Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nghiên cứu bổ sung một số cơ sở khoa học nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả rừng trồng sở (camellia sasanqua thunb) ở các tỉnh miền bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.81 KB, 85 trang )

Bộ Giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường Đại Học Lâm nghiệp
---------------------

Hoàng Thị Thanh

Nghiên cứu Bổ sung một số cơ sở khoa học
nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả
rừng trồng sở (Camellia sasanqua thunb)
ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam

Luận Văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Huy Sơn

Hà Tây - 2007


-1-

Đặt vấn đề
Sản xuất lâm nghiệp là một ngành kinh tế đặc thù và phát triển rừng bền
vững là vấn đề luôn được chú ý đặt lên hàng đầu. Thực trạng rừng và tài
nguyên rừng của nước ta cho đến những năm cuối của thế kỷ 20 bị suy giảm
nghiêm trọng cả về diện tích và chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu là do sự can
thiệp vô ý thức của con người, chặt phá bừa bÃi, đốt nương làm rẫy, và những
những tác động sai lầm khác trong các biện pháp kỹ thuật lâm sinh, kể cả các
chính sách kinh tế xà hội.


Đứng trước tình hình đó ngành Lâm nghiệp đà đưa ra những giải pháp
kịp thời nhằm bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Một trong những giải pháp
đó là nghiên cứu sử dụng những loài cây đa tác dụng, vừa đáp ứng nhu cầu sử
dụng đa dạng của con người vừa phát huy vai trò bảo vệ môi trường sinh thái
của rừng.
Cây Sở (Camellia sasanqua Thunb), thuộc chi Camellia, họ chè
(Theaceae), là loài cây nguyên sản của vùng nhiệt đới và á nhiệt đới như Việt
Nam, ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, ... Sở là loài cây đa tác dụng: hạt Sở
được dùng để ép dầu, một loại dầu thực vật có giá trị cao, có thành phần axit
béo tương đương với dầu Ô liu; bà Sở (còn gọi là khô Sở) và vỏ quả có thể
chiết dầu thô để sản xuất xà phòng hoặc tách bỏ độc tố làm thức ăn giàu đạm
cho gia súc. Ngoài ra, khô Sở còn được dùng làm thuốc trừ sâu, khử trùng rất
tốt cho các ao, hồ nuôi trồng thuỷ sản hay đem nghiền nhỏ có thể dùng làm
phân bón, Hơn nữa, Sở là loài cây sống lâu năm với hệ rễ và tán lá phát
triển, có biên độ sinh thái rộng nên phát huy rất tốt vai trò phòng hộ.
ở nước ta, Sở được chú trọng đưa vào gây trồng rộng rÃi từ những năm
1968 - 1970 ở nhiều vùng khí hậu, đất đai khác nhau từ các tỉnh biên giới phía
Bắc giáp với Trung Quốc tới Vĩnh Linh (Quảng Trị), tập trung chủ yếu ở các
tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Yên Bái, Hà Giang, Phú Thọ, Nghệ An, Địa


-2-

phương có phong trào trồng Sở nhiều nhất trước đây là Lạng Sơn lên tới hàng
chục nghìn ha.
Tuy nhiên, việc trång Së chđ u lµ theo kinh nghiƯm trun thèng mà
chưa có hướng dẫn kỹ thuật đầy đủ, năng suất Sở bình quân chỉ đạt được 1,6 2,0 tấn quả tươi/ha/năm. Vì thế, loài cây này chưa phát huy được vai trò tích
cực trong phát triển kinh tế cho các hộ trồng rừng. Ngoài ra, việc phát triển
loài cây này chưa được quan tâm đúng mức, thị trường tiêu thụ không ổn định,
đầu ra sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, hiện tại rất ít người quan

tâm đến việc phát triển loài cây này, diện tích trồng Sở ở các tỉnh miền Bắc
nước ta nhìn chung đà và đang giảm đi đáng kể. Có thể nói, công tác trồng và
phát triển loài cây này đang trên đà suy thoái và thậm chí thất bại nếu không
có giải pháp phát triển phù hợp.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, để góp phần thúc đẩy công tác trồng
rừng Sở, tác giả tiến hành thực hiện đề tài Nghiên cứu bổ sung một số cơ sở
khoa học nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả rừng trồng Sở (Camellia
sasanqua Thunb) ở các tỉnh miền Bắc - Việt Nam.
Luận văn này là một trong những nội dung của đề tài trọng điểm cấp Bộ
giai đoạn 2006 - 2010 do Ths. Nguyễn Quang Khải làm chủ nhiệm và tác giả
là cộng tác viên. Được sự đồng ý của chủ nhiệm đề tài, tác giả đà kế thừa các
mô hình thí nghiệm cũng như kết quả điều tra đánh giá thực trạng rừng trồng
Sở ở các tỉnh miền Bắc nước ta làm cơ sở hoàn thiện bản luận văn này.


-3-

Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
ở Việt Nam cũng như trên thế giới, việc nghiên cứu về đặc điểm cũng
như kỹ thuật gây trồng, chế biến sản phẩm từ Sở đà được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cøu tõ rÊt sím. Cã thĨ ®iĨm qua mét sè công trình nghiên
cứu điển hình ở trong và ngoài nước như sau:
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Phân loại và đặc điểm hình thái
1.1.1.1. Phân loại
Sở là tên gọi chung của các loài có hàm lượng dầu trong nhân tương
đối cao thuộc chi Camellia, hä Theacea (M· CÈm L©m, 2005) [46]. Theo
Marjan Kluepfel và Bop Polomski (1998) [34], chi Camellia có khoảng 220
loài và hơn 2300 giống đà được định danh. Trên thế giới có khoảng 33 loài
trong chi Camellia cung cấp dầu ăn có giá trị. Đồng thời, các dòng vô tÝnh cđa

Së nh­ Du trµ (C. oleifera) vµ Trµ mai (C. sasanqua) cã rÊt nhiỊu, theo thèng
kª cđa Chang Hung Ta và Bruce Bartholomew (1981) [24] thì có tới 503 dòng.
Như vậy, các nghiên cứu trên cho thấy chi Camellia rất lớn và Sở là tên chung
gồm nhiều loài và dòng khác nhau, việc phân loại C. sasanqua gặp rất nhiều
khó khăn, đà thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tên C. sasanqua lần đầu tiên được Kaempfer (1712) sử dụng khi
nghiên cứu về một loài có dầu thuộc chi Camellia (Dẫn theo Đặng Thái
Dương, 2001) [5]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu tác giả đà không mô tả về hình
thái loài cây này, nên công trình này chưa thực sự có ý nghĩa thực tiễn. Năm
1753, Linnaeus sử dụng tên C. sasanqua nhưng các mô tả lại giống với đặc
điểm của hai loài C. oleifera và C. japonica (Dẫn theo Đặng Thái Dương,
2004) [6]. Cũng trong một nghiên cứu khác, Thunberg (1784) đà giám định và
mô tả loài này nhưng đặc điểm hình thái chưa được mô tả chi tiÕt (DÉn theo
Ngun Quang Kh¶i, 2004) [12].


-4-

Hakoda (1987) [31] cho r»ng C. sasanqua Thunb thùc chÊt là tên gọi khác
của Thea sasanqua và cả hai có thể gọi theo tên chung là sasanqua Camellia.
Theo Samartin (1992) [35], loài được gọi là C. sasanqua (ở các nước
Châu Âu) và Tea seed oil (ở Nhật Bản) hay C. sasanqua oil (được gọi phổ
biến trên thế giới) đều là một và có tên chính xác là C. sasanqua Thunb.
Như vậy, cây Sở (C. sasanqua Thunb) được rất nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Hầu hết các tác giả đều thống nhất rằng C.
sasanqua Thunb là loài thuộc chi Camellia với đặc điểm đặc trưng nhất là có
dầu trong nhân, loài này có nhiều đặc điểm giống với các loài C. oleifera và
C. japonica nên việc phân loại thường hay nhầm lẫn.
1.1.1.2. Hình thái
Đặc điểm hình thái của loài Sở đà được rất nhiều nhà khoa học trên thế

giới quan tâm nghiên cứu như: Hakoda, N (1987) [28], Hakoda, N. & T.
Akihama (1988) [32], Marjan Kluepfel & Bop Polomski (1998) [37]. Các tác
giả đà chỉ ra rằng: C. sasanqua Thunb là loài cây bụi lớn hoặc cây gỗ nhỏ
thường xanh, cao khoảng 12 feet (3,7m); đường kính tán rộng từ 3-4m; lá hình
elip hoặc oval dài, màu xanh đen, bóng, rộng khoảng từ 3-5cm, lá non có lông
ở phiến lá, lá già có lông ở gân lá, mép lá hình răng cưa cùn; hoa màu trắng,
đường kính từ 5,1-7,5cm.
Mô tả cây Sở được trồng tại Trung Quốc của Tưởng Vạn Phương (1959)
[45]: cây Sở cao khoảng 5m, hình dáng giống cây chè lá, nhưng lá nhỏ hơn và xuất
hiện nhiều lông tơ nhỏ; hoa màu đỏ nhạt, đỏ thẫm hoặc màu trắng; quả chứa từ 1-4
hạt, vỏ quả mỏng, giữa các hạt có màng ngăn cách, hạt lớn, hình dáng hạt không
theo quy luật nhất định, hạt có màng nâu bên trong màu vàng nhạt.
Theo Chang Hung Ta vµ Bruce Bartholomew (1981) [21], C. sasanqua
Thunb cã hai dạng. Dạng thứ nhất lá nhỏ, dài từ 3-5,5cm; hoa nhá ®­êng kÝnh tõ


-5-

4-6cm; vòi nhuỵ xẻ 3; đường kính quả từ 2-3cm. Dạng thứ hai lá dài từ 3-7cm,
rộng từ 2-3cm; đường kính quả từ 2-3cm.
Các nghiên cứu tại Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc của các tác giả Chang
Hung Ta & Bruce Bartholomew (1981) [24]; Edward F. Gilmam & Dennis G.
Watson (1993) [25] và Hong, Y.S. (1988) [33] đà chỉ ra quan hệ gần gũi giữa
C. sasanqua với loài C. oleifera dẫn đến những đặc điểm hình thái rất giống
nhau giữa chúng, chỉ khác nhau là C. sasanqua có phiến lá nhỏ và mỏng hơn,
vòi nhuỵ ngắn hơn. Bên cạnh đó, hai loài này có phân bố địa lý và phân vùng
sinh thái giống nhau.
Khi so sánh giữa C. sasanqua và C. japonica, Endo-M & Iwasa-S (1990)
[26] vµ Tanaka-T (1988) [41] cịng cho thấy chúng có nhiều đặc điểm hình thái
rất giống nhau, điểm khác biệt là C. sasanqua có lá nhỏ và mỏng hơn lá của C.

japonica. Đặc điểm này dẫn tới nhiều trường hợp nhầm lẫn hai loài cây này trong
thực tiễn.
Điểm qua các nghiên cứu về hình thái của các tác giả trên thế giới cho
thấy, đặc điểm hình thái và phân loại loài Sở C. sasanqua Thunb đà được quan
tâm nghiên cứu tương đối chi tiết. Các nghiên cứu trên đà chỉ ra rằng loài Sở
C. sasanqua Thunb thuộc chi Camellia, họ Theacea là loài cây gỗ nhỏ thường
xanh, đường kính tán rộng từ 3-4m, lá hình elíp hoặc ovan dài, C. sasanqua
Thunb có hình thái rất giống với C. oleifera và C. japoneca, chỉ khác là các
bộ phận của C. sasanqua Thunb thường nhỏ hơn. Loài C. sasanqua Thunb
được mô tả trên đây chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
1.1.2. Đặc điểm phân bố và sinh thái học
1.1.2.1. Đặc điểm phân bố
Nghiên cứu đầu tiên về phân bố của loài Sở C. sasanqua Thunb được
Paul - H. Mensier (1957) [42] c«ng bè trong “ Tõ điển những loài cây có


-6-

dầu, theo tài liệu này Sở là loài nguyên sản ở vùng nhiệt đới (Đông - Nam á)
và vùng á nhiệt đới (Nhật Bản). Cũng đồng nhất quan điểm với Paul, Chang
Hung Ta (1981) [24] khẳng định chi Camellia phân bố ở các nước như: Trung
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Myama, Lào, Việt Nam, ấn Độ, Thái Lan, Hàn
Quốc, Nepal, Campuchia, Indonesia và Philipin. Theo Tưởng Vạn Phương
(1959) [45], Sở thường mọc tự nhiên ở Trung Quốc, Nhật Bản và ấn Độ, được
trồng nhiều ở vùng rừng núi hoặc trong vườn nhà nơi có khí hậu ấm áp.
Một công trình khác của Hakodo (1990) [28] lại cho rằng Sở có nguồn
gốc từ vùng Tây - Nam Nhật Bản. Hầu hết kết quả nghiên cứu trước đây về
loài Sở cũng cho rằng loài này phân bố tự nhiên ở Nhật Bản (DÉn theo Chu
T­¬ng Hång, 1988) [43].
Theo Chang Hung Ta (1981) [24], Jonh M. Ruter (1999) [35] vµ Paul H. Mensier (1957) [42] thì Sở đà được dẫn giống từ Nhật Bản về trồng ở Anh

từ năm 1879.
Tại Trung Quốc, Camellia phân bố rộng rÃi khắp các tỉnh từ Đông Nam
đến Tây Nam với hơn 190 loài (How Foon - Chew, 1984) [34]. Theo MÃ Cẩm
Lâm (2005) [46], tại Trung Quốc, cây Sở phân bố tự nhiên từ 180-340 vĩ độ
Bắc, ë ®é cao tõ 0-2000m. Theo Fang, J. (1994) [27], các nghiên cứu về mở
rộng vùng phân bố của Sở được tiến hành từ những năm 1960 đến 1970 ở
Trung Quốc do đà sớm nhận thức được giá trị to lớn mà loài cây này mang lại
cho con người.
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh thái học
Các nghiên cứu tại Trung Qc cho thÊy Së sinh tr­ëng tèt ë ®é cao
d­íi 500m so với mực nước biển. Tuy nhiên, ở độ cao 900m (An Huy), thËm
chÝ ë ®é cao 1700-2000m (Quý Châu, Vân Nam) cây vẫn sinh trưởng và ra
hoa kết quả bình thường (Tưởng Vạn Phương, 1959) [45].


-7-

Global - Mikhailenko - DA (1988) [29] ®· chØ ra rằng, tại tiểu bang
Georgia - Mỹ, tất cả các cây Sở được trồng ở độ cao trên 400m đều chết,
ngược lại, khi được trồng ở dưới 400m cây sinh trưởng tốt.
Theo MÃ Cẩm Lâm (2005) [46], Sở thích hợp với đất Feralit, tầng dày,
pHKCl 4,5-6,0, nhiệt độ bình quân hàng năm 16-210C, lượng mưa bình quân
năm 900-1800mm, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối -130C.
Các tác giả Chang Hung Ta & Bruce Bartholomew (1981) [24],
Hakoda, N. (1987) [31], Shanan H. & G. Ying. (1982) [40] cho r»ng, Së sinh
tr­ëng tèt ë nơi có nhiệt độ bình quân tháng thấp nhất trên 20C, chịu được
tuyết lạnh tới -100C, nhưng để đảm bảo cây sinh trưởng bình thường cần có
biện pháp chắn gió khô và lạnh vào mùa đông.
Sở là cây chịu bóng khi nhỏ, đến giai đoạn trưởng thành cây sinh
trưởng phát triển tốt nhất dưới điều kiện ánh sáng đầy đủ nhưng phải che phủ

gốc cây bằng lá hoặc vật liệu khác. Với vùng có ánh sáng nhiều, cần che bóng
vào buổi sáng để tránh hiện tượng héo lá (Edward F. Gilmam and Dennis G.
Watson, 1993 [22]; Marjan Kluepfel and Bop Polomski, 1998 [34], Shanan, H.
& G. Ying, 1982 [40] vµ Samartin, A, 1992 [38]).
ViƯn kü tht L©m nghiƯp Trung Qc (1984) đà kết luận rằng hầu hết
hoạt động sinh lý của cây đều cao vào ban ngày (đặc biệt là buổi sáng), riêng
với hoạt động trao đổi nước trong cây lại cao hơn vào ban đêm, cao nhất là
khoảng từ 0-3 giờ. Khả năng đề kháng sương giá của một sè loµi Së nh­ C.
japonica, C. sinensis, C. sasanqua tõ -18 đến -300C, trong đó nhiệt độ gây
chết đối với C. sasanqua là -240C (Dẫn theo Phạm Hoàng Hộ, 1991) [11].
2.1.3. Sinh trưởng và phát triển
Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và phát triển của Sở, Tưởng Vạn
Phương (1959) [45] nhận định: Sở sinh trưởng phát triển rất chậm, sản l­ỵng


-8-

quả hạt tỷ lệ thuận với tuổi cây, tức là tuổi cây càng cao thì cành nhánh càng
nhiều, sản lượng cũng tăng theo. Trong điều kiện bình thường thì chu kỳ sai
quả của Sở là hai năm, nếu chăm sóc và quản lý tốt thì năm nào cũng sai quả.
ở Nhật Bản, cây sinh trưởng liên tục quanh năm, trong cả mùa đông
giá lạnh có tuyết rơi. Sở có chu kỳ sống dài, tới hàng trăm năm. So sánh cho
thấy C. sasanqua Thunb sinh tr­ëng nhanh h¬n C. japonica (Kondo, 1986
[36], Marjan Kluepfel & Bop Polomski, 1998 [37], Samartin, A, 1992 [38]).
Nghiên cứu tại Trung Quốc của MÃ Cẩm Lâm (2005) [46] cho thÊy, chu
kú sèng cđa Së cã thĨ chia thành 4 giai đoạn: Giai đoạn non từ 0-4 năm tuổi,
từ khi hạt nảy mầm tới vụ ra hoa đầu tiên; giai đoạn bói từ 5-9 năm tuổi, từ khi
bắt đầu bói đến khi sai quả ổn định; giai đoạn trưởng thành từ 10-50 năm tuổi,
rất sai quả; giai đoạn già cỗi từ 50-100 năm tuổi, các mô suy thoái dần.
Khả năng ra hoa và năng suất quả phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nhiệt,

nhiệt độ thích hợp nhất từ 15-250C hoặc cao hơn. Thời kỳ ra hoa kéo dài từ
mùa hè tới mùa đông. Sở có thể ra hoa rÊt sím, ti ra hoa trung b×nh tõ 5-7,
thËm chÝ tõ 2-3 tuæi (Goi-M, 1982 [30]).
2.1.4. Kü thuËt tạo giống
2.1.4.1. Thu hái, bảo quản hạt giống
Theo Tưởng Vạn Phương (1959) [45] thì mùa quả chín thường vào
tháng 11-12, khi thu hoạch nên chọn thời điểm phù hợp không sớm cũng
không muộn quá, nếu thu hái sớm thì lượng dầu không đủ, nếu muộn vỏ quả
tự nứt ra làm hạt rơi xuống đất rất khó thu nhặt do hạt tối màu, lại tốn công
thu nhặt và cũng ảnh hưởng đến chất lượng dầu trong nhân. Khi thu hoạch
không nên dùng sào đập mà phải hái bằng tay để tránh xây xát cành và rụng
nụ hoa của vụ sau. Quả thu hái được phơi nắng nhẹ để lấy hạt. Hạt có thể đem
gieo trồng ngay hoặc bảo quản cho mùa sau. Phương pháp bảo quản là để hạt


-9-

vào trong nhà mát và thoáng khí, phía dưới rải lớp cát dày 10cm, sau đó rải hạt
Sở thành từng lớp để không khí lưu thông. Chú ý không dùng cát quá khô
hoặc quá ướt để tránh làm tăng hoặc giảm hàm lượng nước trong hạt.
Nghiên cứu về cây có dầu, Axtell - BL và Fairman - R.M (1992) cũng
đà nhận định thời gian thu hoạch quả, phương pháp bảo quản hạt sau khi thu
hoạch có ảnh hưởng rõ rệt đến hàm lượng và chất lượng dầu Sở (Dẫn theo
Nguyễn Quang Khải, 2004) [12].
2.1.4.2. Chọn giống
Sở có nhiều dòng, nhiều xuất xứ với sản lượng quả hạt, hàm lượng dầu khác
nhau, do đó khâu chọn giống là rất quan trọng. Theo Tưởng Vạn Phương (1959)
[45] thì chọn giống Sở bao gồm: chọn quần thể, chọn cây, chọn quả, chọn hạt.
- Chọn quần thể tức là chọn giống ở những vùng núi có hướng
dốc phía Đông và có những rừng Sở sinh trưởng tốt.

- Chọn cây là chọn những cây mẹ lấy giống phát triển mạnh, đÃ
sinh trưởng được 20-40 năm, cành nhiều, sản lượng cao, lá mượt, thân cây
bóng mượt, không bị sâu bệnh.
- Chọn quả là chọn những quả có vỏ mỏng, hạt to, màu nâu thẫm,
đáy quả bằng phẳng, không có sâu.
- Chọn hạt là chọn những hạt to, mẩy, vỏ có màu nâu và không sâu mọt.
Khi nghiên cứu biến dị và di truyền, Xiao - JZ, Zhao - SD (1983) nhận
định có sự khác biệt rõ ràng về hàm lượng dầu, số lượng quả ở các dạng tán,
dạng quả và thời gian ra hoa khác nhau (Dẫn theo Phạm Hoàng Hộ, 1991 [11]).
2.1.4.3. Nhân giống


-10-

Phương pháp nhân giống cho cây Sở đà được nhiều tác giả trên thế giới
quan tâm nghiên cứu. Có thể điểm qua một số nghiên cứu điển hình về các
phương pháp nhân giống cụ thể như sau:
* Phương pháp nhân giống bằng hạt:
Theo John M.Ruter (1999) [35], cần xử lý hạt trước khi gieo bằng cách
ngâm hạt trong nước ấm 400C khoảng 24 giờ.
Phạm Hoàng Hộ (1991) [11] lại cho rằng, với phương pháp không xử lý
hạt trước khi gieo cho tỷ lệ nảy mầm cao nhất, kết quả này đối lập với kết quả
nghiên cứu của John M.Ruter .
* Nhân giống bằng hom
Hai nghiên cứu khác của các tác giả Sanderson - KC, Patterson - RM
(1980) [39] và Global - Mikhailenko - DA (1988) [29] ®Ịu chØ ra thêi gian
giâm hom thích hợp nhất là tháng 10, đồng thời xử lý bằng IBA, NAA hoặc
ethephon trước khi giâm sẽ kích thích khả năng ra rễ của hom.
Các nghiên cứu trước đây ở Liên Xô cũ (Kômixarốp, 1964) về C.
japonica là loài có quan hệ gần gũi với C. sasanqua cho thÊy lÊy hom vµo thêi

kú kÕt thóc sinh tr­ëng cho tỷ lệ ra rễ cao nhất (có thể đạt tới 76%), còn lấy
hom vào thời kỳ sinh trưởng mạnh cho tû lƯ ra rƠ kÐm, cã khi kh«ng ra rƠ
(DÉn theo Ngun Hoµng NghÜa, 1997) [13].
Theo Fretz - TA (1972) [28], giá thể tốt nhất để giâm hom cho loài Sở
là hỗn hợp than bùn, vỏ cây thông xay nhỏ trộn với cát hoặc than bùn trộn với
cát trong điều kiện vô trùng.
* Nhân giống bằng phương pháp ghép
Tưởng Vạn Phương (1959) [45] cho rằng có thể sử dụng 2 phương pháp
chủ yếu là ghép mắt và ghép cây mầm. Các tháng trong năm đều thích hợp
cho việc ghép, trừ thời gian từ trung tuần tháng 3 đến trung tuần tháng 5.


-11-

* Nhân giống bằng phương pháp chiết cành
Theo John M.Ruter (1999) [35], có thể nhân giống Sở bằng phương
pháp chiết cành, nhưng phải sử dụng chất kích thích ra rễ như IBA hoặc NAA
ở nồng độ cao để kích thích cành ra rễ.
2.1.5. Kỹ thuật gây trồng
Theo Tưởng Vạn Phương (1959) [45], Sở có thể trồng bằng cây con
hoặc bằng phương pháp cắm cành vào thời điểm từ đầu đến giữa vụ xuân đều
cho tỷ lệ sống cao. Trong quá trình chăm sóc, có thể bón bằng các nguồn phân
xanh, phân gia súc, phân hóa học và khô Sở, việc bón phân thích hợp có thể
làm tăng sản lượng hạt Sở từ 25-38%.
Trần Liễu Hoa (1966) [44] cũng đà nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng Sở
với các phương pháp làm đất khác nhau. Thí nghiệm được tiến hành trên đất
vàng có độ dốc 150, pHKCl từ 5,5-6,0; với các phương pháp làm đất toàn bộ,
cục bộ và bậc thang rộng 1m; trong đó phương pháp làm đất toàn bộ được chia
thành hai công thức: cày sâu 40cm và sâu 30cm, phương pháp làm đất bậc
thang chia thành hai công thức: cày sâu 60cm và 30cm. Kết quả thí nghiệm

cho thấy phương pháp làm đất toàn bộ và bậc thang cho sinh trưởng và sản
lượng hạt cao hơn hẳn so với phương pháp cục bộ, cá biệt có năm sản lượng
hạt ở phương pháp làm đất toàn bộ cao gấp 8 lần so với phương pháp làm đất
cục bộ. Tác giả cũng chỉ ra rằng phương pháp làm đất toàn bộ kết hợp với
trồng cây nông nghiệp đà nâng cao khả năng sinh trưởng và sản lượng của
rừng Sở.
Về thâm canh rừng Sở, tác giả Mà Cẩm Lâm (2005) [46] đà đề cập một
số biện pháp kỹ thuật nhằm làm tăng năng suất quả hạt như:
- Kỹ thuật ghép thay tán (ghép cải tạo) và ghép mầm nhằm tạo
nguồn giống có chÊt l­ỵng cao.


-12-

- Kỹ thuật xén tỉa tạo tán có thể là tăng năng suất quả từ 36,739,5% và giảm tỷ lệ sâu bệnh hại tới 24,7%.
- Nhu cầu phân bón cho mỗi 100kg cành, lá là 0,9kg N, 0,22kg P
và 0,28kg K; mỗi 100kg quả cần 1,11kgN, 0,85kg P và 3,43kg K.
- Tưới nước phù hợp có thể làm tăng sản lượng quả từ 15-27,6%,
giảm tỷ lệ rụng quả non từ 11,4-25,5%. Thời điểm tưới là khi lượng nước
ngậm trong đất giảm xuống còn 65-70% và khi nồng độ dịch bào trong lá lên
tới 15-17%.
- Thúc đẩy thụ phấn tự nhiên cho Sở bằng kỹ thuật dẫn dụ ong có
thể tăng tỷ lệ đậu quả từ 1,23% lên tới 19,7-20,5%.
Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra một số biện pháp cải tạo rừng Sở năng suất thấp
như phát dọn dây leo bụi rậm, tỉa thưa để lại độ tàn che và mật độ phù hợp, tỉa
cành nhánh, cày để cải tạo tính chất lý hoá đất, bón phân hợp lý (căn cứ vào
tính chất đất), cải tạo cây năng suất chất lượng kém bằng phương pháp ghép
thay tán.
2.1.6. Chế biến, lợi dụng các sản phẩm từ quả Sở
Tưởng Vạn Phương (1959) [45] đà đưa ra một số phương pháp chế

biến dầu sở: ép dầu hạt Sở bằng máy ép vít 1 tấn, tách dầu bằng phương pháp
thay nước, tinh chế dầu Sở bằng phương pháp thay nước - dung dịch. Ngoài ra,
tác giả còn nêu rõ việc dùng khô Sở và những cặn bà khi tinh chế Sở bằng
phương pháp thay nước - dung dịch để chế tạo Saponin (C73H124O36) có thể
dùng làm thuốc trừ sâu, thuốc giặt quần áo, làm dầu gội đầu, xà phòng và làm
thuốc tạo bọt ( trong bình cứu hỏa).
Khi nghiên cứu về các cây có dầu, Axtell - B.L và Fairman - R.M
(1992) đà xác định được thành phần các axit béo trong dầu Sở, phương pháp
chế biến chưng cất tinh dầu, các sản phẩm đầu ra cũng như thiết bị chế biến


-13-

phục vụ công nghiệp chế biến sản phẩm từ quả Sở (Dẫn theo Nguyễn Quang
Khải, 2004) [12].
Nghiên cứu của MÃ Cẩm Lâm (2005) [46] cho thấy, các sản phẩm từ
Sở rất phong phú, giá trị sử dụng cũng như giá trị kinh tế cao, dầu tinh luyện
từ quả Sở có thể được dùng làm dầu ăn, sản xuất mỹ phẩm (sử dụng trong
kem chống nắng, kem massage, dầu thơm,), chế phẩm y tế, hay trong công
nghiệp (dầu thuỷ lực, dầu bôi trơn, diesel sinh học, ). ở Trung Quốc, dầu
Sở được coi là một trong những nguồn cung cấp dầu ăn quan trọng bởi giá trị
dinh dưỡng cao, trồng và chế biến dầu ăn từ cây Sở có ý nghĩa quan trọng
nhằm giảm lượng nhập khẩu dầu ăn hàng năm của nước này.
2.2. ở Việt Nam
2.2.1. Phân loại và đặc điểm hình thái
Hiện nay, nghiên cứu phân loại và giám định tên khoa học cây Sở ở
nước ta được xem là vấn đề gây nhiều tranh cÃi, chưa có sự thống nhất. Các
công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này còn ít, chủ yếu là trích dẫn
các tài liệu đà có ở ngoài nước. Có thể điểm qua một số công trình điển hình
như sau:

2.2.1.1. Phân loại
Theo Nguyễn Hữu Hiến (1994) [10], Nguyễn Tiến Bân (1997) [23], ở
Việt Nam có 37 loài thuộc chi Camellia (họ Theacea) được phân thành 4
nhóm: Chè, Trà mai, Hải đường và Sở.
Khi nghiên cứu về các loài cây đặc sản, Phạm Văn TÝch (1963) [18]
kÕt ln ë n­íc ta cã hai lo¹i Së: Thea sasanqua vµ Thea aleosa.
Theo Chang Hung Ta (1981) [24] thì chi Camellia ở Việt Nam có 26
loài, trong ®ã cã loµi C. vietnamensis.


-14-

Nguyễn Tiến Hải (1997) [9], Ngô Quang Đê (2001) [7], Trần Quang
Việt (2002) [21] cho rằng Sở có tên khoa học là C. oleifera Abel.
Khi nghiên cứu ở Việt Nam, tác giả người Pháp Paul - H. Mensier
(1957) [42] đà khẳng định loài cây Dầu Sở (hay cây Sở) ở đây chính là C.
sasanqua Thunb.
Tài liệu Tên cây rừng Việt Nam của Vụ Khoa học công nghệ và chất
lượng sản phÈm (2000) [22] cho thÊy ë ViÖt Nam cã hai loài Sở là C. oleifera
phân bố ở Đông Bắc Bộ và C. sasanqua phân bố ở Bắc Trung Bộ. Theo Tỉng
cơc c©y trång (1973) [19], ë n­íc ta cã hai loài Sở C. sasanqua Thunb và C.
aleosa Rehd.
Phạm Hoàng Hộ (1991) [11] đà xếp cây sở Camellia Sasanqua Thunb
(tên khác lµ Trµ mai) thc hä chÌ (Theaceae), bé chÌ (Theales).
Theo Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001) [14], Sở là tên chung, thông dơng
cho nhiỊu loµi cïng nhãm Camellia thc hä chÌ (Theaceae) nh­ C. oleifera
Abel, C. aleosa Rehd, C. sasanqua Thunb.
Nghiªn cøu của Vũ Lữ (2001) cho rằng cây Sở mọc tự nhiên ở Yên
Bái, Phú Thọ, Lạng Sơn chính là loài C. sasanqua Thunb (DÉn theo Ngun
Quang Kh¶i, 2004 [12]).

Khi kh¶o sát hàm lượng dầu của một số mẫu hạt thu được từ Bắc Bộ
đến Bắc Trung Bộ, Nguyễn Quang Khải (2004) [12] đà xác định tại Việt Nam
có hai loài Sở phân bố tự nhiên là C. oleifera C. Abel và C. sasanqua Thunb,
trong đó:
- C. oleifera C. Abel (tên th­êng gäi lµ Du trµ, Së hay Së Cam,
Së Quýt, Sở Lê,) có phân bố tự nhiên và được gây trồng chủ yếu ở các tỉnh
Bắc Bộ từ lâu đời.


-15-

- C. sasanqua Thunb (tên thường gọi là Sở, Trà mai, Chè dầu, Sở
dầu) phân bố tự nhiên và được gây trồng ở các tỉnh từ Thanh Hoá đến Thừa
Thiên - Huế.
Như vậy, vấn đề phân loại Sở ở Việt Nam đà có một số tác giả quan
tâm nghiên cứu từ những năm 1960 đến nay. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống
nhất về tên khoa học của loài cây Sở ở nước ta, có 4 tên thường được dùng lµ
C. sasanqua Thunb, C. oleifera, C. aleosa Rehd, C. vietnamensis.
2.2.1.2. Đặc điểm hình thái
Đặc điểm hình thái loài Sở C. sasanqua Thunb được Phạm Hoàng Hộ
(1991) [11] mô tả là cây gỗ nhỏ, cao từ 5-7m, cành không có lông và mảnh,
vỏ xám; phiến lá bầu dục tương đối nhỏ kích thước từ 3-7 x 1-3cm, dầy,
không có lông, gân nổi rõ 2 mặt, mảnh, cuống ngắn 2- m; hoa tương đối nhỏ
rộng 4cm, mùi thơm, màu trắng, hoa thường ở đầu cành, lá đài tròn cao 1cm,
cánh hoa cao 17mm, tiểu nhụy nhiều chỉ đính nhau ở đáy, noÃn sào có lông,
vòi nhụy 3, nang to cao 3cm; quả bì dày cứng, 2-3 hạt mỗi ô.
Võ Văn Chi (1977) [3] cũng đà mô tả và phân loại cây Sở với các bộ
phận, kích thước và hình dạng giống như Phạm Hoàng Hộ đà mô tả và phân
loại nêu trên. Tác giả đà khẳng định Sở là loài cây phân bố tự nhiên ở Việt
Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Ngoài ra, ông cũng mô tả cây Sở dầu, Du trà,

Chè dầu (Camellia oleifera C.Abel) có các bộ phận và hình dạng tương tự như
cây Sở C. sasanqua Thunb, nhưng kích thước, số lượng của các bộ phận đều
lớn hơn nhiều so với cây Sở C. sasanqua Thunb.
Khi nghiên cứu về giống và giải pháp phát triển cây Sở ở Việt Nam,
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001) [14] cũng đà đề cập tổng quát về một số đặc
điểm hình thái của cây Sở. Theo tác giả, Sở là loài cây gỗ nhỏ thường xanh
cao từ 4-6m; hoa lưỡng tính, màu trắng, rất nhiều nhị; lá từ dạng to, bầu tới
các dạng nhỏ, dài, màu sắc lá từ xanh thẫm tới vàng nhạt; chåi th­êng cã mµu


-16-

vàng nhạt, nâu hay màu đỏ tươi, đỏ thẫm; quả tròn hơi dẹt, tự nứt vỏ khi chín,
quả có nhiều biến dị về hình thái như kích thước, màu sắc, hình dạng quả, theo
hình dạng quả có thể chia thành 4 dạng là Sở Quýt, Sở Cam, Sở Chè, Sở Lê.
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó và kết quả giám
định loài, Nguyễn Quang Khải (2004) [12] đà bổ sung một số đặc điểm hình
thái của loài Sở: Sở là cây gỗ nhỏ, lá rộng thường xanh, một gốc trưởng thành
có từ 3-5 thân, không ph©n biƯt th©n chÝnh hay th©n phơ. C©y th­êng cao
trung bình từ 5,5-6,0m, cây cao nhất đạt từ 7,5-8,0m. Vỏ cây màu xám hoặc
nâu. Lá đơn mọc cách, cuống ngắn, mép lá có răng cưa nhỏ. Có sự khác nhau
rõ rệt về hình dạng, kích thước, màu sắc của lá giữa các cá thể. Tán cây khá
dày do nhiều thân tạo nên, tán cây có nhiều dạng: hình ô, hình trứng, hình
nón, hình tháp, hình trụ, Hoa lưỡng tính, màu trắng, thường có từ 5-7 tràng,
35-40 nhị màu vàng, bầu hạ 3-4 ô. Quả có dạng hình tròn, hơi thuôn dài hay
dẹt ở cuống và đuôi quả, nhìn chung có sự khác nhau rõ rệt về hình dạng, kích
thước và trọng lượng quả giữa các xuất xứ, các cá thể khác nhau. Sở có hệ rễ
phát triển mạnh, rễ cọc đâm sâu tới 1,5m; rễ bàng phân nhánh và phát triển
mạnh, thường phân bố ở độ sâu 20-40cm, chiều dài rễ bàng bình quân tới 33,5m; ngoài ra, còn có nhiều rễ phụ, rễ cám phát triển dày đặc ngay trên mặt
đất.

2.2.2. Đặc điểm phân bố và sinh thái học
2.2.2.1. Đặc điểm phân bố
ở Việt Nam, chi Camellia nói chung phân bố trải rộng từ các tỉnh Cao
Bằng, Lạng Sơn (giáp biên giới Việt - Trung ở phía Bắc) đến những tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế; trải dài từ 17,000-23,210 vĩ Bắc.
Theo độ cao, Sở phân bố tự nhiên ở những vùng có độ cao tuyệt đối từ 10-15m
(như Quỳnh Lưu - Nghệ An) đến 1529m (như Sìn Hồ - Lai Châu). ở một số rú
cát thuộc các tỉnh ven biển miền Trung (như Lệ Thuỷ (Quảng Bình), VÜnh


-17-

Linh (Quảng Trị), Thừa Thiên - Huế) nơi có độ cao chØ vµi mÐt so víi mùc
n­íc biĨn (Ngun Quang Khải (2004) [12]). Theo Đặng Thái Dương (2001)
[5], Sở không chỉ phân bố ở các tỉnh phía Bắc nước ta mà còn mọc tự nhiên ở
A Lưới và trồng thành rừng ở Hương Trà (Thừa Thiên - Huế).
2.2.2.2. Đặc điểm sinh thái học
Kết quả điều tra của Nguyễn Quang Khải (2004) [12] cho thấy:
- Sở là cây ưa ấm và ẩm, nhiệt độ bình quân năm từ 15,90C (Sìn
Hồ - Lai Châu) đến 24,80C (Quảng Trị). Lượng mưa bình quân năm từ
1391mm (Lạng Sơn) đến 2783mm (Sìn Hồ), độ ẩm không khí trung bình năm
từ 80-85%, độ ẩm thích hợp trong thêi kú ra hoa tõ 65-70%, trong thêi kú
nu«i quả từ 80-85%. Tổng số giờ nắng bình quân năm từ 1500 giờ trở lên.
- Sở không kén đất, có khả năng thích nghi được trên các vùng
đất bạc màu, đất trống đồi núi trọc, đất thoái hoá khô cằn. Sở sinh trưởng phát
triển tốt nhất trên các vùng đất cát pha, đất Feralit đỏ vàng, đất rừng mới khai
phá có tầng đất sâu, thoát nước như các dạng đồi núi thấp, sườn đồi thoải hoặc
ven chân đồi, độ dốc không quá 250. Độ pH thích hợp từ 4-5, thành phần cơ
giới cát pha hoặc thịt nhẹ. Đất phù sa, đất úng nước hay đất có thành phần cơ
giới thịt nặng không phù hợp cho cây Sở.

2.2.3. Sinh trưởng và phát triển
Theo Nguyễn Quang Khải (2004) [12], Sở sinh trưởng chậm trong
những năm đầu (1-4 năm), sau đó tốc độ sinh trưởng nhanh hơn. Cây trồng
trên đất tốt sau 5 năm bắt đầu ra hoa kết quả, nhưng sản lượng quả và hạt chỉ
ổn định khi cây từ 15 năm tuổi trở lên. Cây sống lâu năm, thậm chí đến 100
năm (Vĩnh Linh - Quảng Trị) vẫn cho thu hoạch quả nếu được quản lý chăm
sóc tốt. Sở ra hoa vào giữa tháng 10 đến tháng 12 hàng năm, trong thời gian
này hoa và quả cùng tồn tại trên cây. Sở có khả năng tái sinh chồi và hạt, đặc
biệt là tái sinh chồi rất mạnh.


-18-

Theo Phạm Văn Tích (1963) [18], Trần Quang Việt (2002) [21] cho
thÊy Së ra hoa tõ th¸ng 10 - 11 và quả chín từ tháng 10 - 11 năm sau. Khi quả
chín vỏ quả chuyển từ màu xanh sang màu nâu.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nghĩa và Đoàn Thị Bích (1990)
[15] cũng cho thấy Sở có khả năng ra hoa kết quả ở giai đoạn 5-6 tuổi và sản
lượng quả hạt chỉ ổn định từ tuổi 15 trở lên.
Khi nghiên cứu khả năng gây trồng Sở ở khu vực Bình Trị Thiên, Đặng
Thái Dương (2004) [6] đà xác định thời kỳ hình thành và phát triển nụ hoa tập
trung từ tháng 4 đến tháng 10, khi hạt của năm trước rụng xuống đất cũng là
lúc búp hoa sinh trưởng nhanh (phình to ra) và búp lá bắt đầu nở thành lá non,
khi búp lá nở hoàn toàn thì hoa bắt đầu nở. Hoa nở tập trung trong thời gian từ
20/10 đến 30/11 tuỳ thuộc vào điều kiện lập địa của từng khu vực, sau khoảng
một tháng toàn bộ hoa trên cây tàn. Ngoài ra, tác giả còn cho thấy tái sinh
chồi là một đặc điểm nổi bật của cây Sở, bất kể chiều cao gốc chặt cao hay
thấp, ®­êng kÝnh gèc chỈt lín hay nhá ®Ịu cã sè lượng chồi tái sinh rất lớn.
2.2.4. Kỹ thuật nhân giống
Theo h­íng dÉn kü tht cđa Bé N«ng nghiƯp (1973) [1], có thể nhân

giống Sở bằng nhiều phương pháp, trong đó gieo hạt thẳng và gieo ươm tạo
cây con có bầu rồi đem trồng là có hiệu quả kinh tế hơn, tiết kiệm nhân vật
lực, còn hai phương pháp chiết cành và giâm cành cần được khảo nghiệm
thêm.
* Chọn cây mẹ lÊy gièng
Theo Tỉng cơc c©y trång (1973) [19], cã thĨ chọn lọc cây Sở làm giống
dựa vào 4 đặc điểm: vườn tốt, cây tốt, quả tốt và hạt tốt.
Theo Nguyễn Hoàng Nghĩa và Đoàn Thị Bích (1990) [15], không thể
chọn giống Sở có năng suất cao bằng việc chọn các dạng Sở mà phải chọn từ


-19-

những cây sai quả trong các quần thể đồng tuổi do có sự biến dị lớn về phẩm
chất của các cây trong cùng một quần thể.
Nguyễn Quang Khải (2004) [12] đà nghiên cứu về giống Sở tại Nghĩa Đàn Nghệ An và chọn được một số dòng Sở có sản lượng hạt và tỷ lệ dầu cao (N1, N6, N8).
* Kỹ thuật tạo cây con
Ngô Quang Đê, Nguyễn Mông Mênh (1981) [8] đà đề cập phương pháp
tạo cây con từ hom: chọn cây mẹ 20-30 tuổi, nhiều dầu để lấy hom. Chọn
cành 1-2 tuổi, đường kính từ 0,1-0,2cm. Cắt hom dài từ 5-10cm có 2-4 mắt.
Đất cắm hom cần tơi xốp, làm đất kỹ, bón phân đầy đủ. Sau khi cắm hom tưới
nước thường xuyên, mỗi ngày hai lần. Sau khoảng hơn một tháng thì hom ra
rễ. Hom lấy từ cành 1 tuổi có tỷ lệ sống cao hơn từ cành 2-3 tuổi.
Nguyễn Hoàng Nghĩa và Đoàn Thị Bích (1990) [15] đà nghiên cứu một
số loại thuốc kích thích ra rễ, thời gian, nồng độ thuốc và thời vụ giâm hom
cho cây Sở vùng Lạng Sơn. Kết quả cho thấy c©y Së cã thĨ nh©n gièng b»ng
hom víi tû lƯ ra rễ cao, trong đó sử dụng hai loại chất kích thích NAA và IBA
để sản xuất tạo cây hom đại trà từ những cây trội cho tỷ lệ ra rễ bình quân 72%,
số rễ bình quân cao gấp 2-3 lần so với đối chứng. Thời vụ giâm hom tốt nhất vào
các tháng mùa hè (tháng 5, 6 và 7). Sở có thể tạo cây con từ hạt bằng cách

ngâm hạt trong nước là từ 12-24 giờ sau đó đem gieo trực tiếp theo rạch trong
vườn ươm, hoặc gieo trong cát ẩm sau 28-30 ngày hạt nảy mầm đem cấy vào
bầu Polyetylen kích cỡ 8x18cm, đặt trong vườn ươm chăm sóc nuôi dưỡng đủ
từ 18 tháng trở lên rồi đưa đi trồng.
Đặng Thái Dương (2004) [6] đà thử nghiệm 2 chất điều hoà sinh trưởng
là NAA và IBA với các nồng độ: 300ppm; 400ppm; 500ppm và 600ppm để xử
lý hom Sở giâm trong nhà và ngoài trời. Kết quả cho thấy Sở vùng cát có thể
nhân giống sinh dưỡng bằng hom. Xử lý hom trước khi giâm bằng chất điều
hoà sinh trưởng NAA hoặc IBA ở nồng độ từ 300ppm-600ppm, gi©m hom trong


-20-

nhà hoặc ngoài trời đều cho tỷ lệ ra rễ cao (trên 70%), các công thức này đều
đạt hiệu quả kinh tế. Trong đó công thức xử lý bằng NAA nồng độ 500ppm và
giâm hom trong nhà là cao nhất.
2.2.5. Kỹ thuật gây trồng
Đặng Văn Nuôi (1997) [16] đà trồng thử nghiệm giống Sở cành mềm
Trung Quốc tại Sìn Hồ - Lai Châu với các biện pháp kỹ thuật như nhau ở 2
khu vực có độ cao khác nhau: dưới 700m và trên 800m. Cự ly trồng 42,5m;
kích thước hố 0,6m0,4m0,4m; bãn lãt 200kg NPK/ha. KÕt qu¶ cho thÊy tû
lƯ sống và tốc độ sinh trưởng tại khu vực có ®é cao d­íi 700 ®Ịu cao h¬n ë
khu vùc cã độ cao trên 800m .
Nguyễn Quang Khải (2004) [12] đà đánh giá kết quả trồng thử nghiệm
giống Sở cành mềm Trung Quốc và giống Sở Việt Nam tại 5 địa điểm: Hoà
Bình, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thanh Hoá và Lai Châu. Kết quả cho thấy tỷ lệ
sống cả hai giống khá cao (55 - 92%), nhưng Sở cành mềm sinh trưởng kém,
tỷ lệ ra hoa kết quả thấp hơn giống Sở Việt Nam khi trồng trên cùng một lập
địa. Đồng thời, tác giả cũng thử nghiệm các biện pháp thâm canh giống Sở
Nghĩa Đàn (Nghệ An) tại Đại Lải (Vĩnh Phúc). Kết quả bước đầu cho thấy

công thức bón lót 3kg phân chuồng và 0,2kg NPK/cây cho sinh trưởng và tû lƯ
ra hoa kÕt qu¶ cao nhÊt.
Theo h­íng dÉn kü thuật trồng một số cây công nghiệp của Bộ Nông
Nghiệp (1973) [1] đà chỉ ra thời vụ trồng Sở vào tháng 2-3 và 9-10, cần đào hố
trước khi trồng 1 tháng, bón lót trước khi trồng và bón thúc mỗi năm 1 lần,
trong quá trình chăm sóc cần làm cỏ xới đất, sửa cành tạo tán và phòng trừ sâu
bệnh.


-21-

2.2.6. Thu hoạch, chế biến lợi dụng các sản phẩm từ Sở
Thu hoạch chế biến là khâu quan trọng trong kinh doanh rừng Sở, thu
hoạch đúng thời vụ, bảo quản tốt sau thu hoạch và phương pháp chế biến phù
hợp sẽ nâng cao năng suất chất lượng dầu Sở rõ rệt.
Theo kết quả nghiên cứu của Chi cục phát triển Lâm nghiệp tỉnh Nghệ
An (1997) [2], muốn thu được hạt tốt để ép dầu nên dọn sạch cỏ dưới tán rừng
trước mùa quả chín và thu hoạch hạt trên mặt đất.
Trong chế biến quả hạt, Vũ Thị Đào (1997) đà xác định được công nghệ
tinh chế dầu Sở thành dầu ăn chất lượng cao và công nghệ tách Saponin từ khô
Sở (Dẫn theo Nguyễn Quang Khải, 2004) [12].

Thảo luận
Các công trình nghiên cứu về cây Sở trên thế giới cũng nh­ ë ViƯt Nam,
bao gåm nhiỊu lÜnh vùc tõ nghiªn cứu đặc điểm hình thái, đặc điểm sinh thái
học, kỹ thuật gây trồng, chế biến và bảo quản quả hạt, v.v.. đà cung cấp nhiều
thông tin quan trọng cho công tác gây trồng và phát triển cây Sở.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên vẫn còn hạn chế, đặc biệt kỹ
thuật gây trồng như thế nào để nâng cao năng suất và hiệu quả của rừng trồng
thì hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách toàn diện

và có hệ thống. Đồng thời, cũng chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiện trạng
trồng rừng cũng như hiệu quả của các mô hình rừng trồng Sở để đề xuất các
giải pháp phát triển có hiệu quả rừng trồng Sở ở các địa phương. Đó cũng là
những tồn tại của các công trình nghiên cứu trước đây cả ở trong và ngoài
nước. Vì vậy, nghiên cứu bổ sung cơ sở khoa học nhằm nâng cao năng suất và
hiệu quả rừng trồng Sở là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm nghiên cứu.


-22-

Chương 2
Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp Nghiên cứu
2.1. Mục tiêu:
2.1.1. Mục tiêu chung:
Bổ sung một số cơ sở khoa học nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả
rừng trồng Sở ở một số tỉnh Miền Bắc.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Xác định được thực trạng rừng trồng Sở hiện có ở các tỉnh miền Bắc
nước ta.
- Xác định được một số biện pháp kỹ thuật thâm canh có hiệu quả nhằm
nâng cao năng suất rừng trồng Sở.
- Đánh giá được hiệu quả tổng hợp của một số mô hình rừng trồng Sở
hiện có.
- Đề xuất một số giải pháp kinh tế - kỹ thuật để nâng cao năng suất và
hiệu quả tổng hợp của rừng trồng Sở.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
- Rừng trồng Sở được trồng trong nhân dân và các chương trình nghiên
cứu trước ở các tỉnh miền Bắc nước ta.
- Một số mô hình rừng trồng Sở phổ biến ở xà Nghĩa Lộc huyện Nghĩa

Đàn tỉnh Nghệ An.
- Mô hình thí nghiệm trồng rừng Sở thâm canh từ tháng 4/1999 tại
Trung tâm khoa học và sản xuất Lâm nghiệp, Đại Lải - Vĩnh Phúc.
2.2.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một
số nội dung sau: Đánh giá thực trạng rừng trồng Sở hiện có ở các tỉnh miền
Bắc, trên cơ sở đó nghiên cứu hiệu quả tổng hợp của các mô h×nh rõng trång


-23-

Sở điển hình trong sản xuất; Nghiên cứu kỹ thuật thâm canh chỉ tập trung
nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu. Trên cơ sở đó
đề xuất một số giải pháp kinh tế - kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và hiệu
quả rừng trồng Sở ở các tỉnh miền Bắc nước ta.
2.3. Nội dung nghiên cứu:
2.3.1. Đánh giá thực trạng rừng trồng Sở ở các tỉnh miền Bắc
- Diện tích trồng rừng Sở.
- Kỹ thuật gây trồng Sở.
- Tình hình sinh trưởng, phát triển của rừng trồng Sở.
- Khả năng tái sinh tự nhiên của cây Sở dưới tán rừng trồng.
- Năng suất quả hạt của rừng trồng Sở.
2.3.2. Nghiên cứu bổ sung một số biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng Sở
- ảnh hưởng của biện pháp bón phân đến sinh trưởng và năng suất quả.
- ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng và năng suất quả.
- ảnh hưởng của cây phù trợ đến sinh trưởng và năng suất quả.
2.3.3. Đánh giá hiệu quả tổng hợp của một số mô hình rõng trång Së
- HiƯu qu¶ kinh tÕ
- HiƯu qu¶ x· hội
- Hiệu quả môi trường sinh thái

- Hiệu quả tổng hợp và đề xuất mô hình có hiệu quả
2.3.4. Đề xuất một số giải pháp kinh tế - kỹ thuật nâng cao năng suất và
hiệu quả rừng trồng Sở
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu tổng quát
- Kế thừa các số liệu có liên quan thuộc đề tài cấp Bộ mà tác giả là cộng
tác viên.


-24-

- Điều tra khảo sát theo tuyến điển hình kết hợp với các phương pháp
phỏng vấn, phương pháp điều tra nhanh có sự tham gia của người dân để đánh
giá thực trạng và hiệu quả rừng trồng Sở hiện có.
- Bố trí thí nghiệm ngoài hiện trường kết hợp với phương pháp phân tích
trong phòng thí nghiệm để định lượng các chỉ tiêu cần thiết. Thí nghiệm được bố
trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ ba lần lặp, dung lượng mẫu đủ lớn (n30 cây).
- Thu thập và xử lý số liệu theo phương pháp thống kê sinh học có sự
trợ giúp của phần mềm Excel và SPSS.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.4.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
* Kỹ thuật trồng rừng thí nghiệm
- Phương pháp làm đất: cày ngầm toàn bộ bằng lưỡi cày ngầm, sau đó
cày rạch theo đường đồng mức (cự ly 2m, độ sâu trung bình 35-40cm), cuốc
hố trên rạch cày kích thước 40cmx40cmx40cm.
- Phương pháp trồng: trồng bằng cây con có bầu, 18 tháng tuổi, chiều
cao trung bình 0,3m, đường kính gốc 0,35cm.
- Nguồn giống: từ các cây Sở chè (C. sasanqua Thunb) sai quả có hàm
lượng dầu cao, xuất xứ Nghĩa Đàn - Nghệ An.
- Thời vụ trồng: tháng 4/1999.

- Chăm sóc và theo dõi thí nghiệm: mỗi năm chăm sóc 2 lần kết hợp
bón thúc 100g NPK/cây cho toàn bộ khu thí nghiệm; thu thập số liệu theo
định kỳ trên các ÔTC định vị, dung lượng mẫu 30-35 cây/ô.
* Nội dung thí nghiệm
- Thí nghiệm bón phân
Thí nghiệm gồm 4 công thức:
Công thức 1 (BP1): Bón 3kg phân chuồng/cây
Công thức 2 (BP2): Bãn 0,4kg NPK/c©y


×