Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Những giá trị cơ bản của các tư tưởng chính trị triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.16 KB, 40 trang )

[1]

HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỌC PHẦN LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
THẾ GIỚI
TIỂU LUẬN
NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA CÁC TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ HY LẠP – LA MÃ CỔ
ĐẠI
Giảng viên hướng dẫn: Công Thị Phương
Nga
Sinh viên: Nguyễn Thị Tường Vi
Lớp : K03.CTH
MSSV: 182010051


[2]

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020.

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài “ Những
giá trị cơ bản
của các tư tưởng chính trị triết học Hy Lạp và La Mã cổ
đại”, em đã
nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cơ
Học viện cán
bộ thành phố Hồ Chí Minh để hồn thành bài tiểu luận
này.



Em xin chân thành cảm ơn GVBM: Công Thị Phương
Nga, đã giúp
đỡ và hướng dẫn emtận tình trong suốt thời gian viết tiểu
luận, tạo cho
em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận vấn đề,
phân tích giải
quyết vấn đề. Nhờ đó mà em hồn thành bài tiểu luận của
mình được tốt
hơn. Em xin cảm ơncác bạn bè, anh chị đã tận tình chỉ
bảo, giúp đỡ em


[3]

trong q trình hồn thành bài tiểu luận, tạo cho em
những hiểu biết
thêm về kiến thức thực tế.

Mặc dù đã có những cố gắng trong suốt q trình
thức hiện đề tài,
song có thể cịn những mặt hạn chế thiết sót. Em rất
mong nhận được ý
kiến đóng góp và sự chỉ dẫn của các thầy cô giảng viên
và bạn bè....
......tháng 01 .năm 2020
Nguyễn Thị Tường Vi

NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN




Đánh giá:………………………………………………………

…………………………………………………………………….
…………………………………………………………………….
…………………………………………………………………….


[4]

……………………………………………………………………


Nhận xét:………………………………………………………

..........................................................................
...............................
………………
………………

Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2020

TS. Cơng Thị Phương
Nga


[5]


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ
cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm
hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện
vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ
đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các
nước khác. Triết học được xem là một hình thái ý thức xã
hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của
tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế
giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Phương Tây nói chung và
Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống triết học thế giới.
Đối tượng của triết học phương Tây nói chung ngồi phần
siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như bản
thể, ý thức, hư vơ... cịn lại là những hành trình vào các
vấn đề cụ thể có liên quan tới con người như cảm giác,
nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức…. Các vấn đề về
con người như con người tri thức thế giới xung quanh như
thế nào, vai trị của con người trong q trình nhận thức


[6]

như thế nào… hay những vấn đề và xã hội như quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, ai quan trọng hơn, đạo đức là vấn
đề xã hội hay vấn đề cá nhân, quan hệ giữa cá nhân và
nhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia
phương Tây.

Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và những đặc điểm cơ bản của
từng giai đoạn phát triển triết học phương Tây là cơ sở để
làm rõ được những thành tựu và giá trị tư tưởng mà triết
học phương Tây đóng góp cho sự phát triển của nhân loại.
Từ các vấn đề cần nghiên cứu nói trên, tác giả nghiên cứu
đề tài : “ Những giá trị cơ bản của các tư tưởng
chính trị triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại ”. Trong
quá trình làm bài tiểu luận, em đã kết hợp những kiến
thức được học cũng như là qua quá trình nghiên cứu, tìm
kiếm tài liệu. Tuy nhiên do kiến thức của em có hạn nên
khơng thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy em kính mong
nhận được sự góp ý của thầy cơ cùng các bạn để bài làm
của em được tốt hơn.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài :


[7]

Về mặt lý luận : Đề tài nhằm góp phần tổng kết, đưa ra
những quan điểm chung của triết học ở Hy Lạp và La Mã
cổ đại, đồng thời đánh giá những giá trị tích cực cũng như
hạn chế của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Về mặt thực tiễn : Đề tài góp phần tổng hợp và đưa đến
những giá trị lịch sử qua quá trình nghiên cứu, nhằm xem
xét những vấn đề cơ bản nhất, nguồn gốc nhất cho nền
triết học tồn thế giới nói chung qua các thời kì, và đặc
biệt là ở Hy Lạp và La Mã cổ đại nói riêng
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu :
Lấy cơ sở từ những kiến thức chung về đặc điểm của triết

học Hy Lạp và La Mã cổ đại và những vấn đề trong quá
trình hình thành và phát triển triết học phương Tây, cùng
các vấn đề khác để nghiên cứu các vấn đề trong đánh giá
giá trị và hạn chế triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp : phân tích, tổng hợp, đánh giá..,
bài tiểu luận đã sử dụng các phương pháp trên để tìm
kiếm, phân tích vấn đề.
5. Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 chương


[8]


Chương I : Khái quát lịch sử triết học Hy Lạp Và

La Mã cổ đại
• Chương II : Những giá trị tích cực- cơ bản và
những hạn chế của triết học ở Hy Lạp và La Mã
cổ đại
• Chương III : Đánh giá tổng quát về triết học Hy
Lạp – La Mã cổ đại.


[9]

CHƯƠNG I/ KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY- LA
CỔ ĐẠI.
1: Điều kiện về kinh tế- văn hóa -xã hội của Hy-La
cổ đại.

Hy Lạp là quốc gia có lịch sử phát triển lâu dài, song lịch
sử Hi Lạp cổ
đại chỉ thật sự bắt đầu từ thế kỉ thứ VIII trước công
nguyên. Về dân cư,
Hy Lạp cổ đại gồm nhiều tộc người, trong đó có bốn tộc
người chử đạo:
Người Eolieng chủ yếu cư chú ở bán đảo Ban căng và
một phần Trung
bộ vùng đồng bằng Bêoxi; người Ionieng cư trú ở vùng
đồng bằng Attich
vùng ven biển phía tây Tiểu Á; người Akeang ở vùng bán
đảo
Penoponedo và người Doniengo Bắc bán đảo
Penoponedo, đảo Gret và
các đảo khác ở Nam biển Êgie.

Xã hội Hy Lap cổ đại phát triển khá điển hình với phương
thức sản xuất
CHNL. Khỏng thế kỷ VI-IV trước công nguyên, xã hội
CHNL Hy Lạp


[10]

phát triển đến mức hoàn thiện với hai trung tâm kinh tếchính trị là
bang Aten và thành bang Spas.

Tại thành bang Aten, với thể chế chính trị Chủ nơ dân chủ
điển hình,
tầng lớp chủ nơ dân chủ chiếm ưu thế, nề kinh tế phát

triển, đặt biệt là
nền văn hóa Aten rất phát triển. Còn lại là thành bang
Spas lại được tổ
chức theo mơ hình thể chế chính trị chủ nơ q tộc điển
hình, tầng lớp
chủ nơ q tộc chiếm đa số, nên Spas là thành bang bảo
thủ về chính trị,
lạc hậu cả về kinh tế và kém phát triển về văn hóa.

Chính do có sự khác nhau về thể chế chính trị như vây,
nên cuộc nội
chiến tương tàn xảy ra kéo dày hàng mấy thể kỷ. Sự xân
lược Hy Lạp
của đế chế Maxedoan dã làm cho chế độ chính trị- nhà
nước chủ nô dân
chủ và chủ nô quý tộc bị sụp đổ, để rồi đến thế kỷ thứ II
trước công


[11]

nguyên (146) , Hy Lạp bị đé quốc La Mã thơn tính.

Lịch sử thật sự của thời kì cổ đại La Mã kéo dài thừ thế kỷ
IV trước công
nguyên đến thế kỷ V sau cơng ngun.

Lịch sử La Mã có thể chia thành hai thời kì lớn: Thời kỳ
cộng hịa và Thời kỳ đế chế (quân chủ).


2: Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy -La cổ đại.
Tương ứng với sự phát triển của lich sử cổ đại Hy Lạp và
La Mã sự đấu
tranh giành co giữa quân chủ và quý tộc, giữa cộng hòa
và quân chủ
cuối cùng do hạn chế của thời đại, quân chủ đế chế
thắng thế nên những
tư tưởng chính trị phản ánh thực tế lịch sử này vừa mang
tính tiến bộ
vừa chứa đựng những yếu tố bảo thủ...
3: Những đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn
minh cổ đại và là một trong những điểm xuất phát của


[12]

lịch sử triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc
điểm sau :
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý
thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nơ thống
trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp chủ nô duy trì trật tự
xã hội, củng cố vai trị thốn trị xã hội.
Hai là, trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối
lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy
tâm, biện chứng siêu hình, vơ thần – hũu thần. Trong đó
điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của
Đêmơcrít và trào lưu duy tâm của Planton, giữa trường
phái siêu hình của Pácmênít và trường phái biện chứng
của Hêraclít, v.v.

Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực
khác nhau, nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một
hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy
ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận cịn thấp, nên khoa
học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự
nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà chỉ mới nghiên
cứu tự nhiên trong tổng thể, để có cái nhìn tổng qt về
thế giới. Vì vậy, các nhà triết học còn đồng thời còn là các


[13]

nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện
tượng tự nhiên, để rút ra những kết luận triết học.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện
chứng chất phác. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên
cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện,
để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý.
Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng,
nhưng chưa trình bày thành hệ thống lý luận chặt chẽ.
Năm là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về con người, tìm cách lý giải về vấn đề quan
hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức – chính
trị - xã hội. Mặc dù cịn nhiều bất đồng, song nhìn chung,
các triết gia Hy Lạp đều khẳng định con người là tinh hoa
cao quý nhất của tạo hóa.



[14]

CHƯƠNG II/ NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
CỦA TRIẾT HỌC HY – LA CỔ ĐẠI.
II.1: Phân tích những giá trị tích cực và hạn chế của
triêta học Hy – La cổ đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại là một thời kỳ phát triển rực rỡ của
triết học nhân loại với nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành công rực rỡ triết học Hy Lạp cổ đại
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Sau đây, chúng ta đánh giá
các mặt tích cực và hạn chế của triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại qua một số nhà triết gia nổi tiếng.
II.1.1 : Triết học tự nhiên của trường phái Milê :
Cuộc tranh luận đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại xoay
quanh vấn đề “thế giới bắt đầu từ đâu và hướng (quay) về
đâu?”, nói cách khác, đó là cuộc tranh luận về bản
nguyên thế giới, tức cơ sở ban đầu, căn nguyên phát sinh
mọi sự vật, hiện tượng, hay nói như Talét, là cái mà từ đó
mọi thứ sinh ra và trở về. Đi tìm “cái ban đầu”, viên gạch
đầu tiên xây nên tịa lâu đài vũ trụ, đã tạo nên các cách lý
giải khác nhau về bản nguyên thế giới. Tinh thần tranh
luận quyết liệt ngay trong vấn đề đầu tiên này đã cho
thấy khát vọng khám phá và chinh phục thế giới của
người Hy Lạp, tiêu biểu cho phong cách tư duy phương


[15]

Tây trong lịch sử phát triển của nó. Sự vượt qua và điều
chỉnh nhau giữa các triết gia, xét cho cùng, cũng chỉ

nhằm biểu thị giới hạn và triển vọng hiểu biết của con
người.
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết
học đầu tiên xứ Lonie, một vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp.
Nằm chạy dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nằm giữ huyết
mạch giao thông, là cửa mở đi về phương Đông, và là
trung tâm kinh tế, văn hóa của thời kỳ chiếm hữu nơ lệ.
Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái
triết học của triết gia nổi tiếng.
Trường phái này do ba nhà triết học lập nên như: Thales,
Anaxi-mène và Anaximandes. Đóng góp quan trọng nhất
của trường phái này là đã đặc nền móng do sự hình thành
các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ
xung và làm phong phú thêm những khái niệm đó như
khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh của các mặt đối
lập v.v… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất
phát từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới
xuất phát từ một thời nguyên vật chất duy nhất.
II.1.1.1 : Talet ( 624 – 547 tr.CN)


[16]

Giá trị tích cực trong triết học của Talet : Quan niệm
triết học của ông giới thiệu thế giới tuy cịn thơ mạc,
nhưng đã có ý nghĩa vơ thần, chống lại thế giới quan tôn
giáo đương thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng tự
phát.
Những hạn chế trong triết học của Talet : ông được
gọi là triết học đầu tiên, toán học đầu tiên, thiên văn học

đầu tiên, song nhà khoa học đầu tiên này chưa thể thoát
khỏi ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo
nguyên thủy.Điều này thể hiện ở chỗ, ông cho rằng thế
giới đầy dẫy những vị thần linh và khi không thể giải thích
được hiện tượng từ tính của nam châm thì ơng khẳng định
rằng nó là linh hồn. Ơng sử dụng các yếu tố vật linh
thuyết, vật hoạt luận làm chỗ dựa cho quan điểm của
mình, như điều kiện cần thiết để dung hịa với thói quen
truyền thống. Đặc tính vật lý của nước được nâng lên cấp
độ thần linh. Thế giới chứa đầy thần linh. Nước và tất cả
những gì phát sinh từ nước đều có linh hồn, có thần tính.
Mặt trời làm cho nước bốc hơi thì được Talét giải thích một
cách ngây thơ, mộc mạc rằng Mặt trời cần nước để tồn tại
! Nhưng khi có người hỏi “nước do đâu mà có ?”, thì sự
chơng chênh trong lý lẽ của Talét bộc lộ ngay.


[17]

II.1.1.2 : Anaximăngđơ (khoảng 610 - 546 TCN)
Giá trị tích cực trong triết học Anaximăngđơ : Đó là
quan niệm ngây thơ về nguồn gốc sự sống, song trong cái
vẻ nghèo nàn, trừu tượng này đã thể hiện những đột phá
táo bạo về thế giới quan,: lần đầu tiên trong triết học cổ
đại Hy Lạp Anaximăngđơ đã cố gắng giải thích thế giới từ
nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật
hoạt luận, đưa ra tư tưởng biện chứng tự phát về tính phổ
biến của vận động, biến đổi, sự thống nhất các mặt đối
lập, về quá trình thành sự sống từ thế giới vô cơ, con
người từ loài vật.

Những hạn chế trong triết học Anaximăngđơ : cũng
như Talet, triết học của Anaximăngđơ chịu ảnh hưởng của
các quan niệm thần thoại và tôn giáo, khẳng định điểm
tận cùng giới hạn của thế giới, mọi sinh vật theo ông đều
sinh ra từ apâyrơn và có lỗi lầm với nhau, những lỗi lầm
của chúng phá vỡ các chuẩn mực và giới hạn của chúng.
Mọi cái cuối cùng đều trở thành apâyrơn . Theo nghĩa này,
apâyrơn trở thành một cái ít nhiều mang tính thần bí.
II.1.1.3 : Anaximen (588 - 525 tr.CN)


[18]

Những giá trị tích cực và hạn chế của triết học
Anaximet : cũng như hai nhà triết học trên, những quan
điểm của ơng vẫn mang nặng tính ngây thơ, chất phác,
nhưng nó phần nào cũng có giá trị nhất định trong thời kì
đó.
II.1.2 : Hêraclít (Heraclitos) - “mọi thứ đều tn
chảy” :
Những giá trị tích cực trong triết học Hêraclít : triết
học của ông là triết học duy vật, ông cho rằng thế giới là
do vật chất sinh ra và dạng vật chất đầu tiên đó là lửa.
Ơng đã nêu rõ tính thống nhất của thế giới và sự vận động
vĩnh viễn của vật chất. Ông cho rằng nhận thức được bắt
đầu từ cảm tính : mắt và tai, nhưng mắt là nhân chứng
chính xác hơn tai. Ơng đã đi tìm bản chất của tinh thần
khơng phải là ở ngồi vật chất mà chính là ở trong thế giới
vật chất; giá trị ấy có tính định hướng cho việc tìm bản
chất đích thực của đời sống tinh thần.

Hêraclít đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước
mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện
chứng. Học thuyết của ông sau này đã được các nhà triết
học cận đại hiện đại kế thừa. Mỗi nhà triết học từ lập


[19]

trường triết học của mình đã tiếp cận và đánh giá khác
nhau về triết học Hêraclit. Ông là đại biểu xuất xắc của
phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại.
Những hạn chế trong triết học Hêraclít : Quan niệm
của ông không thể tránh khỏi những hạn chế của những
nhà triết học thời trước đó là sự ngây thơ, chất phác, cảm
tính trong những quan niệm của mình.Ơng cịn có những
sai lầm về mặt chính trị. Đó là tính chất phản động, thù
địch với nhân dân, với thường dân, đem một số người mà
ông gọi là ưu tú đối lập với quần chúng nhân dân, và ông
chủ trương phải dùng chính quyền để dập tắt nhanh
chóng phong trào dân chủ.
II.1.3 : Thuyết ngun tử của Lơxíp, Đêmơcrít,
Epiquya.
Ngun tử luận là chương mới trong triết học tự nhiên
của Hy Lạp cổ đại, do Lơxíp (Leucippos, 500 - 440 TCN)
sáng lập, Đêmơcrít (Democritos, 460 - 370 TCN) phát
triển, Vào thời kỳ Hy Lạp hóa Epiquya (Epicuros, 342/341 271/270 TCN) điều chỉnh và nhân bản hóa theo xu hướng
thống nhất với duy cảm luận, chủ nghĩa vơ thần và chủ
nghĩa khối lạc.



[20]

II.1.3.1 : Lơxíp (500 – 440 tr.CN) :
Những giá trị tích cực của triết học Lơxip : Ơng là
người đầu tiên nêu lên học thuyết nguyên tử, đã đưa triết
học Hy Lạp cổ đại lên một tầm cao mới. Mà giá trị của học
thuyết nguyên tử vẫn còn đến ngày nay
Những hạn chế trong triết học Lơxip : tuy học thuyết
của ơng là một tiên đốn tuyệt vời, nhưng ơng cũng
không thể tránh khỏi những hạn chế của các nhà triết học
trước đó, do trình độ khoa học thời kì này cịn thấp. Triết
học của ơng vẫn cịn mang nặng tính chất phác, thơ sơ.
II.1.3.2 : Đêmơcrít ( 460 – 370 tr.CN)
Những giá trị tích cực trong triết học Đêmơcrít :
Với những thành tựu rực rỡ của mình, Đêmơcrít đã đưa
chủ nghĩa duy vật lên một đỉnh cao mới. Học thuyết
ngun tử của ơng là một tiên đốn thiên tài mà cho đến
nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, các nhà khoa học hiện đại
đã chứng minh một số quan điểm của ơng là đúng.Ngồi
ra quan điểm về nguồn gốc vũ trụ cũng có một số giá trị
nhất định. Tuy nhiên dưới ánh sáng của khoa học, thì quan
niệm của Đêmơcrít là sai lầm, nhưng nó đã góp phần
chống lại thế giới tôn giáo, duy tâm đang thống trị thời kì
đó. Quan điểm về vận động của ơng cũng là một phán


[21]

đốn có giá trị đặc biệt. Theo đó ơng đã đi tìm nguồn gốc
của sự vận động ở trong chính thế giới vật chất. Đây là

một quan niệm đúng đắn mà sau này các nhà triết học
Macxit đã công nhận.
Quan điểm quyết định luận cũng là một quan điểm của
ông có giá trị đã đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ
đại. Quan điểm này đã chống lại quan điểm mục đích
luận, thế giới quan duy tâm và tơn giáo. Về quan điểm
nguồn gốc của con người cũng có giá trị nhất định. Nó
cũng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tơn giáo. Ơng đã
đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới, khác với
các nhà triết học trước, Đêmơcrit khơng phủ nhận vai trị
của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hóa vai trị của lý tính.
Đây cũng là một quan điểm đúng đắn mà sau này các nhà
triết học Macxit cũng cơng nhận. Ngồi ra, các quan điểm
của ơng cịn có vai trị quan trọng trong chủ nghĩa vơ
thần, đó là những quan điểm về nguồn gốc, phủ nhận sự
tồn tại của thần linh.
Những hạn chế của triết học Đêmơcrít :
Tuy có nhiều thành tựu rực rỡ, nhưng triết học của
Đêmơcrít vẫn có nhiều hạn chế khơng thể tránh khỏi. Triết
học của Đêmơcrít vẫn thể hiện tính thơ sơ, chất phác, thể


[22]

hiện tư duy trực quan, cảm tính, thể hiện trong các quan
niệm về nguyên tử, linh hồn con người, về nguồn gốc của
vũ trụ, về nguồn gốc bản thân con người, thần thánh.
Trong quan niệm về sự vận động của vật chất, tuy đã có
những giá trị đạt được nhưng ông chưa thể giải thích được
nguồn gốc của sự vận động. Khi nói về cái tất yếu và cái

ngẫu nhiên,ơng đã phủ nhận cái ngẫu nhiên cho rằng cái
ngẫu nhiên là không tồn tại. Đây là một quan điểm sai
lầm vì rằng cái ngẫu nhiên vẫn tồn tại bên cạnh cái tất
nhiên.
II.1.3.3 : Epiquya ( 341 – 297 tr.CN)
Các quan điểm triết học của Epiquya : Triết học của
Epiquya gồm ba bộ phận : vật lý học, lôgic học và đạo đức
học. Ông kiên quyết bác bỏ thuyết duy tâm và lý luận
thần học, bảo vệ chủ nghĩa duy vật và học thuyết vô thần
của Đêmôcrit. Không những tiếp tục thuyết ngun tử của
Đêmơcrit, Epiquya cịn có đóng góp mới: ông cho rằng,
các nguyên tử còn khác nhau về trọng lượng, do đó chúng
vận động theo chiều thẳng đứng từ trên xuống, giống như
sự rơi tự do của các vật thể, như hạt mưa từ trên trời
xuống. Quá trình rơi, các hạt va vào nhau, quyện vào
nhau hoặc tách xa nhau. Từ đó ơng kết luận rằng các


[23]

nguyên tử vận động theo quy luật nội tại của chúng
nhưng nó bao hàm các yếu tố ngẫu nhiên do sự va chạm
vào nhau của các hạt trên đường rơi xuống. Mỗi sinh vật
không phải đơn thuần là tổng số các nguyên tử , mà là
một chỉnh thể có những đặc tính nhất định.
Những giá trị tích cực trong triết học Epiquya :
Mác cho rằng Epiquya đã nhân bản hóa vũ trụ nhằm đạt
đến tự ý thức về tự do. Sự khác nhau cơ bản giữa hai tên
tuổi của triết học Hy Lạp biểu thị sự khác nhau giữa hai
thời đại - một thời đại của hưng thịnh và trật tự, một thời

đại của suy thoái và loạn lạc, khi con người buộc phải đấu
tranh vì chính sự tồn tại của mình, tự tìm kiếm cho mình
mơi trường tồn tại, dù chỉ nhất thời và chật hẹp. Nguyên
tắc dao động tự do của các nguyên tử gắn với chủ nghĩa
khoái lạc đặc trưng, với đạo đức học và chủ nghĩa vô thần.
Ở đây, việc Êpiquya luận chứng cho sự không phụ thuộc
của con người vào số phận đã trở thành một tư tưởng chủ
đạo trong triết học thời kỳ này. Khi giải quyết vấn đề trên,
Êpiquya đã đưa ra một quan điểm mang đậm sắc thái đạo
đức. Khi khẳng định sự không phụ thuộc của con người
vào số phận, ông đã tập trung phân tích các điều kiện
đảm bảo cho hạnh phúc của con người, nhất là các điều


[24]

kiện khơng phụ thuộc vào một bối cảnh chính trị - xã hội
cụ thể. Với những thành tựu đạt được trong lĩnh vực này,
ông được coi là "người đã xây dựng nên một học thuyết
độc đáo về vu trụ, là người khát khao tìm ra trong đó vị trí
xứng đáng của cá nhân con người mà ông tin tưởng sâu
sắc vào các giá trị của nó".
Một đóng góp quan trọng khác của Êpiquya là ở chỗ, ông
đã nhận thấy rõ ý nghĩa nhận thức luận và thực tiễn của
bức tranh chung về thế giới. Khi đánh giá cao tính đặc thù
về chất của trình độ nhận thức lý luận, ơng đã khẳng định
ý nghĩa phương pháp luận của nó. Cũng như các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại tiền bối, khi xây dựng bức tranh chung
về thế giới, Êpiquya đã xuất phát một cách tiên nghiệm tử
một quan điểm chung về thế giới. Song cách tiếp cận của

ơng đã có một bước tiến đáng kể, khi luận chứng cho sự
thống nhất của những cái được rút ra từ những quan niệm
và biểu tượng chung, tức là tìm ra các quy luật của tự
nhiên. Với đóng góp đó, ơng được coi là người mở đầu cho
khoa học tự nhiên kinh nghiệm và tâm lý học kinh
nghiệm.
Những hạn chế trong triết học Epiquya :


[25]

Như vậy, có thể nói, so với quan niệm của các nhà triết
học tiền bối, quan niệm về vấn đề tự ý thức của Êpiquya
có nhiều điểm mới và sâu sắc hơn. Song trong quan niệm
của ơng vẫn cịn có nhiều hạn chế, những hạn chế đó
được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
+ Thứ nhất, tính chất khơng tưởng trong các điều
kiện mà Êpiquya đưa ra để con người tự khẳng định mình
trong thế giới.
+ Thứ hai, Êpiquya đã áp dụng một cách máy móc
học thuyết nguyên tử vào việc lý giải tồn tại cá nhân của
con người.
+ Thứ ba, Êpiquya đã đưa ra một quan niệm mang
tính tương đối chủ nghĩa về bản chất của các chuẩn mực
xã hội (tính tương đối của các chuẩn mực xã hội được
đem đối lập với tính tuyệt đối của quy luật tự nhiên, chứ
không phải với các chuẩn mực xã hội mới).
+ Thứ tư, quan niệm về tự ý thức của con người được
Êpiquya xây dựng trên nguyên tắc khẳng định cái riêng,
phú định cái chung, dựa trên cơ sở phủ định nền tảng

chung và mang tính khách quan của xã hội khi thay thế


×