỹ năng sống, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống, truyền thống văn hóa cho học sinh; tổ chức các hoạt động trải nghiệm
sáng tạo cho học sinh; Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục; Giáo dục qua
môn học; Giáo dục qua các hoạt động giáo dục; Giáo dục qua các hoạt động
trong cộng đồng; Vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức
giáo dục; Đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh.
Về năng lực xây dựng và phát triển chương trình mơn học, chương trình
nhà trường: Đây là một năng lực mới nhưng cần thiết phải có khi mà tốc độ già
hóa tri thức ngày càng nhanh, tri thức khoa học mới được phát hiện ngày càng
nhiều nên đòi hỏi giáo viên phải có năng lực phát triển chương trình mơn học tốt
thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục.
Về năng lực hoạt động chính trị, xã hội: Phối hợp với gia đình học sinh và
cộng đồng; Tham gia hoạt động chính trị, xã hội.
Về năng lực phát triển nghề nghiệp: Tự đánh giá, tự học và tự rèn luyện;
Phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn giáo dục.
Về năng lực nghiên cứu khoa học (nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng): Qua nghiên cứu về hoạt động NCKH của giáo viên phổ thông, nhận thấy

năng lực NCKH là năng lực cần thiết của người giáo viên THPT, đặc biệt trong
giai đoạn giáo dục hiện nay; giữa NCKH và năng lực sư phạm; giữa hoạt động

11


NCKH và hoạt động chuyên môn của người giáo viên có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
3. Đổi mới phương pháp giáo dục

Đổi mới giáo dục đang được toàn xã hội quan tâm trong đó, đổi mới
phương pháp là một khâu rất quan trọng trong đổi mới giáo dục phổ thông theo
hướng hiện đại. Đổi mới phương pháp giáo dục là nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức trong dạy và học; tập trung dạy cách
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và đổi mới
tri thức, kĩ năng và phát triển năng lực bản thân.
Đổi mới phương pháp giảng dạy cũng như việc đổi mới các vấn đề khác,
lĩnh vực khác trong xã hội, thực chất đây là một quy luật chung của sự phát
triển. Đổi mới phương pháp giáo dục không phải là tạo ra một phương pháp mới
khác với phương pháp cũ đã có, để loại trừ phương pháp cũ. Sự phát triển hay
một cuộc cách mạng trong khoa học giáo dục thực chất là tạo được một tiền đề
để cho những nhân tố tích cực của cái cũ vẫn có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn.
Đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn, tốt hơn cái đã có để đáp ứng được đòi hỏi
của sự tiến bộ trong giáo dục.
Nếu phương pháp dạy học cũ có một ưu điểm lớn là phát huy trí nhớ,
tập cho học sinh làm theo một điều nào đó, thì phương pháp mới vẫn cần những
ưu điểm trên. Song cái khác căn bản ở đây là phương pháp giảng dạy cũ đã phần
nhiều "bỏ quên học sinh". Nên bình thường, học sinh bị động trong tiếp nhận.
Còn phương pháp giảng dạy mới phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh. Phát huy tính tích cực của học sinh thơng qua hàng loạt các tác

động của giáo viên là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Khi nói đến tính
tích cực, chúng ta quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy sinh từ
phía học sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của sự hoạt động. Nhờ
phát huy được tính tích cực mà học sinh khơng cịn bị thụ động. Học sinh trở
thành các cá nhân trong một tập thể mang khát vọng được khám phá, hiểu biết.
Để đổi mới phương pháp giáo dục, trong một bài học, tiết học người giáo
viên phải làm cho những học sinh học tốt nhất được thoả mãn nhu cầu tri thức,
đồng thời những học sinh học yếu nhất cũng thấy lý thú, bổ ích và chủ động
tham gia vào quá trình tìm hiểu bài học mà người giáo viên đang trình bày. Điều
này là đặc biệt cần thiết, vì học sinh sẽ hào hứng để đi tìm tri thức chứ không
12


còn bị động, bị nhồi nhét nữa. Như vậy, nguyện vọng hành động thế này hay thế
khác là kết quả của bản thân mỗi thành viên trong lớp học mà không phải là
mong muốn riêng của giáo viên hay mong muỗn chung của chúng ta.
III. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG DẠY VÀ HỌC
MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV THỜI GIAN QUA
1. Tồn tại

Phương pháp dạy các mơn học nói chung và mơn Văn nói riêng trong nhà
trường nhìn chung chưa mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều
vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường
xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học nhằm
phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều.
Hoạt động kiểm tra đánh giá chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức,
cách cảm thụ các tác phẩm văn học đã được giáo viên truyền đạt từ trước và
đánh giá qua điểm số. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học
sinh duy trì dạy học theo lối "đọc-chép" thuần túy, học sinh học tập thiên về ghi
nhớ. Mỗi học sinh giống như một bộ nhớ di động, được giáo viên sử dụng để ghi

những thơng tin, câu văn, những dịng cảm xúc văn chương,… mà giáo viên cho
là cần thiết lên đó.
Một số giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên soạn đề kiểm tra nên
các bài kiểm tra cịn nặng tính chủ quan của người dạy. Hoạt động kiểm tra đánh
giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp chưa được quan tâm
thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Các hoạt động kiểm tra bài, đánh giá
định kỳ, đánh giá diện rộng quốc gia còn ít được tổ chức và chưa thật sự đồng
bộ hiệu quả.
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là không chỉ giáo viên ít quan tâm đến
cảm nhận của học sinh mà chính bản thân học sinh cũng ít quan tâm đến cảm
xúc, cảm nhận của mìn đối với tác phẩm văn học, khơng chủ động để tìm hiểu
xem tác phẩm văn học đó hay ở đâu, tại sao lại hay, ít quan tâm vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống hàng ngày và có nguy cơ làm chai lỳ cảm xúc, biến
học sinh trở thành một cái máy vơ cảm hoặc trở thành những con người ít có
tâm hồn. khơng rèn luyện được tính trung thực trong thi cử, kiểm tra; nhiều học
sinh phổ thơng cịn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực

13


vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống cịn
hạn chế.
Việc sử dụng các phương pháp giảng dạy cũ, chưa thực sự khoa học trong
thời gian qua khơng khuyến khích được tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Vì
vậy, kết quả học tập môn Văn của học sinh trong 03 năm học từ 2012 – 2015
tương đối thấp. Kết quả được tổng hợp tại bảng 01.
Bảng 01. Kết quả xếp loại học lực môn Văn từ năm 2012 – 2015
Năm học

Tổng

số
HS

Xếp loại học lực môn Văn
Loại yếu
SL

Loại TB

%

SL

%

Loại khá
SL

%

Loại giỏi
SL

%

2012-2013

1.300

65


5

585

45

520

40

130

10

2013-2014

1.358

68

5

611

45

543

40


136

10

2014-2015

1.329

93

7

625

47

505

38

106

8

Qua bảng 01 ta thấy, từ năm học 2012 – 2013, 2013 – 2014 đến năm học
2014-2015 tỷ lệ học sinh học lực yếu môn Văn đã tăng từ 5% lên 7%; tỷ lệ học
sinh học lực trung bình tăng từ 45% lên 47; đồng thời tỷ lệ học sinh khá, giỏi
giảm tương ứng từ 40% xuống còn 38% và từ 10% xuống còn 8%.
Như vậy, rõ ràng là phương pháp giangr dạy thiếu tính khoa học, biến học

sinh từ thể chủ động thành thể thụ động trong tiếp thu, cảm nhận các tác phẩm
văn học ngày càng bộc lộ khuyết điểm, làm giảm hiệu quả truyền thụ kiến thức,
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục mà cụ thể là ảnh hưởng đến học lực môn
Văn của học sinh trong nhà trường.
2. Nguyên nhân

Thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể chỉ ra
một số nguyên nhân cơ bản sau:
2.1. Nguyên nhân khách quan
Có rất nhiều yếu tố khách quan tác động đến phương pháp giảng dạy của
giáo viên THPT, song có thể nhóm lại thành 03 yếu tố tỏng quát như sau:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nội quy, quy chế, hướng dẫn hoạt
động dạy và học ở địa phương và nhà trường: Đây là các văn bản Luật, Nghị
định, các Thông tư hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo; các định hướng, chỉ
14


đạo; hướng dẫn về chương trình học, cải cách giáo dục, giáo án, viết sáng kiến
kinh nghiệm của các Sở Giáo dục và Đào tạo cũng như các quy chế (ví dụ như:
Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế thi đua,…) của nhà trường đối với công tác
giảng dạy cùa giáo viên chưa thực sự khuyến khích, tạo điều kiện cho hoạt động
đổi mới phương pháp giáo dục.
- Các nguồn lực phục vụ cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá trong nhà trường vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ: Nguồn lực xã
hội đầu tiên là kinh phí cho việc thực hiện các hoạt động dạy và học, đổi mới
phương pháp giáo dục, nội dung môn học, tiếp đến là cơ sở vật chất kĩ thuật,
thông tin, tài liệu, hiết bị dạy học, hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông, ..
Đây là những yếu tố có vai trị quan trọng đặc biệt có thể thúc đẩy hoạt động dạy
và học hoặc ngược lại. Thực tế cho thấy thời gian và khối lượng kiến thức dạy
và học trên lớp nhiều, yêu cầu về chất lượng giáo dục ngày càng cao, nhiều môn

học, song nhu cầu của mỗi học sinh về các môn học khác nhau lại khác nhau
khiến cho giáo viên gặp khó khăn trong công tác giảng dạy; điều kiện cơ sở vật
chất, kỹ thuật, tài liệu hỗ trợ cho hoạt động giảng dạy của giáo viên trong nhà
trường rất hạn chế; kinh phí cho hoạt động ngoại khóa, thăm viếng các cơ sở văn
hóa, các cơ quan làm cơng tác văn hóa, sáng tác văn học gần như khơng có;
cơng tác xã hội hóa, huy động nguồn kinh phí hỗ trợ khơng thực hiện được; cơ
chế động viên, khen thưởng cũng còn nhiều bất cập.
- Sự phối hợp giữa trường THPT Hoằng Hóa IV với các trường THPT
khác trên địa bàn và với các cơ quan chun mơn có vai trị xúc tác đối với hoạt
động dạy và học; thông qua giao lưu, phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm giáo viên
phát hiện ra các vấn đề cần quan tâm, phân tích sâu hơn hoặc tìm ra phương
pháp truyền thụ kiến thức mới hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong thời gian qua công
tác này còn rất hạn chế, kém hiệu quả, chưa tận dụng được kinh nghiệm của các
trường khác, chưa phát huy được khả năng của các giáo viên và học sinh đối với
việc dạy và học môn Văn trong nhà trường.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên về phương pháp giảng dạy:
Để công tác giảng dạy của giáo viên thực sự có hiệu quả thì trước hết Hiệu
trưởng cùng cán bộ quản lý phải có nhận thức được đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc
về vai trò, ý nghĩa, hiệu quả của phương pháp giảng dạy. Trên cơ sở đó tuyên

15


truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý, giáo viên về lợi ích của việc tìm
tịi, đổi mới phương pháp giảng dạy, về mối quan hệ giữa phương pháp giảng
dạy và hiệu quả truyền đạt kiến thức của giáo viên, khả năng tiếp thu của học
sinh. Song, những năm qua, nhận thức về sự cần thiết phải đổi mới phương
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và ý thức thực hiện đổi mới của một số cán bộ
quản lý và giáo viên giảng dạy môn Văn trong nhà trường chưa cao.

- Lý luận về phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giảng dạy
các môn học nói chung và mơn Văn nói riêng trong nhà trường chưa được
nghiên cứu và vận dụng một cách có hệ thống; cịn tình trạng vận dụng lý luận
một cách chắp vá nên chưa tạo ra sự đồng bộ, hiệu quả; các hình thức tổ chức
hoạt động dạy học, giáo dục cịn nghèo nàn.
- Việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin - truyền thông, sử dụng các phương
tiện dạy học, các hoạt động ngoại khóa, thăm các cơ sở văn hóa và nói chuyện
về đề tài văn học chưa được thực hiện rộng rãi và ít hiệu quả trong các trường
trung học phổ thơng.
- Một số giáo viên cịn chưa chủ động trong nghiên cứu, tìm tịi, năng lực
cịn một số hạn chế, nhất là năng lực lựa chọn vấn đề trong giảng dạy; kỹ năng
xác định đối tượng phân tích, tìm hiểu; kỹ năng xây dựng giáo án, kỹ năng lựa
chọn, phối hợp vận dụng các phương pháp giảng dạy và phân tích tình huống;
năng lực thực hiện sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học và năng lực hướng dẫn,
định hướng cho học sinh, gồm: gợi ý, hướng dẫn học sinh đề xuất ý tưởng mới;
tư vấn và định hướng cho học sinh trong quá trình học tập,… chưa đáp ứng được
đòi hỏi của thực tế giảng dạy trong nhà trường.
IV. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP GIẢNG DẠY MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HĨA IV
1. Các giải pháp đổi mới giảng dạy mơn Văn ở cấp THPT theo hướng
đổi mới giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo

Trước tình hình thực tế việc dạy và học mơn Văn trong nhà trường có xu
thế đi xuống, ngày càng thiếu sức cuốn hút, chất lượng giáo dục có biểu hiện
ngày càng kém. Nhà trường đã chỉ đạo giáo viên mơn Văn nói riêng và giáo
viên trong nhà trường nói chung phải tích cực học tập, nghiên cứ, tìm tịi để đổi
mới phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới của bộ Giáo dục và Đào tạo
nhằm từng bước vực dậy những thành công đã có của nhà nhà trường trong cơng
16



tác giáo dục và nâng cao hiệu quả giảng dạy, tăng cường khả năng chủ động tiếp
thu kiến thức của học sinh trong những năm học tới.
Với nhận thức rõ ràng rằng: Muốn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo nói chung và đổi mới phương pháp dạy mơn Văn nói riêng thì người
giáo viên chính là yếu tố quyết định hàng đầu. Giáo viên ở bất cứ trường hợp
nào cũng đều phải hội đủ các điều kiện về kiến thức, khả năng giảng dạy hữu
hiệu, lòng nhiệt thành và sự thân mật. Bên cạnh đó giáo viên phải có kỹ năng tổ
chức hướng dẫn học sinh trong lớp học và trong các cuộc sinh hoạt ngoại khóa,
có kỹ năng sử dụng đồ dùng và thiết bị dạy học, có năng lực tự thu thập thơng
tin và cứ liệu để phục vụ yêu cầu dạy học.
Trên cơ sở các chính sách của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước,
các hướng dẫn của Bộ, ngành Giáo dục và Đào tạo, định hướng của nhà trường
và ý thức, trách nhiệm của người giáo viên, tôi đã đăng ký thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm “Đổi mới giảng dạy môn Văn ở cấp THPT theo hướng đổi mới
giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo” với những nội dung cụ thể như sau:
1.1. Tăng cường học tập nâng cao kiến thức và và chia sẻ kinh
nghiệm
Yếu tố đầu tiên để có thể đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và
giảng dạy mơn Văn nói riêng đó là kiến thức của người giáo viên. Để thực hiện
giải pháp này, bản thân tôi đã tham mưu chỉ đạo giáo viên bộ mơn và trực tiếp
tham gia đầy đủ các khóa tập huấn về đổi mới chương trình đào tạo, đổi mới
phương pháp giảng dạy, cập nhật kiến thức,… của ngành Giáo dục và Đào tạo
các cấp tổ chức. Tự tìm tòi, học hỏi từ các tài liệu liên quan đến kiến thức
chuyên môn cũng như các kiến thức về văn hóa, xã hội, lịch sử nhằm mở rộng
hiểu biết, nâng cao kiến thức sư phạm về các đề tài, tác phẩm văn học được
giảng dạy trong nhà trường để truyền tải những kiến thức đó vào chương trình
giảng dạy, vào bài soạn; để mỗi giáo viên đều có lối trình bày giản dị, sáng tỏ, áp
dụng vào bài làm, vào bài ôn tập, vào sự đánh giá cũng như các hoạt động khác
của việc giảng dạy.

Song song với học tập nâng cao trình độ chun mơn là việc thường
xun tổ chức và tham gia các cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa các đồng nghiệp trong
nhà trường cũng như đồng nghiệp ở các trường khác về nội dung giảng dạy, chia
sẻ kinh nghiệm trong việc soạn giáo án, tổ chức lớp học, giải quyết vấn đề phát
sinh trong giờ học; chia sẻ phương pháp lựa chọn và nêu vấn đề phân tích, định
17


hướng thảo luận và đánh giá học sinh, khuyến khích sự tham gia một cách chủ
động, nhiệt tình của học sinh; khuyến khích việc trình bày ý kiến, quan điểm,
cách nhìn và suy nghĩ của học sinh về những vấn đề trong tác phẩm,… để áp
dụng trong các giờ lên lớp và các kỳ sinh hoạt ngoại khóa.
1.2. Tăng cường kiểm tra giáo án
Định kỳ mỗi tuần kiểm tra giáo án một lần, nội dung kiểm tra bao gồm:
Việc xác định mục tiêu bài giảng, nội dung bài giản, phương tiện và hình thức
dạy học được áp dụng, hình thức tổ chức và phương thức đánh giá học sinh.
Yêu cầu đối với giáo án của nỗi bài giảng là: Xác định rõ mục tiêu, lý
thuyết phải gắn với thực hành; mỗi bài học, tiết học đều phải có phần thảo luận,
liên hệ với thực tiễn; khuyến khích khả năng vận dụng tình huống văn học vào
cuộc sống hoặc để phát triển tác phẩm theo hướng riêng của mỗi học sinh; kế
hoạch sử dụng học liệu, tài liệu, phương tiện giảng dạy trong bài học, tiết học.
1.3. Tăng cường dự giờ, kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy
Xây dựng kế hoạch dự giờ, theo đó mỗi tháng thực hiện việc dự giờ, đánh
giá chất lượng giảng dạy của mỗi giáo viên ít nhất 01 lần. Căn cứ để đánh giá
chất lượng giờ giảng bài của giáo viên là: Mức độ nắm vững kiến thức bài giảng
của giáo viên và học sinh; kỹ năng cần truyền đạt, dẫn dắt học sinh đi theo diễn
biến của tác phẩm văn học, từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều; kỹ năng phân tích vấn
đề, khả năng tiếp thu, diễn đạt, tổ chức xử lý thông tin của giáo viên và học sinh.
Bên cạnh đó là việc dạy cách học, phát huy tính chủ động của học sinh.
Giáo viên phải phải chủ động và có sáng kiến để: Làm cho học sinh biết tự học,

tự vận dụng, luôn liên hệ với thực tiễn và mở rộng kiến thức, làm cho học sinh
biết hợp tác và chia sẻ, tận dụng sự hỗ trợ của phương tiện dạy học, tôn trọng ý
kiến khác biệt của học sinh, khuyến khích sự khám phá và khai phá trong học
thuật và cuối cùng là giáo viên cần phải có phong cách độc lập, sáng tạo, linh
hoạt trong giảng dạy, biết mềm hóa tư duy và tùy cơ ứng biến để tạo ra những
tiết học, bài học thực sự lý thú, bổ ích khơng chỉ những học sinh khá giỏi mà cả
học sinh yếu kém cũng phải cảm nhận được.
1.4. Bổ sung thiết bị dạy học và học liệu
Nhà trường khuyến khích việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy và
học Để thúc đẩy việc sử dụng thiết bị dạy học và học liệu vào các tiết học, bài

18


học; nhà trường đã kiểm tra và trang bị hệ thống máy tính tương đối đồng bộ, bổ
sung máy chiếu và các thiết bị liên quan đảm bảo đủ khả năng đáp ứng cho các
giờ lên lớp của giáo viên, bổ sung hàng trăm đầu sách tham khảo, bổ sung nhiều
tác phẩm văn học, đầu báo, tạp chí gắn liền với tuổi học trò,… Đồng thời mở
cửa thư viện trường liên tục trong tất cả các buổi học để đáp ứng nhu cầu tìm tài
liệu, mở rộng kiến thức của giáo viên và học sinh. Ngoài ra, thời gian quan nhà
trường cịn khuyến khích giáo viên và học sinh tự thiết kế bài giảng, dụng cụ
học tập và đóng góp tài liệu tham khảo để bổ sung thiết bị dạy và học trong nhà
trường, từ đó phát huy được tính sáng tạo, ni dưỡng tình u đối với lao động,
u văn học và gắn bó với nhà trường.
1.5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa và nói chuyện chuyên đề
Để đổi mới sâu rộng phương pháp giáo dục, đặc biệt là phương pháp
giảng dạy môn Văn, nhà trường giao cho Tổ Văn xây dựng kế hoạch ngoại khóa
và tổ chức các diễn đàn dân chủ cho học sinh.
Theo đó, mỗi giai đoạn văn học phải có ít nhất 01 buổi ngoại khóa để học
sinh được tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn về bối cảnh lịch sử, các tác phẩm tiêu biểu

của từng thời kỳ và tiếp cận với việc ứng dụng tình tiết văn học, các biện pháp
nghệ thuật vào cuộc sống, bài kiểm tra và trong sáng tác của mỗi học sinh.
Hoạt động ngoại khóa cịn là dịp để các giáo viên và học sinh được đến
tham quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh để tìm hiểu về cuộc đời, sự
nghiệp của các danh nhân, cảm nhận được vẻ đẹp của q hương từ đó ni
dưỡng và phát triển tình yêu quê hương đất nước, làm giàu thêm tâm hồn và
nuôi dưỡng ước mơ cho các thế hệ học sinh.
1.6. Phát huy vai trò của gia đình trong vấn đề giáo dục học sinh
Xuất phát từ nhận thức việc học tập nói chung và học văn nói riêng của
học sinh có sự gắn bó mật thiết với phẩm chất đạo đức và ý thức của học sinh.
Vì thế muốn học sinh học tốt cần phải giáo dục học sinh một cách tồn diện,
trong đó chú trọng cơng tác giáo dục tính tự lập, tự giác, chủ động học tập mọi
lúc, mọi nơi.
Chính vì vậy, nhà trường rất chú trọng sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà
trường, gia đình và xã hội, trong đó gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc
đốc thúc, nhắc nhở con em mình chủ động trong việc tự học trong thời gian ở

19


nhà. Ban đại diện hội cha mẹ học sinh được phân cơng theo dõi tình hình học
sinh ở các xã, phản ánh kịp thời cho nhà trường đồng thời đây cũng là cơ sở để
nhà trường có điều kiện nhắc nhở việc học tập của học sinh thông qua các kì họp
phụ huynh và thơng qua sổ liên lạc. Chính từ những việc làm này mà trong các
năm học qua, chất lượng giáo dục đạo đức của nhà trường được nâng lên rõ rệt
qua từng năm học, tỉ lệ học sinh yếu kém ngày càng giảm, học sinh khá, tốt về
đạo đức ngày càng tăng.
1.7. Thực hiện tốt quy chế khen thưởng
Khen thưởng là hình thức biểu hiện sự đánh giá tốt đẹp tích cực của xã
hội đối với thành tích của mỗi giáo viên, tập thể giáo viên, học sinh hoặc tập thể

học sinh. Người được khen thưởng sẽ cảm thấy hài lịng tin tưởng, phấn khởi, do
đó để thúc đẩy việc tích cực nghiên cứu, tìm tịi đổi mới phương pháp giảng dạy
của giáo viên, nhà trường đã xây dựng quy chế khen thưởng đối với những giáo
viên có thành tích trong cơng tác đổi mới phương pháp giáo dục, có nhiều sáng
kiến và có học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi hoặc có nhiều học
sinh đỗ vào các trường đại học trong kỳ thi quốc gia. Các hình thức khen thưởng
bao gồm: Tuyên dương, giấy khen, bằng khen của các cấp, các danh hiệu lao
động và tăng lương trước thời hạn. Song song với khen thưởng là kỷ luật. Kỷ
luật là biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Tiến hành kỷ luật của nhà
trường đều căn cứ vào điều lệ trường THPT do Bộ Giáo dục quy định, được làm
từ tổ lên đến nhà trường đối với các hành vi cản trở, chây ỳ và phá hoại phong
trào đổi mới giáo dục trong nhà trường.
Trong những năm qua, nhà trường đã giành nhiều kinh phí phục vụ cho
khen thưởng để động viên, khuyến khích phong trào đổi mới giáo dục, do đó
chất lượng giáo dục mơn Văn nói riêng và chất lượng giáo dục của nhà trường
nói chung ngày một nâng cao.
2. Kết quả sau ba năm thực hiện

Với việc thực hiện các giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy nói
chung và giảng dạy mơn Văn nói riêng, từ năm học 2015 – 2016 đến năm học
2017 - 2018, học lực môn Văn của học sinh trường THPT Hoằng Hóa IV đã
được nâng lên rõ rệt, thể hiện ở tỷ lệ học sinh yếu và trung bình giảm, trong khi
tỷ lệ học sinh có học lực khá và giỏi tăng liên tục theo từng năm học. Chi tiết
được tổng hợp tại bảng 02.
20


Bảng 02. Kết quả xếp loại học lực môn Văn từ năm 2015 – 2018
Xếp Loại hạnh kiểm
Loại TB

Loại khá
SL
% SL
%

Năm học

Tổng số
HS

2015-2016

1.350

54

4

608

45

553

41

203

15


2016-2017

1.360

41

3

367

27

680

50

272

20

2017-2018

1.354

27

2

230


17

718

53

406

30

Loại yếu
SL
%

Loại giỏi
SL
%

Qua bảng 02 ta thấy tỷ lệ học sinh có học lực mơn Văn ở mức yếu giảm
nhanh so với năm học 2014-2015, từ 7% xuống còn 4% vào năm 2015-2016 và
chỉ còn 2% vào năm 2017 – 2018, tỷ lệ học sinh trung bình giảm tới 18% trong
năm học 2015-2016 xuống còn 27% vào năm học 2016-2017 và giảm tiếp 10%
xuống còn 17% vào năm học 2017-2018; trong khi đó tỷ lệ học sinh khá, giỏi
cũng tăng lên qua các năm học, đáng chú ý nhất là năm học 2017-2018 có tới
30% học sinh có học lực giỏi môn Văn. Đây là một kết quả hết sức đáng khích
lệ của việc đổi mới phương pháp giảng dạy với mục tiêu lấy học sinh làm trung
tâm trong dạy và học môn Văn tại trường THPT Hoằng Hóa IV.

21



Phần III
KẾT LUẬN
Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định “giáo
dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu
từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học;
học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải
gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Trọng tâm là “... đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục đạo tạo phát triển nguồn nhân lực, phấn đấu trong những năm
tới, tạo ra chuyển biến căn bản, mạnh mẽ chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo
làm cho giáo dục đào tạo thật sự là quốc sách hàng đầu, đáp ứng ngày càng tốt
hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân, là yêu
cầu bức thiết của toàn xã hội, yêu cầu của hội nhập quốc tế trong kỷ ngun tồn
cầu hóa”.
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo là một nhu cầu không chỉ của xã
hội ngày nay mà còn là nhu cầu bức thiết đối với các trường học trên cả nước, có
tác động mạnh mẽ đến chất lượng giáo dục và đào tạo của các cấp học, trong đó
có cấp học THPT. Trong rất nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
thì đổi mới phương pháp dạy học được xem là khâu vô cùng quan trọng hiện nay
và đã được trường THPT Hoằng Hóa IV triển khai mạnh mẽ, quyết liệt trong
nhà trường.
Việc áp dụng các phương pháp của sáng kiến kinh nghiệm trên đã đem lại
hiệu quả thiết thực: 100% học sinh tốt nghiệp, 70% học sinh hàng năm đỗ vào
các đại học. Các kỳ thi học sinh giỏi, nhà trường ln đứng trong tốp 10 trường
có điểm cao của cả tỉnh, được lãnh đạo Sở và các trường bạn đánh giá cao, là
một trong những điển hình về công tác giáo dục, đào tạo của ngành Giáo dục và
Đào tạo tỉnh Thanh Hóa.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục văn hóa mà cụ thể là việc
tiếp thu kiến thức môn Văn là việc giảm nhanh các tệ nạn xã hội. Trong 03 năm

học qua trong nhà trường khơng cịn hiện tượng đánh bài, bỏ học giữa giờ; hiện
tượng gây gỗ đánh nhau giảm hẳn, khơng có học sinh sa vào các tệ nạn xã hội.
Quan hệ thầy trị gần gũi, thân mật, bầu khơng khí dân chủ mở rộng, ý thức tự
22


giác của học sinh được nâng lên học sinh gắn bó với trường lớp, khn viên
quang cảnh nhà trường càng trở nên khang trang. Trường luôn xanh – sạch – đẹp
do ý thức giữ gìn, vệ sinh và bảo vệ cây xanh của học sinh được nâng cao.
Chất lượng giáo dục mọi mặt của nhà trường ngày càng tiến bộ, tạo niềm
tin cho lãnh đạo huyện, Sở và đã được cấp trên ghi nhận bằng việc xem xét trao
tặng Huân chương lao động hạng II nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập trường
THPT Hoằng Hóa IV vào năm 2020, đặc biệt là niềm tin cho nhân đân 11 xã
vùng Đơng - Nam của huyện Hoằng Hóa.
Có được kết quả này là sự nổ lực vươn lên của thầy và trị là sự quyết liệt
trong chỉ đạo cơng tác đổi mới phương pháp giáo dục, sự thường xuyên, kiên trì
trong công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng giảng dạy; sự khen
thưởng kịp thời, kỷ luật đúng người, đúng việc; sự phối hợp đồng bộ các tổ bộ
môn và các tổ chức trong nhà trường, gia đình và xã hội.
Sự thành cơng này cịn là sự ghi nhận về vai trị, nhân cách của thầy, cơ
giáo trường THPT Hoằng Hóa IV với lịng u nghề, mến trẻ và ln đặt mục
tiêu phấn đấu “Tất cả vì học sinh thân yêu”./.
Hoằng Hóa, ngày

tháng

năm 2019

NGƯỜI THỰC HIỆN


Đặng Thị Hà

23



×