Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.81 KB, 88 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
phòng

bộ quốc

Học viện chính trị quân sự



Nguyễn văn lan

Phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học
của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trờng sĩ quan Lục quân II hiện nay

Luận văn thạc sĩ triết học


2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

4
BẢN CHẤT PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO BẬC



ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2
1.1 Khái niệm và vai trò phát triển năng lực nghiên cứu khoa

8

học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan
Lục qn 2
1.2 Một số vấn đề có tính quy luật về phát triển năng lực

8

nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Chương 2

Trường Sĩ quan Lục quân 2
TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

25

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2 HIỆN NAY
2.1 Tình hình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của

43

học viên đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân
2 hiện nay
2.2 Một số giải pháp cơ bản phát triển năng lực nghiên cứu


43

khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ
quan Lục quân 2 hiện nay

60

KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

85
87

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài


3

Nghiên cứu khoa học là một lĩnh vực quan trọng luôn được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của Đảng đã chỉ
rõ: cùng với giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực phát triển kinh tế xã hội; là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân
tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp "xây dựng quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại" địi hỏi càng phải coi trọng hoạt
động nghiên cứu khoa học.
Để hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả cao, trong quá trình giáo
dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo bậc đại học và sau đại học ở các học viện, Nhà
trường trong và ngoài quân đội phải hết sức chú trọng phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên.
Trường sĩ quan Lục quân II là một trung tâm lớn, đào tạo sĩ quan cấp phân
đội của quân đội. Những năm qua Nhà trường đã có nhiều đổi mới trong giáo
dục, đào tạo, đã chú trọng hơn đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên. Chính vì vậy đã đào tạo được một đội ngũ sỹ quan sau khi tốt nghiệp
ra trường có tri thức vừa toàn diện vừa chuyên sâu chuyên ngành quân sự, biết
vận dụng tri thức vào phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy
sinh trong quá trình quản lý, chỉ huy, giáo dục, huấn luyện đơn vị, góp phần nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tuy nhiên, việc phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên cịn
bộc lộ khơng ít những hạn chế, thiếu sót cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện.
Một số cán bộ, giảng viên, cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo chưa thật sự coi
trọng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho học viên, coi đó là nhiệm vụ
của các bậc học cao hơn. Công tác bảo đảm cơ sở vật chất, tài liệu cho học tập


4

và nghiên cứu cịn hạn chế; chưa tạo được mơi trường thuận lợi cho phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của người học. Đối với học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay, nhận thức về phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học trong quá trình học tập ở trường chưa đầy đủ, cịn có biểu
hiện cho rằng nghiên cứu khoa học chỉ là công việc của các nhà khoa học: các

tiến sỹ, thạc sỹ, các giảng viên. Vì vậy dẫn đến tư tưởng tự ti, thiếu tích cực, chủ
động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu, chưa chú trọng rèn luyện phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học. Do đó một số học viên sau khi tốt nghiệp ra
trường chưa phát triển kịp với yêu cầu nhiệm vụ mới của sự nghiệp xây dựng và
chiến đấu của quân đội.
Từ đó, việc nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn
và đề ra những giải pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay dưới góc độ triết học
là vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài. Vì vậy
chúng tơi chọn vấn đề "Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay" làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng và phát huy nguồn lực con người, phát triển tồn diện
năng lực con người, trong đó có phát triển năng lực nghiên cứu khoa học luôn là
một đề tài thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Liên quan đến vai trò của nguồn lực con người và vai trò của nghiên cứu
khoa học đối với sự phát triển xã hội có các cơng trình như: "Con người và
nguồn lực con người trong phát triển", Viện Thông tin Khoa học Xã hội [29];
"Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học xã
hội nhân văn" tập thể tác giả, Học viện Chính trị quân sự [11]; Lê Hữu Nghĩa,
"Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ" [20].


5

Liên quan đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học có các cơng trình
như: Phạm Thị Ngọc Trầm "Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát triển"[25];
Nguyễn Văn Tài "Tích cực hố nhân tố con người của đội ngũ sỹ quan trong xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay"[24]; Lê Quang "Vấn đề nắm vững
phương pháp khoa học trong cách tiếp cận các vấn đề xã hội "[23]; Lê Quý Trịnh

"Phát triển năng lực trí tuệ của sỹ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay"[27 ].
Các cơng trình trên cũng đã tập trung làm rõ thực chất, vai trò và các giải
pháp phát huy, phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước và xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Song do mục đích, phạm vi
nghiên cứu, các tác giả của các cơng trình trên chưa đặt ra nghiên cứu vấn đề
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay. Vì vậy, "Phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện
nay" là vấn đề mới và bức thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ bản chất và một số vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục
quân II.
+ Đánh giá thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay và chỉ rõ nguyên
nhân của thực trạng đó.


6

+ Đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, các nghị quyết của Đảng, Đảng uỷ Quân sự Trung ương về giáo dục, đào
tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học
và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương
pháp hệ thống - cấu trúc, điều tra xã hội học, phân tích, tổng hợp, khái qt hố,
trừu tượng hố và phương pháp chuyên gia.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu,
từ đó góp phần phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc
đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, trong nghiên cứu và vận
dụng vào công tác giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, hai chương (bốn tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục
Chương 1


7

BẢN CHẤT PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN
LỤC QUÂN II
1.1. Khái niệm và vai trò phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
1.1.1. Khái niệm phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học

viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
* Nghiên cứu khoa học và năng lực nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người nhằm thoả
mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. Nghiên cứu khoa học có vai trị
quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người; giúp con người
nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn bản chất các sự vật, hiện tượng
trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng thời thơng qua hoạt động đó,
làm cho tư duy của con người ngày càng phát triển.
Là một bộ phận của hoạt động trí tuệ, nghiên cứu khoa học đã thu hút
được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu. Trong tác phẩm "Bàn về
tâm hồn", Arixtốt đã đưa ra kiến giải của mình về trí tuệ. Theo ông, tâm hồn
cảm giác (ước muốn) và tâm hồn suy nghĩ (trí tuệ) là hai chức năng của tâm
hồn đưa tới hành động và chúng có chức năng khác nhau. Trong đó tâm hồn suy
nghĩ có chức năng lý giải, lập luận, biểu tượng, tưởng tượng (đó cũng là
những thao tác của nghiên cứu khoa học). Ông nhấn mạnh vai trò của tâm hồn
suy nghĩ đối với thực hiện mong muốn của con người. Tuy có ước muốn,
mong mỏi, nhưng con người làm chủ bản thân là người khơng làm theo ước
muốn mà lại tn theo trí tuệ, sự hiểu biết của mình [10, tr. 12].
Tuy nhiên, chỉ đến khi học thuyết Mác - Lênin ra đời, với việc đưa khái
niệm thực tiễn vào lý luận nhận thức và thừa nhận khả năng vô tận của con


8

người trong nhận thức và cải tạo thế giới, mới đưa lại cái nhìn đúng đắn và
tồn diện về nghiên cứu khoa học và vai trị của nó trong đời sống xã hội.
Trong tác phẩm "Bút ký triết học", V. I. Lênin viết: "Thế giới không thoả
mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của
mình"[12, tr. 229]. Trong tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc", C. Mác đã
khẳng định: "Đời sống xã hội về thực chất là có tính thực tiễn"[15, tr. 11].

Chính thơng qua thực tiễn mà con người đã "nhân đôi" thế giới trong hiện
thực và cũng nhân đơi chính mình trong thế giới tinh thần. Nhờ có thực tiễn
mà tri thức của con người khơng ngừng phát triển, khơng có cái gì trong thế
giới mà con người khơng biết, chỉ có những cái con người chưa biết mà thôi.
Như vậy, hoạt động thực tiễn, trong đó có nghiên cứu khoa học, là con đường
phát triển vô tận của nhận thức con người.
Khoa học, trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Khoa học với tư cách là
một danh từ, dùng để chỉ một hệ thống tri thức phản ánh đúng đắn quy luật tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người, giúp con người có khả năng vận dụng
để cải tạo hiện thực. Với tư cách là một tính từ, khoa học chỉ tính chất nhận
thức và hành động của con người phù hợp với những đòi hỏi của khoa học
(khách quan, chính xác, có hệ thống...) để nhận thức và hành động của họ phù
hợp với chân lý khách quan, với thực tiễn cuộc sống, có khả năng cải tạo hiện
thực hiệu quả nhất.
Nghiên cứu, được hiểu là "xem xét, tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn
đề, giải quyết vấn đề hay rút ra những hiểu biết mới" [29, tr. 658]. Với quan
niệm như vậy, ta thấy, nghiên cứu khoa học là lĩnh vực lao động nhằm sáng
tạo ra tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó là q trình các nhà khoa
học, cơ quan khoa học, với những tri thức, năng lực, trình độ và kinh nghiệm
của họ, với sự phân công và hợp tác lao động khoa học, những trang bị thực
nghiệm, thí nghiệm, phương pháp... nhằm tạo ra hệ thống tri thức mới phục


9

vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Bản chất nghiên cứu khoa
học là hoạt động sáng tạo của con người.
Nghiên cứu khoa học là một q trình diễn ra phức tạp, khơng ngừng
giải quyết những mâu thuẫn của sự tìm tịi, phát hiện những tri thức mới,
khám phá những nguyên lý, quy luật, con đường mới mẻ của sự phát triển.

Q trình đó ln xuất hiện những giả thuyết, những ý tưởng, những xu
hướng, dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thành cơng của nghiên
cứu khoa học là ở chỗ tìm ra tri thức mới phù hợp với sự phát triển của hiện
thực, đem lại lợi ích cho con người.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người. Kết quả đạt
được của hoạt động nghiên cứu khoa học phụ thuộc chủ yếu vào năng lực
nghiên cứu của con người. Năng lực nghiên cứu khoa học tồn tại dưới hai
dạng: dạng tiềm năng và dạng năng lực hiện hữu. Dạng tiềm năng là nguồn vô
tận của con người chưa được đánh thức, còn dạng năng lực hiện hữu là khả
năng hiện có của con người để tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học có
hiệu quả.
Bàn về năng lực lao động của con người, C. Mác viết: "Chúng tôi hiểu
sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó"[17, tr.
251]. Tư tưởng trên của C. Mác là cơ sở phương pháp luận cho việc nhận
thức đúng đắn về bản chất của năng lực và năng lực nghiên cứu khoa học
của mỗi con người.
Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt, là: "Khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"; "là phẩm chất tâm
lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó
với chất lượng cao"[2, tr. 639]. Năng lực con người là sản phẩm của sự phát


10

triển xã hội... vì vậy nó khơng những do hoạt động của bộ não người, mà cịn
do trình độ phát triển lịch sử xã hội quy định. Theo ý nghĩa đó, năng lực nói
chung và năng lực nghiên cứu khoa học nói riêng của con người ln gắn liền
và khơng tách rời với tổ chức lao động xã hội cùng với hệ thống giáo dục

tương ứng với tổ chức đó. Năng lực nghiên cứu khoa học là khả năng và điều
kiện bên trong của con người để họ tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học
có hiệu quả. Năng lực nghiên cứu khoa học là kết quả của sự tác động tổng
hợp của nhiều yếu tố, như trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng
sáng tạo của con người.
Từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Năng lực nghiên cứu
khoa học là khả năng về trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng
sáng tạo của con người được sử dụng trong việc phát hiện và giải quyết
đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, nhằm nâng cao nhận thức và
hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người .
Các yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học là một thể thống nhất, tác
động biện chứng lẫn nhau, song mỗi yếu tố có cấu trúc, vị trí vai trị riêng của nó.
Khả năng về trình độ tri thức là yếu tố cơ bản của năng lực nghiên cứu
khoa học, nó phản ánh sự hiểu biết của mỗi người về thế giới khách quan và
về chính bản thân mình, là lượng thông tin mà mỗi người lĩnh hội được trong
quá trình học tập và tham gia các hoạt động. Thơng thường tri thức được phân
loại theo cấp độ hoặc lĩnh vực nó khái quát. Xét ở phạm vi bao quát thì có tri
thức về tự nhiên, về xã hội và về con người. Xét về trình độ khái qt, có tri
thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri
thức tiền khoa học và tri thức khoa học. Căn cứ vào hoạt động sống của con
người, có các dạng tri thức cơ bản sau: tri thức thực tiễn, tri thức lý luận khoa
học và tri thức nghề nghiệp.


11

Tri thức thực tiễn là những hiểu biết được hình thành trực tiếp trong thực
tiễn cuộc sống, lao động, đấu tranh và trải nghiệm xã hội của con người.
Chính qua những hoạt động thực tiễn ấy làm cho con người hiểu sâu sắc hơn về
thế giới, là cơ sở làm nảy sinh những sáng kiến và khởi nguồn của sự sáng tạo

Tri thức lý luận khoa học là "sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội tích trữ lại trong q trình lịch
sử"[19, tr. 497]. Đó là hệ thống những tri thức sâu sắc của con người về bản
chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, là cơ
sở để con người nghiên cứu, khám phá những tri thức mới.
Tri thức nghề nghiệp là những hiểu biết, kinh nghiệm và kỹ năng lao
động của con người trong lĩnh vực hoạt động chuyên mơn của mình, là cơ sở
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và lao động sáng tạo của
con người.
Sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cơ bản trên đây tạo thành khả năng
về trình độ tri thức của con người. Tuy nhiên, trong năng lực nghiên cứu khoa
học, tri thức lý luận khoa học giữ vai trị quan trọng nhất, bởi lẽ, sẽ khơng có
khoa học nếu không nhận thức được quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Chủ nghĩa Mác cho rằng, khoa học là kẻ thù của ngẫu nhiên. Chỉ có
căn cứ vào những quy luật và những quan hệ tất nhiên của hiện thực mới có
thể nghiên cứu và nhận thức được hiện thực một cách khách quan, khoa học.
Tri thức về một số ngẫu nhiên chưa thể coi là khoa học, vì khơng phải những
hiện tượng ngẫu nhiên quyết định mà chính những quy luật khách quan quyết
định sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phủ nhận quy luật khách
quan là đi đến phủ nhận những tri thức khoa học. Nhiệm vụ của khoa học là
thông qua những hiện tượng ngẫu nhiên mà phát hiện những cái tất nhiên và
những quy luật khách quan nhằm trang bị cho con người tri thức để họ sử
dụng trong hoạt động thực tiễn. Sự phát triển của khoa học luôn gắn liền với


12

sự phát triển chung của xã hội, từ đó thúc đẩy con người ngày càng nhận thức
sâu sắc và chính xác hơn về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Sẽ
khơng có khoa học và nghiên cứu khoa học nếu khơng có tri thức khoa học.

Nói như vậy khơng phải phủ nhận vai trị của tri thức thực tiễn và tri thức
nghề nghiệp trong nghiên cứu khoa học mà ngược lại, chính các yếu tố đó góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tri thức là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức, đồng thời là cơ sở,
điều kiện để con người nghiên cứu, sáng tạo ra tri thức mới. Bêcơn - người
sáng lập Triết học duy vật Anh đã từng nói: "Con người cần phải thống trị,
phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó thực hiện được hay khơng tất cả phụ
thuộc vào sự hiểu biết của con người"[25, tr. 30].
Khả năng phương pháp tư duy là khả năng về cách thức nhận thức thế
giới của con người, là con đường, biện pháp để tiếp cận, lĩnh hội tri thức và
sáng tạo tri thức mới. Các thao tác tư duy dựa trên cơ sở quy luật của hoạt
động nhận thức, bao gồm các phương pháp cụ thể như so sánh, phân tích,
tổng hợp, khái qt hố, trừu tượng hố.v.v.
Khả năng phương pháp tư duy đóng vai trị quan trọng trong hoạt động
nhận thức và nghiên cứu khoa học. Nhờ nó mà con người có thể "bóc tách"
các mặt, các bộ phận của sự vật, hiện tượng để đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu
bản chất, đồng thời, tái tạo nó, khái qt hố, trừu tượng hố nó với tư cách
là cái cụ thể trong tư duy.
Khả năng phương pháp tư duy là sản phẩm nhận thức của con người về
quy luật của tư duy, nhưng khi được con người tiếp thu và sử dụng một cách
tự giác nó lại trở thành cơ sở bên trong quyết định đến hiệu quả của hoạt động
nhận thức và là cơ sở để xây dựng, phát triển tri thức mới. Tuy nhiên, mỗi một
lĩnh vực nghiên cứu khoa học cụ thể, địi hỏi phải có một phương pháp tư duy
phù hợp. Xây dựng được phương pháp tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo là


13

cơ sở bảo đảm cho hoạt động nghiên cứu khoa học đạt kết quả cao. Vì vậy,
trong quá trình giáo dục, chủ thể giáo dục không những quan tâm trang bị tri

thức cho người học mà còn hết sức coi trọng giáo dục phương pháp, đặc biệt
là phương pháp tư duy.
Lịch sử xã hội loài người đã từng xuất hiện và tồn tại nhiều phương pháp
tư duy. Mỗi phương pháp tư duy đều có vị trí vai trị khác nhau. Khả năng
phương pháp tư duy của mỗi người, mỗi thời đại có ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả phát triển nhận thức của họ. Thực tiễn đã chứng minh rằng sự phát
triển phương pháp tư duy của mỗi thời đại đã mang lại những thành tựu
nghiên cứu khoa học trong những lĩnh vực nhất định.
Đỉnh cao của phương pháp tư duy khoa học là phương pháp tư duy biện
chứng duy vật. Theo Ph. Ăngghen, đó là phương pháp "xem xét những sự vật
và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn
nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát triển và sự tiêu
vong của chúng"[1, tr. 38]. Nhờ đó, con người có khả năng đi sâu nắm bắt bản
chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; đồng thời, dự báo
xu hướng biến đổi và xác định những biện pháp nhằm cải tạo hiện thực.
Trong lĩnh vực quân sự, khả năng phương pháp tư duy của người cán bộ
chỉ huy có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở để người chỉ huy phân
tích, đánh giá đúng đắn tình hình, bao quát cục diện chiến trường và đề xuất
những giải pháp phù hợp giành thắng lợi cho trận đánh.
M. V. Phrunde - nhà hoạt động cách mạng, nhà lý luận quân sự nổi tiếng
của giai cấp vơ sản Nga đã nói: "Người chỉ huy Hồng quân phải học tập để
hoàn toàn nắm vững được phương pháp tư duy và nghệ thuật phân tích các
hiện tượng mà học thuyết Mác đã dạy cho chúng ta. Thực chất của phương
pháp tư duy đó là chúng ta khơng thể coi cái gì là tuyệt đối và cứng nhắc
được. Mọi cái đều chuyển biến và thay đổi, và bất cứ một phương tiện, một


14

phương pháp nào cũng chỉ được sử dụng trong một hồn cảnh nhất định nào

đó. Nghệ thuật của người chỉ huy là ở chỗ trong nhiều phương tiện mà mình
có, phải biết cách lựa chọn được phương tiện nào đó có thể đem lại những kết
quả tốt đẹp nhất trong hồn cảnh và thời gian đó"[22, tr. 89].
Khả năng phương pháp tư duy đóng vai trị quan trọng trong hoạt động
nghiên cứu khoa học, nó vừa là kết quả của sự phát triển tri thức, đồng thời là
cơ sở cho khả năng sáng tạo của con người. Thiếu nó, hoạt động nghiên cứu
khoa học sẽ không mang lại hiệu quả tích cực và khơng thúc đẩy sự phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Khả năng sáng tạo thực chất là khả năng phát hiện và giải quyết đúng
đắn, linh hoạt những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nó là đặc trưng bản chất
nhất của năng lực nghiên cứu khoa học. Nói một cách khác, đó là khả năng
phát hiện những tri thức mới, là quá trình phủ định biện chứng của tri thức,
làm cho nhận thức của con người ngày càng phong phú, sâu sắc, đầy đủ hơn
về sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Khả năng sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự vận động biện chứng giữa tri
thức sâu rộng và phương pháp tư duy khoa học. Nó là một tập hợp các phẩm
chất tâm lý, tư duy phức tạp trong đó bao gồm: tư chất năng khiếu, tính độc
lập, năng động, trí tưởng tượng, trực giác, phán đoán của tư duy, v.v..
Tư chất năng khiếu là những tiềm năng được phát triển, di truyền và bẩm
sinh, phản ánh mức độ huy động các tế bào thần kinh tham gia vào các hoạt
động; quy định thiên hướng, lĩnh vực sáng tạo của mỗi cá nhân. Tư chất năng
khiếu có vai trị quan trọng trong hoạt động sáng tạo của con người, chi phối
đến quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mỗi người. Tuy
nhiên, tư chất năng khiếu chỉ có thể phát huy, phát triển trên cơ sở sự hiểu
biết, lòng say mê, hứng thú, mục đích sống và hành động của mỗi con người.
Nó là cơ sở bảo đảm cho sự sáng tạo đúng đắn, hợp quy luật.


15


Tính độc lập và năng động của tư duy là những phẩm chất quan trọng
của khả năng sáng tạo, nó đưa lại cho con người khả năng xem xét, giải quyết
vấn đề một cách tự lực, tích cực, chủ động, có cân nhắc chọn lọc. Trong lĩnh
vực qn sự, tính độc lập, sáng tạo của tư duy giúp cho người chỉ huy quyết
đốn, linh hoạt, sáng tạo trong xử trí các tình huống chiến đấu, vừa giữ được
yếu tố bí mật về lực lượng và ý định chiến đấu của ta, vừa nghi binh, lừa địch
và đưa ra những quyết định táo bạo bất ngờ giành thắng lợi cho trận đánh.
Ngồi những yếu tố trên, khả năng sáng tạo cịn phụ thuộc vào trí tưởng
tượng, trực giác, phán đốn của các nhà khoa học. Đây là những yếu tố hết
sức quan trọng trong hoạt động sáng tạo. L. Đ. Bơrơi đã nhận xét: "cơ sở của
tất cả các thành tựu khoa học đích thực là tưởng tượng sáng tạo và trực giác
của nhà khoa học"[25, tr. 30].
Khả năng sáng tạo phản ánh bản chất của năng lực nghiên cứu khoa học,
là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển trình độ tri thức và phương pháp tư
duy. Đồng thời, khả năng sáng tạo góp phần tác động thúc đẩy sự phát triển
của trình độ tri thức và phương pháp tư duy của con người.
Sự tác động biện chứng của các yếu tố đó làm cho nhận thức con người
ngày càng phát triển. Con người ngày càng khám phá, hiểu biết đầy đủ, sâu
sắc hơn về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình, làm cho hoạt động thực
tiễn của con người ngày càng có hiệu quả cao hơn.
Như vậy, bản chất năng lực nghiên cứu khoa học là khả năng sáng tạo
của con người. Sự phát triển của năng lực nghiên cứu khoa học kết quả của sự
phát triển khả năng trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng tìm tịi
sáng tạo của mỗi con người.
* Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học.


16

Phát triển, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là quá trình

vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
ngày càng hồn thiện hơn.
Theo đó, có thể hiểu phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là q
trình khơng ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao phương
pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người nhằm phát hiện và giải quyết
đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh.
Dấu hiệu đặc trưng cơ bản xác định sự phát triển của năng lực nghiên
cứu khoa học là ở tính quy định mới cao hơn về chất của cả khả năng trình
độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo, đặc biệt là khả năng
sáng tạo ra hệ thống tri thức mới.
Để xem xét, đánh giá sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
một đối tượng cụ thể cần phải nắm được thực trạng ban đầu của nó, lấy đó
làm cơ sở để tiến hành so sánh và đánh giá sự phát triển về chất của cái mới.
Trên cơ sở thực trạng ban đầu ấy, cùng với đặc điểm, yêu cầu của lĩnh vực
hoạt động, yêu cầu cần đạt được của sự phát triển để làm rõ đặc trưng, làm rõ
khái niệm, xác định tiêu chí và đề ra giải pháp cụ thể phát triển các yếu tố cấu
thành năng lực nghiên cứu khoa học một cách hợp lý.
Đối với học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II, phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ nổi lên một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là phát triển năng lực nghiên cứu khoa học ở học viên đào
tạo bậc đại học với đối tượng "đầu vào" là những quân nhân và học sinh phổ
thông đã trúng tuyển qua kỳ thi tuyển sinh đại học quân sự. Họ là lực lượng
trẻ, có tri thức cơ bản của bậc học phổ thơng trung học, có sức khoẻ đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội. Tuyệt đại
đa số là con em của người lao động trực tiếp, có đức tính cần cù, chịu khó, có
nguyện vọng tha thiết được trở thành sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, có


17


mục tiêu phấn đấu rõ ràng, có khả năng tiếp thu nhanh tri thức khoa học, ham
học hỏi, cầu tiến bộ. Đây là những đặc điểm thuận lợi trong quá trình phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, ở họ còn khơng ít những hạn chế
ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học,
đó là: tính kiên trì trong học tập, rèn luyện phát triển những phẩm chất của
nghiên cứu khoa học chưa cao; khi gặp khó khăn thường dễ bi quan, dao
động. Trong khi đó mục tiêu yêu cầu đào tạo học viên sau khi tốt nghiệp ra
trường đảm nhiệm cương vị trung đội trưởng, phát triển lên cán bộ đại đội,
cán bộ tiểu đoàn ở các đơn vị phân đội binh chủng hợp thành. Vì vậy phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên phải phát triển đồng đều,
toàn diện cả về khả năng trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng
sáng tạo. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo ở đối tượng này chủ yếu là vận dụng
tri thức vào giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, chưa đòi hỏi nhiều ở sự sáng
tạo ra tri thức mới.
Thứ hai, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khoa
học quân sự.
Hoạt động quân sự là một hoạt động đặc thù diễn ra trong mọi điều kiện
không gian, thời gian, địa hình, thời tiết. Đặc biệt là hoạt động chiến đấu,
luôn diễn ra hết sức gay go, quyết liệt, phức tạp và hết sức nhanh chóng, có liên
quan trực tiếp đến sự an nguy của dân tộc, của chế độ chính trị và sinh mệnh
của mỗi con người; nó địi hỏi sự nỗ lực lớn, quyết tâm cao của mỗi quân nhân
và tổ chức quân sự. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học trong lĩnh
vực qn sự địi hỏi học viên phải có khả năng về trình độ tri thức khoa học
quân sự sâu sắc, có phương pháp tư duy khoa học, nhạy bén, kịp thời, chính


18


xác, khơng cho phép chậm trễ; có khả năng vận dụng linh hoạt sáng tạo tri thức
vào giải quyết đúng đắn những tình huống diễn ra trong hoạt động quân sự.
Thứ ba, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hướng chủ yếu vào khoa học về
quản lý, chỉ huy, lãnh đạo các đơn vị phân đội binh chủng hợp thành.
Hoạt động quản lý, chỉ huy và lãnh đạo là hoạt động có ý nghĩa quyết
định đến việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Đối với đơn vị cấp phân đội
binh chủng hợp thành, người chỉ huy là người trực tiếp tổ chức chỉ huy, quản
lý, giáo dục, huấn luyện bộ đội, quản lý cơ sở vật chất vũ khí trang bị và tham
gia vào quá trình lãnh đạo đơn vị thực hiện các nhiệm vụ. Đây là một hoạt
động mang tính tổng hợp cao. Đặc biệt trong hoạt động chiến đấu, người chỉ
huy cấp phân đội binh chủng hợp thành không những là người chỉ huy cao
nhất đơn vị thuộc quyền mà còn là người chỉ huy các lực lượng, đơn vị phối
thuộc. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học quản lý, chỉ huy, lãnh
đạo đòi hỏi học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II phải
phát triển tri thức tồn diện; có hiểu biết sâu sắc về khoa học nghệ thuật quân
sự, nắm chắc kỹ thuật, chiến thuật; có trình độ tổ chức chỉ huy, quản lý giỏi
cấp mình, thành thạo cấp dưới, biết cấp trên; có tri thức khoa học xã hội nhân
văn, tham gia có hiệu quả vào các quyết định của tập thể...; có phương pháp
tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo; có khả năng bao qt, phân tích, xem xét
đánh giá vấn đề nhanh chóng và chính xác; có khả năng vận dụng sáng tạo tri
thức vào hoạt động chỉ huy, quản lý, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ.
Từ sự phân tích trên đây có thể hiểu, phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục qn II là
q trình khơng ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức khoa học


19


vào phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong
quá trình học tập, rèn luyện ở trường cũng như trên cương vị công tác sau này.
Đó là q trình học viên khơng ngừng làm giàu trí tuệ và luyện cho bộ óc
thơng minh hơn, hiểu biết hơn, nhạy bén, sáng tạo hơn để kịp thời phát hiện
và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới đặt ra trong quá trình học tập, rèn
luyện ở trường và hoạt động quản lý, chỉ huy, lãnh đạo đơn vị cấp phân đội
binh chủng hợp thành sau này cũng như những vấn đề khác nảy sinh trong
cuộc sống và quan hệ xã hội.
Một số tiêu chí cơ bản đánh giá phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II là một phạm trù bao gồm nhiều yếu tố tác
động biện chứng lẫn nhau, vì vậy việc xác định chính xác các tiêu chí là rất khó.
Tuy nhiên về mặt nguyên tắc của nhận thức thì dù phức tạp đến mấy cũng có thể
lượng hố được. Càng lượng hố chính xác được bao nhiêu thì càng có ý nghĩa
to lớn trong việc xác định những biện pháp tác động có hiệu quả bấy nhiêu.
Thực tế cho thấy, có thể căn cứ vào các tiêu chí sau đây để đánh giá phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II.
Một là, có khả năng chuyển hoá nhận thức thành động cơ, thái độ học
tập đúng đắn, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa
Hai là, có tri thức tồn diện, cả tri thức cơ sở, cơ bản, chuyên ngành, có
khả năng phát hiện những vấn đề thực tiễn mới nẩy sinh trong quá trình học
tập, rèn luyện và công tác.


20


Ba là, có phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo trong tiếp thu, lĩnh hội tri
thức khoa học và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức vào giải quyết
những vấn đề lý luận, thực tiễn quân sự đặt ra.
Bốn là, kết quả học tập và tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học
trong quá trình học tập là thước đo sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II. Biểu hiện
của sự phát triển đó là kết quả học tập của các môn học sau cao hơn môn học
trước, kỳ sau cao hơn kỳ trước. Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học
của Nhà trường ngày càng nhiều hơn và có chất lượng cao hơn.
1.1.2. Vai trị phát triển năng lực nghiên cứu khoa học đối với nâng
cao chất lượng học tập rèn luyện của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II
Chất lượng học tập, rèn luyện của học viên là kết quả của quá trình giáo
dục, đào tạo; là sự phản ánh mức độ phấn đấu và kết quả đạt được của học
viên trong học tập, rèn luyện so với mục tiêu, yêu cầu đào tạo đã được xác
định. Đối với học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II, trên
cơ sở quán triệt Nghị quyết 93 của Đảng uỷ quân sự Trung ương; Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII đã chỉ rõ: "Đào tạo
đội ngũ sĩ quan có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng trên cơ sở lập
trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với
nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; có tinh thần
cảnh giác cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có phẩm chất đạo đức
trong sáng, lối sống mẫu mực, có trình độ kiến thức lý luận chính trị, qn sự,
nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Đảng, chấp hành nghiêm mệnh lệnh,
chỉ thị của cấp trên, có hiểu biết về khoa học quân sự hiện đại và truyền
thống chiến đấu của dân tộc, của qn đội, có trình độ quản lý, chỉ huy, huấn


21


luyện bộ đội, quản lý vũ khí trang bị, kinh tế, tài chính, tài sản của đơn vị, có
năng lực tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị..."[6, tr. 17].
Thực chất nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện của học viên đào tao
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II là quá trình phát triển ở người học
cả về trình độ tri thức, phẩm chất, đạo đức cách mạng, thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; cả năng lực chỉ huy, quản lý và tổ
chức thực hiện…; đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Sự
phát triển đó là kết quả tác động của nhiều yếu tố cả điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan. Đặc biệt trước u cầu của q trình học tập có tính
chất nghiên cứu, vai trò của nhân tố chủ quan trong đó có năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên hết sức quan trọng. Vai trò của phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học đối với nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện của
học viên được thể hiện trên các mặt cơ bản dưới đây.
Thứ nhất, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học góp phần quan trọng,
nâng cao phương pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức và phát triên tri thức mới của
học viên.
Phương pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức là cách thức, con đường tiếp cận,
lĩnh hội tri thức. Có phương pháp tốt sẽ bảo đảm cho quá trình tiếp thu, lĩnh
hội tri thức của học viên nhanh chóng và vững chắc, biến tri thức của thầy,
của sách vở thành tri thức của bản thân mình.
Với chất lượng "đầu vào" của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân II hiện nay, việc phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên là một cơ sở quan trọng bảo đảm cho học viên xây dựng được
phương pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức một cách khoa học, phù hợp, tích cực,
chủ động, sáng tạo, khắc phục lối học thuộc lòng, rập khn, máy móc. Trước
những vấn đề của nhận thức học viên khơng bị thụ động mà ln tìm cách lập
luận lý giải một cách lơgíc chặt chẽ để nắm vững bản chất của vấn đề



22

Thực tiễn giảng dạy ở Trường sĩ quan Lục quân II cho thấy, những học
viên có năng lực nghiên cứu khoa học tốt, tham gia tích cực các hoạt động
nghiên cứu khoa học, tích cực tranh luận, trao đổi trong quá trình học tập, họ
thường xây dựng được cho mình phương pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức phù
hợp với nội dung của các môn học, bảo đảm cho họ có khả năng nắm bắt tri
thức nhanh chóng và vững chắc. Sau mỗi bài giảng của giảng viên, học viên
có khả năng khái quát được nội dung, xác định những vấn đề cần tập trung
nghiên cứu, bổ sung trong quá trình tự học. Trong quá trình nghiên cứu tài
liệu, họ có khả năng khái quát nắm vững thực chất vấn đề, có khả năng tái
hiện và vận dụng phù hợp vào giải quyết các vấn đề trong học tập cũng như
các hoạt động khác. Đặc biệt những học viên có năng lực nghiên cứu khoa
học tốt thường trong các bài thi, kiểm tra hay trình bày một vấn đề nào đó, họ
ln định hình được cách sắp xếp, trình bày thứ tự nội dung một cách lơgíc,
chặt chẽ, mạch lạc, cân đối, xác định được vấn đề trọng tâm, trọng điểm,
những vấn đề cần thiết phải đầu tư thích đáng để làm rõ, ít bị trùng lắp hoặc
bỏ sót nội dung trong quá trình diễn đạt tri thức của mình. Đồng thời với năng
lực nghiên cứu khoa học, học viên không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu, lĩnh hội
tri thức được trang bị mà tiếp tục nghiên cứu phát triển tri thức mới, hiểu biết
mới, làm cho nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Bảo đảm cho họ
có được một hệ thống tri thức "cơ bản, hệ thống, thống nhất chuyên sâu"
Thứ hai, phát triển năng lực nghiên cứu khoa hoc góp phần xây dựng thế
giới quan khoa học, nhân sinh quan quan cộng sản chủ nghĩa cho học viên
Thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa là những
phẩm chất đặc biệt quan trọng của người học viên, người sĩ quan trong Quân
đội nhân dân Việt Nam. Những phẩm chất ấy được hình thành và phát triển
thơng qua nhận thức và rèn luyện của mỗi người. Tuy nhiên, không một sách
vở, tài liệu, bài giảng nào có thể trang bị hết tri thức cho học viên. Trong khi



23

đó cuộc sống ln ln vận động và phát triển, mỗi học viên luôn chịu sự tác
động đan xen của nhiều mối quan hệ, nhiều tình huống phức tạp. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới và trong nước, trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của
các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, vì vậy bằng phương pháp tư
duy khoa học, bằng sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo tri thức đã được trang bị
vào xem xét từng trường hợp cụ thể, mới làm cho họ tự hiểu đúng bản chất
vấn đề, mới củng cố niềm tin vững chắc của họ vào Đảng, vào mục tiêu lý
tưởng cách mạng, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao
năng lực tổ chức thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình học tập, rèn
luyện của học viên.
Tổ chức thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ là một tiêu chí quan trọng
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học viên trong quá trình giáo dục, đào
tạo ở Nhà trường. Kết quả đạt được của tổ chức hoạt động thực tiễn, thực hiện
nhiệm vụ của học viên không chỉ phụ thuộc vào trình độ tri thức mà cịn chịu
sự chi phối rất lớn bởi khả năng, cách thức, biện pháp tổ chức thực hiện của
họ. Hay nói một cách khác, nó cịn phụ thuộc vào khả năng bao quát công
việc, khả năng xem xét, đánh giá đúng đắn những thuận lợi, khó khăn, xu
hướng vận động phát triển của nhiệm vụ; trên cơ sở đó xác định yêu cầu, nội
dung, biện pháp cụ thể trong quá trình tổ chức thực hiện. Đặc biệt trong tổ
chức thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thường nảy sinh những vấn đề mới, ngoài
dự kiến, trong những tình huống đó, kết quả thực hiện nhiệm vụ của học viên
phụ thuộc chủ yếu vào khả năng phán đoán, khả năng sáng tạo của họ trong
nghiên cứu, xem xét nắm vững bản chất vấn đề, xác định nhiệm vụ trọng
tâm,, khâu đột phá và những giải pháp cụ thể trong tổ chức thực hiện.



24

Như vậy, có thể nói: thực chất tổ chức thực tiễn thực hiện nhiệm vụ
trong quá trình học tập là quá trình học viên vận dụng tri thức đã được lĩnh hội vào
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ. Năng lực tổ chức thực tiễn, kết quả thực hiện các
nhiệm vụ trong quá trình học tập của học viên phụ thuộc vào trình độ tri thức,
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết từng nhiệm vụ
cụ thể. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên luôn là yếu tố
quan trọng, nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ của học
viên trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường.
Thứ tư, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là một yếu tố quan
trọng, tạo thành động lực bên trong kích thích tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học viên trong quá trình học tập rèn luyện. Năng lực nghiên cứu khoa học
càng phát triển, khả năng sáng tạo của học viên được nâng lên, càng thơi thúc
họ say mê tìm tịi, khám phá tri thức mới, tranh thủ thời gian học tập, rèn
luyện phát triển, hoàn thiện phẩm chất, năng lực của mình.
Bên cạnh những vai trị trên đây, phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II còn có vai
trị đối với việc hồn thành nhiệm vụ của người chỉ huy cấp phân đội binh
chủng hợp thành.
Học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II sẽ là những
người chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành sau khi tốt nghiệp ra
trường. Đặc trưng cơ bản hoạt động của họ vừa là người chỉ huy, quản lý bộ
đội, quản lý cơ sở vật chất, vũ khí, trang bị (cả trong biên chế và phối thuộc)
vừa là người tổ chức giáo dục, huấn luyện, tổ chức chỉ huy chiến đấu và thực
hiện các nhiệm vụ khác của đơn vị. Những hoạt động đó địi hỏi phải có trình
độ khoa học. Người chỉ huy phải có năng lực nghiên cứu khoa học mới có thể
nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của mình. Hiện nay, do sự phát triển

mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; do yêu cầu mới của


25

sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội; trước sự chống phá quyết liệt
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ; sự tác động
của mặt trái cơ chế thị trường, vì vậy, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của học viên càng có ý nghĩa quan trọng. Nó là một trong những cơ sở để
người chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành nâng cao chất lượng quản
lý, giáo dục bộ đội, quản lý và sử dụng vũ khí trang bị; nâng cao chất lượng tổ
chức huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; kịp thời phát hiện và làm vơ
hiệu hố âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, xây dựng đơn vị vững mạnh
toàn diện, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II là một vấn đề hết sức quan
trọng. Nó góp phần to lớn nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện của học
viên trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường cũng như của người chỉ
huy cấp phân đội binh chủng hợp thành sau khi tốt nghiệp.
1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II là một quá trình vận động, phát triển các
yếu tố bên trong của chính người học trên cơ sở sự tác động của điều kiện
khách quan trong quá trình dạy học như: mục tiêu, yêu cầu, nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy của giảng viên, tổ chức quản lý giáo dục, đào
tạo và điều kiện vật chất bảo đảm cho quá trình dạy học. Người học - chủ thể
của quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học phát huy nhân tố chủ
quan, tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo nâng cao hiệu quả tác động của
những điều kiện khách quan vào quá trình phát triển năng lực nghiên cứu

khoa học của mình. Đó chính là quá trình tác động biện chứng giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan của quá trình phát triển năng lực nghiên cứu


×