Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
_________________________

LÊ THÀNH CÔNG

“NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH TIÊU CHUẨN CHỌN ĐẤT VÀ PHÂN
HẠNG ĐẤT TRỒNG RỪNG BẠCH ĐÀN UROPHYLLA LÀM
NGUYÊN LIỆU GIẤY VÀ VÁN DĂM TẠI TỈNH PHÚ THỌ”

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Tây, tháng 7-2007


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
_________________________

LÊ THÀNH CÔNG

“NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH TIÊU CHUẨN CHỌN ĐẤT VÀ PHÂN
HẠNG ĐẤT TRỒNG RỪNG BẠCH ĐÀN UROPHYLLA LÀM
NGUYÊN LIỆU GIẤY VÀ VÁN DĂM TẠI TỈNH PHÚ THỌ”


CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Ngơ Đình Quế

Hà Tây, tháng 7-2007


ii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................i
CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT .....................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ..............................................................................iv
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ .............................................................................v
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ...........................................................................vi
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................... 2
1.1.Trên thế giới ............................................................................................ 2
1.2. Trong nước ........................................................................................... 11
1.3. Một số kết quả nghiên cứu về Bạch đàn urô (E.urophylla) ................. 16
Chƣơng 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 18
2.1. Mục tiêu, đối tượng và giới hạn của đề tài. ......................................... 18
2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................ 18
2.3. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 19
Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN DÂN SINH KINH TẾ
TỈNH PHÚ THỌ ........................................................................................... 23

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ. ................................. 23
3.2. Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng tỉnh Phú Thọ. ............. 30
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 34
4.1. Phân hạng mức độ thích hợp cây trồng cấp vĩ mô. .............................. 34
4.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng rừng trồng
Bạch đàn Urophylla tại Phú Thọ ................................................................. 42
4.3. Sinh trưởng của Bạch đàn Urophylla với tính chất đất. ....................... 48
4.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla. .......... 59
Chƣơng 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ................................ 62
5.1. Kết luận. ............................................................................................... 62
5.2. Tồn tại. ................................................................................................. 63
5.3. Kiến nghị .............................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quí giá đối với cuộc sống. Đất đai
là tư liệu sản xuất đặc biệt, là đối tượng của lao động đồng thời là sản phẩm
của lao động. Trong sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là trồng rừng nguyên liệu
thì việc đánh giá chính xác tiềm năng đất đai, xác định phân bố các loại đất,
quy mô, chất lượng và khả năng sử dụng đất trên bản đồ và thực địa sẽ là cơ
sở khoa học cho việc quy hoạch, đề xuất, bố trí các lồi cây trồng, xây dựng
phương án kinh doanh hợp lý.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, nhu cầu sử
dụng gỗ trong các ngành chế biến lâm sản, sản xuất bột giấy, ván dăm đã tăng
lên đáng kể, diện tích rừng trồng sản xuất ngày càng được mở rộng. Do đó để
đầu tư trồng rừng có hiệu quả, địi hỏi cần phải phân hạng đất cho các loài cây

trồng rừng chủ yếu, dự đoán được năng suất rừng trồng trên các lập địa khác
nhau để lập kế hoạch phù hợp, tính tốn được chi phí, lợi nhuận cho cả luân
kỳ kinh doanh rừng trồng.
Cho đến nay khơng ai cịn nghi ngờ về giá trị kinh tế cao của cây Bạch
đàn trong công nghiệp giấy và gỗ, củi. Là một loài cây mọc nhanh đã đem lại
nhiều lợi nhuận to lớn cho nhiều quốc gia, vì vậy Bạch đàn đã được trồng hầu
như khắp nơi trên thế giới. Hiện nay, cây Bạch đàn Urophylla được xem là
cây trồng khá phổ biến làm nguyên liệu giấy tại vùng Trung tâm, đặc biệt là
tại tỉnh Phú Thọ. Nhiều nơi đã trồng thành công, song một số nơi đã gặp
khơng ít thất bại. Một trong những nguyên nhân thất bại trong việc trồng bạch
đàn là việc chọn đất chưa đúng, chưa có biện pháp kỹ thuật trồng và kinh
doanh hợp lý để tạo ra những vùng trồng tập trung và ổn định về năng suất.
Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xác
định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng Bạch đàn Urophylla
làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh Phú Thọ”.


2

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Trên thế giới
Phân hạng đất đai là một dạng của việc đánh giá đất đai. Phương pháp
áp dụng phổ biến ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ, chủ yếu với cây
trồng nông nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tìm mối quan hệ giữa
đặc điểm, tính chất đất đai với năng suất cây trồng để phân hạng đất thành các
cấp khác nhau ứng với loài cây trồng khác nhau. Trên cơ sở phân hạng đất có
thể dự đốn được năng suất cây trồng.
Trong lâm nghiệp các yếu tố dùng để phân hạng thường là loại đất, độ
pH, thành phần cơ giới, độ dầy tầng đất, thực bì chỉ thị cho độ phì đất hoặc

mức độ thối hố đất.
Điều quan trọng đối với phân hạng đất đai là cần phải có tư liệu về
năng suất cây trồng và tìm mối quan hệ của chúng với các tính chất đất đai.
* Đánh giá đất đai của FAO
Đây là phương pháp được sử dụng khá phổ biến. Các khái niệm trình
bày trên được sử dụng rộng rãi ở các nước Tây Âu và phương pháp đã được
tổ chức FAO thừa nhận, hoàn chỉnh thành cẩm nang hướng dẫn đánh giá đất
đai để áp dụng rộng rãi. Ví dụ năm 1979, FAO xuất bản cẩm nang hướng dẫn
"Đánh giá đất đai cho lâm nghiệp". Trên cơ sở đó một số nội dung hoặc khái
niệm được xác định cụ thể như sau:
 Đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai (land capability): Đó là việc phân
chia hay phân hạng đất đai thành các nhóm dựa trên các yếu tố thuận lợi hay
hạn chế trong sử dụng như độ dốc, độ dày tầng đất, đá lẫn, tình trạng xói mịn,
úng ngập, khơ hạn, mặn hố... Trên cơ sở đó có thể lựa chọn những kiểu sử
dụng đất phù hợp. Việc đánh giá tiềm năng sử dụng đất thường áp dụng trên


3

qui mô lớn như trong phạm vi một nước, một tỉnh hay một huyện. Đánh giá
tiềm năng đất được áp dụng thành công ở Mỹ và một số nước khác. Yếu tố
hạn chế là những yếu tố hầu như không thay đổi được như độ dốc, độ dày
tầng đất, khí hậu. Ở Mỹ đất đai toàn quốc được phân thành 8 nhóm với yếu tố
hạn chế tăng dần từ nhóm I tới nhóm VIII. Nhóm I là nhóm thuận lợi nhất
trong sử dụng, có rất ít yếu tố hạn chế. Nhóm VIII là nhóm có nhiều hạn chế
nhất trong sử dụng.
Đánh giá mức độ thích hợp đất đai (land suitability): Là q trình xác
định mức độ thích hợp cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị
đất đai và tổng hợp cho toàn khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng
đất với đặc điểm các đơn vị đất đai.

Hệ thống đánh giá được thể hiện theo 4 cấp:
 Phân thành 2 cấp lớn: Kiểu sử dụng đất hay lồi cây trồng thích hợp
(Viết tắt là S - Suitable) hay khơng thích hợp (Viết tắt là N - Not suitable) với
điều kiện đất đai.
 Mức độ thích hợp (S) phân chia thành 3 mức:
- Thích hợp cao (S1): Đất hầu như khơng có hạn chế đáng kể khi thực
hiện canh tác.
- Thích hợp trung bình (S2): Đất có hạn chế nhất định làm giảm năng
suất cây trồng hoặc nâng cao chi phí canh tác nhưng vẫn thích hợp cho cây
trồng hoặc kiểu sử dụng đất.
- Thích hợp kém (S3): Đất có hạn chế đáng kể làm giảm mạnh năng
suất và tăng cao chi phí canh tác rõ rệt. Hiệu quả kinh tế bị suy giảm đáng kể.
Việc phân hạng và đánh giá đất đai đã được thực hiện từ khá lâu ở
nhiều nước trên thế giới. Tuỳ theo mục đích cụ thể, mỗi quốc gia đã đề ra nội
dung, phương pháp đánh giá đất của mình [27].


4

Khoa học đất ra đời sớm nhất ở nước Nga, các nhà khoa học Nga đã có
cơ sở khoa học về đất và những phương pháp cơ bản về nghiên cứu đất. Nhờ
các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học V.V Docuchaev, P.A.
Kostưsev và N.M Sibirsev mà thổ nhưỡng học đã trở thành bộ môn khoa học.
[10].
V. V Docuchaev đã đưa ra lý thuyết về phát sinh đất và được thừa
nhận trên toàn thế giới. Qua nghiên cứu đất đen làm ví dụ, ơng cho rằng: đất
là một thể tự nhiên độc lập cũng giống như khoáng vật, thực vật, động vật, đất
không ngừng thay đổi theo không gian và thời gian. Trong cơng trình này lần
đầu tiên ơng đã xác định mối quan hệ có tính qui luật giữa đất và điều kiện tự
nhiên, môi trường và đã chỉ ra việc hình thành đất là một quá trình phức tạp

do tác động của 5 yếu tố tự nhiên là: khống vật, thực vật, động vật, khơng
gian và thời gian.[10]
Ở Mỹ, ý đồ xây dựng một chương trình nghiên cứu phân loại đất đã
có từ năm 1832 do E. Ruffin khởi xướng, đến năm 1860 W. Hilgard xây dựng
bảng phân loại đất và bản đồ đất đầu tiên cho nước Mỹ, trên cơ sở nhận thức:
đất là một vật thể tự nhiên, tính chất đất có quan hệ đến thực vật và khí
hậu.[50].
Đại hội Khoa học đất Quốc tế lần thứ 4 được tổ chức vào năm 1950 ở
Amsterdam Hà Lan và lần thứ 5 vào năm 1954 ở Conggo đã thúc đẩy sự ra
đời của 2 trung tâm nghiên cứu phân loai đất có tính chất Quốc tế là: Trung
tâm phân loại Soil Taxonomy và Trung tâm phân loại FAO-UNESCO. Hai
Trung tâm này cùng có một quan điểm nghiên cứu giống nhau, đó là quan
điểm định lượng, và đã tiến hành xây dựng hệ thống chỉ tiêu định lượng trong
các cấp phân loại. Với quan điểm phân loại mới là dựa vào định lượng hố
tính chất, thì chỉ có những tính chất mà có thể xác định định lượng mới được
sử dụng trong phân loại đất. [10]


5

Hiện nay ở Hoa kỳ việc nghiên cứu phân loại và xây dựng bản đồ đất
sử dụng hệ thống phân loại Soil Taxonomy với hệ thống thuật ngữ riêng.
FAO- UNESCO đã vận dụng phương pháp định lượng trong phân loại đất
của Soil Taxonomy xây dựng hệ thống phân vị mang tính chú dẫn bản đồ, hệ
thống phân loại và thuật ngữ mang tính hồ hợp, có mối quan hệ lãnh thổ
nhằm sử dụng cho ngơi nhà chung tồn cầu. Năm 1961, Bản đồ đất thế giới,
tỷ lệ 1/5.000.000 được Trung tâm FAO- UNESCO xuất bản. Việc phân loại
đất và xây dựng bản đồ này dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp định lượng
trong phân loại đất của của Soil Taxonomy. [52]
Từ những năm 1950, việc đánh giá khả năng sử dụng đất đã được nhiều

nhà khoa học và các tổ chức Quốc tế quan tâm. Đây được xem như là bước
nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất. Ngày nay công việc
này đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của các nhà quy hoạch,
hoạch định chính sách và người sử dụng.[10]
Năm 1976 FAO đã đề xuất định nghĩa về đánh giá đất đai như sau:
Đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối chiếu những tính chất của vạt đất
cần đánh giá với những tính chất đất đai mà loại hình sử dụng đất yêu cầu
phải có. Đánh giá đất đai là q trình thu thập thơng tin, xem xét một cách
toàn diện các yếu tố đất đai với cây trồng để phân định ra mức độ thích hợp
cao hay thấp. [52]
Ở Mỹ, 2 phương pháp đánh giá đất đai được ứng dụng khá rộng rãi là:
Phương pháp tổng hợp: lấy năng suất cây trồng nhiều năm làm tiêu chuẩn và
phân hạng đất đai cho từng cây trồng cụ thể, trong đó lấy cây lúa mì là đối
tượng chính và Phương pháp yếu tố: bằng cách thống kê các yếu tố tự nhiên,
kinh tế để so sánh, lấy lợi nhuận tối đa là 100 điểm (hoặc 100%) để làm mốc
so sánh với các đất khác. [10][53]


6

Nhiều nước Châu Âu việc phân hạng và đánh giá đất đai được thực
hiện theo 2 hướng là:
1- Phân hạng định tính: dựa trên các kết quả nghiên cứu các yếu tố tự
nhiên để xác định tiềm năng sản xuất của đất đai.
2- Phân hạng định lượng: dựa vào kết quả nghiên cứu các yếu tố kinh
tế, để xác định sức sản xuất thực tế của đất đai.[10]
Ở Ấn Độ và các nước vùng nhiệt đới ẩm châu Phi thường áp dụng
phương pháp tham biến để xác định mối quan hệ giữa các yếu tố đất đai và
cây trồng. Các mối quan hệ này được biểu thị dưới dạng phương trình tốn
học. Kết quả phân hạng được thể hiện dưới dạng % hoặc điểm. [20]

Bản dự thảo đầu tiên về tiêu chuẩn hoá việc đánh giá đất đai đã được
thống nhất do 2 Uỷ ban nghiên cứu ở Hà Lan và FAO- Roma thực hiện vào
năm 1972 và phương pháp đánh giá đất đai đầu tiên của FAO được công bố
vào năm 1976 và được chỉnh lý vào năm 1983. [20]
Học thuyết về loại sử dụng đất đã được Duddlry (thế kỷ 19) xây dựng,
sau này được Kostrowiky và các đồng sự của ông phát triển. Gần đây Beek và
Bennerma đã hoàn chỉnh và được Brickman và Smyth sử dụng trong đề
cương đánh giá đất đai năm 1976.[51]
Trên thế giới cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa
đặc tính của đất đai với sinh trưởng của cây trồng. Từ các kết quả nghiên cứu
này nhiều nhà khoa học đã cho rằng: Đối với các vùng ôn đới, phản ứng của
đất, hàm lượng CaCO3 và các chất Bazơ khác, thành phần cấp hạt và điện thế
ơxy hố khử (Eh) của đất là những yếu tố quan trọng nhất, quan điểm này đã
xem các yếu tố hoá học đất quan trọng hơn yếu tố vật lý. Còn ở vùng nhiệt
đới thì các tác giả cho rằng: các yếu tố khả năng giữ nước, độ sâu của đất và
độ thống khí là những yếu tố giữ vai trị chủ đạo, điều này có nghĩa là: yếu tố


7

vật lý đất quan trọng hơn yếu tố hoá học đất [20]. Tuy nhiên các kết quả này
là dựa trên các nghiên cứu về đất đồi núi, đất nông nghiệp.
Trong những năm gần đây Trung tâm lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) đã
tiến hành nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho rừng trồng ở
các nước nhiệt đới như: Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Nam Phi, Conggo,
Brazil. Kết quả nghiên cứu cho thấy: các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và
các loài cây trồng khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến độ phì đất, cân
bằng nước sự phân huỷ thảm mục và chu trình dưỡng khống. [40], [41].
Đánh giá đất đai đóng vai trị cực kỳ quan trọng trong việc xác định độ
phì nhiêu của đất và là cơ sở cho việc đề xuất cây trồng cũng như các giải

pháp duy trì và bảo vệ độ phì đất.
Ngay từ đầu những năm 50, việc đánh giá khả năng sử dụng đất được
xem như là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất.
tuỳ từng trình độ phát triển của từng quốc gia riêng lẻ, phương pháp đánh giá
đất đai được nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới và các tổ chức Quốc tế
quan tâm. Do vậy nó trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan
trọng và đặc biệt gần gũi với những nhà quy hoạch, người hoạch định chính
sách đất đai và người sử dụng. Những nghiên cứu và các hệ thống đánh giá
đất đai sau đây được sử dụng tương đối phổ biến;
* Phân loại khả năng thích nghi đất có tưới (Irrigation Land Suitability
Classification) của Cục cải tạo đất đai - Bộ nông nghiệp Mỹ (USBR) xuất bản
năm 1951. Phân loại này dựa vào độ phì của đất để đánh giá. Phân loại này
gồm 6 lớp (classes), từ lớp có thể canh tác được (arable) đến lớp có thể trồng
trọt một cách giới hạn (limited arable) và lớp không thể trồng trọt được (non
arable). trong phân loại này, nhiều đặc điểm đất đai, một số chỉ tiêu kinh tế
định lượng cũng được đề cập nhưng giới hạn ở phạm vi thuỷ lợi.


8

* Bên cạnh đó, năm 1964, Clingebiel và Naontgomery thuộc Vụ Bảo tồn
đất đai - Bộ nông nghiệp cũng đưa ra khái niệm " Khả năng đất đai" (Land
Capability) trong công tác đánh giá đất đai ở hoa Kỳ. trong việc đánh giá này,
các đơn vị bản đồ đất đai (Land Mapping Units) được nhóm lại dựa vào khả
năng sản xuất một loại cây thực vật tự nhiên nào đó, chỉ tiêu chung là các hạn
chế của lớp phủ thổ nhưỡng đối với mục tiêu canh tác được đề nghị. Hệ thống
đánh giá đất đai này mang tính chất sơ lược, gắn đất với hiện trạng sử dụng
đất hay còn gọi là " Loại hình sử dụng đất".
* Vào những thập niên 60, ở Liên Xô và các nước Đông Âu, việc phân
hạng và đánh giá đất đai cũng được thực hiện, bao gồm ba bước sau; so sánh

các hệ thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên (đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng);
đánh giá khả năng sản xuất của đất đai và đánh giá kinh tế đất (chủ yếu đánh
giá khả năng sản xuất hiện tại của đất). Phương pháp này chỉ mới thuần tuý
quan tâm đến khía cạnh tự nhiên của đối tượng đất đai mà chưa xem xét đầy
đủ đến khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai.
- Nhiều quốc gia ở Châu Âu vào những năm 70 đã cố gắng phát triển
các hệ thống đánh giá đất đai của họ, cuối cùng các nhà nghiên cứu nhận thấy
rằng cần phải có một nỗ lực quốc tế để đạt được sự thống nhất và tiêu chuẩn
hố vào việc đánh giá đất đai. Vì vậy, có 2 uỷ ban nghiên cứu được thành lập
ở Hà Lan và FAO (Rome, Ý), kết quả là một dự thảo đầu tiên ra đời vào năm
1972, sau đó được hai nhà khoa học Brinkman và Smith soạn thảo lại và xuất
bản 1973. Năm 1975 tại hội nghị ở Rome, những ý kiến đóng góp cho bản dự
thảo năm 1973 đã được các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của FAO
(K.J. Beek, J. Bennema, P. J. Mabier, G. A. Smith...) biên soạn lại để hình
thành nọi dung phương pháp đầu tiên của FAO về đánh giá đất đai (A frame
work for land evaluation) và công bố vào năm 1976, sau đó đã được chỉnh lý
vào năm 1983 [44].


9

- Ngoài những tài liệu cơ bản của FAO về đánh giá đất đai, FAO cũng
đưa ra những hướng dẫn khác nhau về đánh giá đất đai cho các đối tượng
chuyên biệt như:
- Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (Giueline for land
Evaluation for Rainfed Agriculture - FAO, 1983) [45].
- Đánh giá về đất đai cho trồng trọt cỏ quảng canh (Land Evaluation for
extensive grazing, FAO, 1990) [47].
- Đánh giá về đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử
dụng đất (Land Evaluation and farming system analysis for land use planning,

FAO, 1992) [49].
Nhìn chung quá trình đánh giá đất đai của FAO được tiến hành thông
qua một số bước sau:
- Xác định mục tiêu sử dụng.
- Thu thập thông tin liên quan.
- Đánh giá mức độ thích hợp của các loại hình sử dụng đất.
- Xem xét môi trường tác động của tự nhiên, kinh tế xã hội.
- Xác định các loại hình sử dụng đất thích hợp.
Việc xác định loại thực bì nào có mặt trước khi trồng rừng, mật độ
trồng và điều kiện của lớp đất mặt là rất quan trọng. Mathur (1983) [58] đã
đưa ra nghiên cứu so sánh thực bì dưới tán Bạch đàn camal
(Eu.camaldulensis), Eu. grandis và Shorea robusta tại 3 địa phương khác nhau
ở thung lũng Doon tại Ấn Độ. Các tác giả này cho thấy rừng trồng Bạch đàn
dung nhận một lớp thực bì dưới tán tốt hơn và một sự đa dạng hơn về loài cây
so với rừng Shorea robusta, những sự khác nhau nếu có chủ yếu do độ dày
đặc trưng tán cây của hai chi thực vật. Jha và Pande (1984) [56] cũng báo cáo
kết quả cho thấy thực bì dưới tán rừng trồng độc canh Bạch đàn ưu việt hơn
trồng độc canh Shorea robusta về các loài cỏ mọc ở dưới tán.


10

Tại Bangladesh, Rajvanshi (1984) [58] nhận thấy do tán lá Bạch đàn
nhỏ và hẹp nên lượng ánh sáng chiếu xuống đất nhiều, tạo điều kiện cho
nhiều lớp cỏ và cây bụi ưa sáng phát triển. Giải thích về những lơ Bạch đàn có
lớp thực bì kém phát triển, tác giả cho rằng những lý do như chăn thả quá
mức, cháy hoặc đốt lướt để phòng cháy hàng năm, quét lá để thu nhiên liệu,
xói mịn đất đã ngăn cản thực bì phát triển hơn là do bản thân cây Bạch đàn
tác động đối với lập địa đó. Gần đây áp dụng một số giống mới, tác giả còn
ghi nhận một số lồi cỏ mọc dưới tán Bạch đàn thậm chí ở cả những lô trồng

dày với mật độ 0,3 x 0, 3 m (trên 10.000 cây/ha).
Nhiều tác giả cũng ghi nhận sự có mặt của nhiều lồi cây họ đậu và lớp
tái sinh cây bản địa gỗ lớn đã bắt đầu xuất hiện sau khi có sự che bóng của
rừng Bạch đàn khép tán. Có thể coi như rừng Bạch đàn đã bước đầu tạo ra
hoàn cảnh rừng, đặc biệt đối với những cây bản địa gỗ lớn sống thành quần
thụ thì cây giai đoạn non thường ưa bóng. Nếu cứ để đất trống phơi nắng trực
tiếp sẽ khơng có khả năng tái sinh.
Trong những năm gần đây có một số cơng trình nghiên cứu cụ thể về vấn
đề này và mới chỉ nghiên cứu cho từng đối tượng cây trồng cụ thể. Ở vùng ôn
đới nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng tự nhiên, rừng trồng đến độ phì
đất đã được đề cập. Khi nghiên cứu về rừng mưa nhiệt đới ở Australia, Week
(1970) [61] đã khảng định sinh trưởng của thực vật phụ thuộc vào các yếu tố:
đá mẹ, độ ẩm cảu đất, thành phần cơ giới, CaCO3, hàm lượng mùn và đạm.
Tại Ấn Độ việc trồng Bạch đàn trên những vùng rộng lớn đã gây ra
nhiều cuộc tranh luận kéo đài về tác dụng xấu của Bạch đàn đến đất. Ghosh
(1978) [54] đã đánh giá sinh trưởng của Bạch đàn đến chế độ nước và chất
dinh dưỡng trong đất tại Ấn Độ và nhiều vùng trên thế giới nhưng chưa có kết
luận khảng định. Tuy nhiên Ghosh đã nhấn mạnh là các lời ca thán về tác hại


11

của Bạch đàn đến đất tại Ấn Độ là quá đáng. Các nguồn lợi về kinh tế do
Bạch đàn mang lại còn lớn hơn nhiều so với mặt hại nếu có.
1.2. Trong nƣớc
Từ những năm 80 trở lại đây một số cơng trình nghiên cứu dưới đây đã
đặt nền móng cho việc nghiên cứu và đánh giá đất đai:
- Nghiên cứu đánh giá và quy hoạch đất khai hoang ở Việt Nam của Bùi
Quang Toản và nhóm nghiên cứu (1991) [50] đã ứng dụng phân loại khả năng
(Capability classification) của FAO. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ đánh giá các

điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thuỷ văn và tưới tiêu, khí hậu nông nghiệp)
và nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở lớp (class) thích nghi cho từng loại hình sử
dụng.
- Trần An Phong (1995) [19] đã đưa ra kết quả đánh giá hiện trạng sử
dụng đất ở nước ta theo quan điểm sinh thái và lâu bền. Phương pháp đánh
giá này đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố: tính chất của đất,
hiện trạng sử dụng đât, tính thích nghi đất đai, vùng sinh thái.
- Đánh giá tiềm năng sử dụng đất Lâm nghiệp của từng vùng sinh thái và
trong tồn quốc của Đỗ Đình Sâm và cộng sự (1995) là phương pháp ứng
dụng phần mềm GIS trên máy tính để xây dựng các bản đồ đánh giá tiềm
năng sử dụng đất lâm nghiệp. Phương pháp này cho phép lợi dụng được các
thơng tin sẵn có và có ý nghĩa là mang tính chiến lược và dự báo.
Cho đến nay, các cơng trình nghiên cứu về đất ở Việt Nam có khá
nhiều tập trung chủ yếu vào các nội dung chính sau:
- Nghiên cứu cơ bản về hình thành và tính chất lý hố học của đất.
- Điều tra, phân loại, xây dựng bản đồ đất với các tỷ lệ khác nhau.
- Đánh giá tiềm năng sản xuất đất.


12

- Biện pháp cải tạo một số loại đất có vấn đề.
- Bảo vệ và chống suy thoái tài nguyên đất.
Theo các kết quả nghiên cứu của VM. Fridland (1964), Nguyễn Viết
Phổ (1978), trên các bãi bồi vùng đồng bằng Sơng Cửu Long và sơng Hồng
thì: hàng năm Sơng Cửu Long và sông Hồng đưa ra biển khoảng 200 triệu tấn
phù sa. Do đó mỗi năm các bãi bồi ở vùng cửa sơng của 2 con sơng này có xu
hướng lấn dần ra phía biển Đơng từ 40-100m.
Ở Việt Nam, Thái Văn Trừng (1979) [31] cũng đã nghiên cứu về ảnh
hưởng của Bạch đàn đến đất và thực bì. Ơng cho rằng đối với Bạch đàn vấn

đề quan trọng nhất để kinh doanh rừng thành cơng đó là đất. Và trong các yếu
tố tạo thành độ phì của đất thì đối với cây Bạch đàn yếu tố nước trong đất giữ
vai trò quyết định. Nếu như trồng Bạch đàn ở nơi đất xấu như vùng Đền Hùng
- Phú Thọ với nhóm đất là sialit - feralit nâu vàng phong hố trên phù sa cổ, bị
thối hố mạnh có tính chất vật lý rất kém, hàm lượng dinh dưỡng thấp, tầng
kết von hoặc đá ong lộ ra trên mặt đất.
Đỗ Đình Sâm (1991) [25] khi nghiên cứu về đất tế guột và vấn đề trồng
rừng Bạch đàn liễu cũng cho rằng Bạch đàn cũng như các lồi cây khác đều
có q trình tự bón và q trình tiểu tuần hồn vật chất để trả lại cho đất các
chất dinh dưỡng như N, P, K, Ca, Mg,...qua cành lá rơi rụng. Tác giả cũng
cho rằng Bạch đàn không làm cho đất xấu đi. Tuy nhiên do tán lá Bạch đàn
thưa, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong lá không cao, lại chứa nhiều dầu
nên so làm tăng độ phì của đất lên ít và chậm hơn. Tác giả cũng lưu ý trong
thực tế rất nhiều diện tích Bạch đàn trồng do bị qt lá để làm chất đất nên
q trình tuần hồn vật chất chỉ xảy ra có một chiều. Điều này đã phá vỡ quy
luật tự bón của rừng Bạch đàn, làm cho đất bị bóc lột một chiều. Do vậy đất
bị xấu đi là điều không tránh khỏi. Tác giả cũng kết luận sau khi trồng rừng
Bạch đàn khép tán, các loài cỏ chịu hạn, hoàn toàn ưa sáng như cỏ lông lợn,


13

cỏ lông trước đây vẫn sống ở vùng đồi trọc, nay bị đào thải ra khỏi tổ thành
của rừng Bạch đàn là điều đương nhiên. Không phải do Bạch đàn phát sinh
độc tố.
Năm 1960, F.R. Moormann đã xuất bản bản đồ thổ nhưỡng ở miền
Nam Việt Nam với tỷ lệ 1/1.000.000 và kèm theo bảng phân loại đất dùng cho
bản đồ này. Năm 1969 V. M. Fridland cùng một số nhà khoa học Việt Nam
cũng đã xuất bản Bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000 và
bản chú giải phân loại. Đặc điểm của 2 bảnh phân loại này là theo 2 phương

pháp khác nhau. Bảng phân loại đất dùng cho sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc là
theo hướng phân loại phát sinh của Liên Xô. Bảng phân loại

đất của

Moorman theo hướng phân loại của Mỹ trước kia, một phần theo hướng phân
loại phát sinh và một phần theo tính chất thực dụng. [10]
Tơn Thất Chiểu và Hoàng Ngọc Toàn (1980 – 1985) đã tiến hành
nghiên cứu phân hạng đất đai tổng quan trên toàn quốc, với nhiều đối tượng
cây trồng, nhiều vùng chuyên canh khác nhau trên cơ sở phân hạng định
lượng của FAO. Đối tượng chính của đề tài này là đất nơng nghiệp và đất đồi
núi.[10]
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành tiêu chuẩn
nghành 10 TCN 343-98 về Quy trình đánh giá đất đai phục vụ Nông nghiệp,
trên cơ sở vận dụng nội dung, phương pháp đánh giá đất của FAO theo điều
kiện và tiêu chuẩn cụ thể của Việt Nam.[10]
Kết quả điều tra tổng hợp của Viện quy hoạch thiết kế Nông nghiệp
năm 1995 đã xác định 9 vùng sinh thái nơng nghiệp trên tồn quốc. Phương
pháp tổng hợp là căn cứ vào 7 yếu tố và các chỉ tiêu phân cấp là: Loại đất, Độ
dốc, Độ dày tầng đất, Thuỷ văn mặt nước, Tưới tiêu, lượng mưa, Nhiệt độ.
Mặc dù đã có sự cố gắng gộp nhóm và đơn giản hoá các yếu tố, chỉ tiêu tham
gia xây dựng đơn vị đất đai, nhưng kết quả tổ hợp vẫn cho ra số lượng đơn vị


14

đất đai toàn quốc khá lớn. Trên bản đồ tỷ lệ 1/1.000.000 tồn quốc có tới 373
đơn vị đất đai.[10]
Vũ Cao Thái và các cộng sự năm 1989 đã nghiên cứu đánh giá phân
hạng đất Tây Nguyên với cây Cao su, Cà phê, Chè và Dâu tằm. Đề tài đã vận

dụng phương pháp phân hạng đất đai của FAO theo kiểu định tính và hiện tại
để đánh giá khái quát tiềm năng đất đai của vùng và đã phân chia đất theo 4
hạng riêng cho từng cây trồng.[10]
Kết quả nghiên cứu của đề tài KT 02-09 do Viện quy hoạch thiết kế
Nông nghiệp thực hiện (1993-1995) đã đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội và tác
động ảnh hưởng tới mơi trường đối với các loại hình sử dụng đất đai chính ở
Việt Nam và đã xác định 4 loại hình sử dụng đất chính là: Các loại hình sử
dụng đất đai bền vững về kinh tế xã hội và mơi trường. Loại hình sử dụng đất
khơng bền vững về kinh tế. Loại hình sử dụng đất khơng bền vững về mơi
trường. Loại hình sử dụng đất khơng bền vững về kinh tế và mơi trường [10].
Tác giả Đỗ Đình Sâm (1995) và các cộng sự đã tiến hành đánh giá tiềm
năng sản xuất đất lâm nghiệp ở Việt nam theo 8 vùng kinh tế lâm nghiệp: Tây
Bắc, Đông Bắc, Trung tâm, Bắc Trung bộ, Duyên hải miền trung, Đông Nam
bộ, Tây nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, trừ đồng bằng sơng Hồng vì chủ
yếu là đất nơng nghiệp.
Trong quy trình Điều tra xây dựng bản đồ lập địa phục vụ công tác
trồng rừng cho các dự án như: KFW1, KFW3, ADB, Lâm nghiệp xã hội
Sông Đà… của tác giả Ngơ Đình Quế, đã dựa vào các yếu tố: loại đất, độ dày
tầng đất, độ dốc và thực bì để và được để xác định đơn vị đất đai. [22]
Năm 1962, VM. Fridland đã tiến hành nghiên cứu về các nguyên tố vi
lượng trong đất ở miền Bắc Việt nam, tác giả đã phân tích 35 nguyên tố vi
lượng trong đất bằng phương pháp quang phổ với độ nhậy 1/10000 kết quả là:
một số nguyên tố không phát hiện thấy hoặc chỉ có ở mức vệt. [26]


15

Việc nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng và đặc biệt là cây mọc nhanh,
luân kỳ ngắn đến đất nhiệt đới chỉ mới bắt đầu. Điều đáng quan tâm là các kết
quả nghiên cứu ở các vùng khác nhau và các lồi cây khác nhau thường

khơng thống nhất. Thậm chí đã có nhiều kết luận trái ngược nhau. Vì vậy đây
cũng là vấn đề đang được nhiều nước ở vùng nhiệt đới quan tâm nghiên cứu.
Đỗ Đình Sâm (1984) [24] nghiên cứu về độ phì đất rừng và vấn đề thâm canh
rừng trồng và cho rằng đất có độ phì hố học khơng cao. Nơi đất có rừng độ
phì đất được duy trì chủ yếu qua con đường sinh học. Các trạng thái rừng
khác nhau, các biện pháp kỹ thuật tác động khác nhau cho thấy sự biến đổi về
hoá tính đất khơng rõ nét (trừ yếu tố mùn, đạm) tuy nhiên các tính chất về lý
tính của đất đặc biệt là cấu trúc và nhiệt là nhân tố dễ biến đỗi và bị ảnh
hưởng của viêc trồng Bạch đàn đến độ phì đất. Tác giả đã chứng minh rằng
việc trồng rừng Bạch đàn không làm chua đất, lượng nước do Bạch đàn tiêu
thụ là rất ít vàđặc biệt là rừng trồng Bạch đàn luôn thường xuyên làm cho đất
tốt lên, nhất là ở những trạng thái lập địa nghèo.
Các nghiên cứu phân hạng đất lâm nghiệp thực hiện chủ yếu đối với một số
cây trồng quan trọng và có ý nghĩa đối với thực tiễn sản xuất. Đó là các rừng
trồng Bồ đề cung cấp nguyên liệu giấy được gây trồng mạnh ở vùng trung
tâm vào những năm 1960 - 1970, rừng trồng thông nhựa gây trồng phổ biến
trên đất trống đồi trọc trong tồn quốc, rừng trồng Thơng ba lá và một số rừng
cây đặc sản như: Hồi, Quế...
Dựa trên kết qủa nghiên cứu về mối qua hệ giữa sinh trưởng và đặc
điểm đất dưới rừng trồng Bồ Đề, tác giả Hoàng Xuân Tý đã đề xuất 3 tiêu
chuẩn quan trọng để xác định trồng rừng Bồ đề là loại đất, độ dày tầng đất và
độ thoái hoá đất và thực bì chỉ thị. Phương pháp này dễ áp dụng trong thực tế
sản xuất, tuy nhiên chưa dự đoán được năng suất của rừng trồng.


16

1.3. Một số kết quả nghiên cứu về Bạch đàn urô (E.urophylla)
Bạch đàn Urô (E.urophylla) là cây gỗ lớn, thân thẳng tròn cao, tán thưa,
phân cành cao đến 20 - 25m, đường kính có thể tới l00 cm. Là cây ưa sáng có

biên độ sinh thái rộng, có khả năng thích hợp với nhiều dạng đất, Bạch đàn
Urơ (E.urophylla) phân bố ở độ cao 300 - 2200mm với 2 - 8 tháng khơ, nơi
ngun sản Bạch đàn Urơ (E.urophylla) có thể cao 25 - 45m, cá biệt có thể
cao 55 m, đường kính có thể đạt 1 - 2 m, Bạch đàn urơ (E.urophylla) là lồi
cây thích hợp với các lập địa có đất sâu ẩm ở các tỉnh miền bắc, các xuất xứ
có triển vọng nhất cho vùng trung tâm là Lewotobi và Egon Flores.
Bạch đàn urơ (E.urophylla) (có nơi gọi là Bạch đàn nâu) có phân bố tự
nhiên ở một số vùng nhỏ hẹp tại một số đảo của Indonexia kéo dài 5 kinh độ
từ 1220 đến 1270 kinh đơng với chiều dài khoảng 500 tìm và giữa các vĩ độ
7,30 và 100 Vĩ Bắc. Bạch đàn urô (E. urophylla) có phân bố theo độ cao lớn
nhất trong số các lồi Bạch đàn, đó là từ độ cao 70 - 2960m (ở Timor) so với
mực nước biển. Do thay đổi về độ cao nên biến động về nhiệt độ cũng vì thế
mà khá lớn. Trên cùng một đảo với khoảng cách không mấy xa nhau mà các
quần thụ phải thích nghi với các điều kiện nhiệt độ rất khác nhau kéo dài từ
270 đến 300c (nhiệt độ tối cao bình quân tháng) trên độ cao 400 mét xuống 170
- 210c trên ở độ cao 1900 mét. Trên đảo Timor từ độ cao 1000 mét trở lên,
ngoài lượng mưa cao (1300 - 2200 mm) còn thấy cả sương mù thường xuyên.
Mặc dù phạm vi phân bố hẹp song loài Bạch đàn urơ (E. urophylla) vẫn có
lượng biến dị di truyền lớn theo độ cao được thể hiện qua các khảo nghiệm
với các xuất xứ của loài ở nhiều nước. (Lê Đình Khả, 1991 [13])
Người Hà Lan thu hạt Bạch đàn này để trồng đầu tiên vào năm 1890
trên đảo Giava. Braxin đã từng trồng tới 500.000 ha loài cây Bạch đàn E. alba
mà thực chất là cây lai giữa E. urophylla với một loài Bạch đàn khác ở
Braxin. Những năm gần đây, loài Bạch đàn này đã được gây trồng nhiều nơi


17

trên thế giới đặc biệt là ở những vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm và bán ẩm, đổi
mùa (mưa sang khô) như ở một số vùng của Indonexia, Braxin và nam Trung

Quốc. Riêng đối với loài cây này chọn vùng để gây trồng cần rất thận trọng vì
đơi khi nhìn bề ngồi, các điều kiện khí hậu tưởng chừng như rất phù hợp,
song cây lại sinh trưởng không đạt u cầu. Ví dụ như ở vùng bắc
Queensland, lồi này đã thất bại sau năm đầu khảo nghiệm mà nguyên nhân
có thể là do sâu đục thân và các cơn trùng khác.
Trong tài liệu: Hệ thống đánh giá đất lâm nghiệp, các tác giả đã tiến hành
nghiên cứu phân hạng đất cho một số cây trồng chủ yếu như Bồ Đề, Thơng
Nhựa, Thơng Ba lá, Hồi, Quế, chưa có nghiên cứu về cây Bạch đàn. Nhìn
chung bảng phân hạng đất cây trồng rừng nhằm đạt 4 mục tiêu sau đây:
- Phản ánh được độ màu mỡ hiện tại của đất;
- Phản ánh được cơ cấu cây trồng và sản lượng;
- Phản ánh được biện pháp kỹ thuật và giá thành
- Đơn giản dễ áp dụng trong điều kiện rừng núi của lâm nghiệp.
Muốn đạt 4 yêu cầu trên trước hết phải chọn đúng các yếu tố chủ đạo để làm tiêu
chuẩn. Đối với đất nơng nghiệp thì pH, độ no kiềm, lượng lân dễ tiêu,.... thường
có ý nghĩa rất lớn. Ngược lại đối với nhiều cây rừng khác yếu tố chủ đạo thường
thuộc về lý tính đất, chế độ nước và hàm lượng chất hữu cơ.
Trên cơ sở yêu cầu của cây trồng và tình hình đất đồi núi vùng Trung tâm
miền Bắc, bảng phân hạng đất dựa vào hai nhóm nhân tố tổng hợp là "độ dày
tầng đất" và "độ thoái hoá của đất" lấy "thực vật làm chỉ thị" được xây dựng.
Độ dày tầng đất là một yếu tố tổng hợp phản ánh không gian dinh
dưỡng và tổng dự trữ thức ăn, dự trữ nước để điều hoà độ ẩm. Mặt khác trong
đa số trường hợp nó phản ánh cả điều kiện đá mẹ và độ dốc. [27]


18

Chƣơng 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu, đối tƣợng và giới hạn của đề tài.

2.1.1. Mục tiêu.
2.1.1.1. Về lí luận
Góp phần tìm hiểu cơ sở khoa học của việc xác định tiêu chuẩn chọn đất
và phân hạng đất trồng rừng.
2.1.1.2. Về thực tiễn
Xác định các tiêu chuẩn và phân hạng đất cho rừng trồng Bạch đàn làm
nguyên liệu giấy và ván dăm nhằm sử dụng bền vững tài nguyên đất và hiệu
quả kinh doanh rừng tại tỉnh Phú Thọ.
2.1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rừng
trồng Bạch đàn Urophylla từ tuổi trở nên.


Phạm vi nghiên cứu: Tại một số lâm trường trồng rừng sản xuất
tại tỉnh Phú Thọ.

2.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề tài cần có những nội dung sau:
2.2.1. Thu thập, tổng hợp các tài liệu, kết quả nghiên cứu ở trong và ngồi
nước có liên quan đến đề tài.
2.2.2. Điều tra thu thập các thông tin ngồi hiện trường.
- Thu thập các thơng tin cần thiết ở các địa phương: số liệu chung, năng
suất rừng...
- Xác định năng suất rừng trồng và một số chỉ tiêu sinh trưởng như
chiều cao, đường kính cây.


19

- Đào phẫu diện, mô tả và lấy mấu đất để phân tích.

2.2.3. Nội nghiệp phân tích mấu đất và xử lý số liệu
- Phân chia mức độ thích hợp về điều kiện khí hậu, đất đai cho việc trồng
rừng Bạch đàn Urophylla và xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp
vĩ mơ cho việc trồng rừng Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích các mẫu đất với các chỉ tiêu chủ yếu: Hữu cơ, đạm tổng số,
các dạng độ chua đất, các chất dễ tiêu P, K, thành phần cơ giới...
- Xác định cấp năng suất rừng trồng và mối tương quan với các yếu tố
lập địa.
- Đề xuất phân hạng đất cấp vi mô.
- Thử nghiệm phân hạng tại Đội 8 – Lâm trường Đoan Hùng- Phú Thọ.
2.2.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp luận:
- Dùng không gian thay cho thời gian để bố trí và thu thập các số liệu
thí nghiệm ngồi hiện trường.
- Khí hậu và đất đai là hai yếu tố chính để phân hạng đất.
- Dùng phương pháp điều tra so sánh năng suất rừng trồng (rừng đã
định hình trên 3 tuổi) xác định các yếu tố đất đai có ảnh hưởng rõ rệt đến
sinh trưởng của rừng.
2.3.2. Phương pháp cụ thể
a. Phương pháp kế thừa, thu thập một số kết quả nghiên cứu đã có trước đây
có liên quan đến đề tài.
b. Điều tra ngoại nghiệp
- Chọn địa điểm nghiên cứu, lập tuyến điều tra, khảo sát hiện trạng khu
vực rừng trồng hiện có. Căn cứ vào bản đồ đã thu thập, mở các tuyến khảo sát
theo nguyên tắc đi qua các kiểu địa hình, loại đất, cây trồng có năng suất khác


20


nhau. Thông qua hệ thống tuyến khảo sát, tiến hành thu thập các thông tin
theo nội dung đã định.
- Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng D1.3 và Hvn của cây rừng, mơ tả thực
vật dưới rừng:
 Diện tích ơ tiêu chuẩn là 20m x 20m = 400m2
 Đo đường kính ngang ngực (D1,3) bằng thước kẹp và đo chiều
cao bằng thước Blumeleiss
- Ngồi ra trong các ơ tiêu chuẩn điển hình đào phẫu diện mơ tả đặc
điểm đất và lấy mẫu phân tích các tính chất lý, hố học của đất trong phịng
thí nghiệm.
Số lượng mẫu các ơ tiêu chuẩn, các chỉ tiêu theo dõi phải đủ lớn và đại
diện cho các điểm nghiên cứu khác nhau.
c. Phương pháp nội nghiệp.
- Xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp vĩ mơ cho việc trồng
rừng Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Phú Thọ: áp dụng GIS xây dựng bản đồ tỷ
lệ 1:100.000.
- Các mẫu đất lấy về được phân tích các chỉ tiêu lý, hố tính theo các
phương pháp đang được áp dụng phổ biến trong phịng thí nghiệm hiện nay:
 Dung trọng: Dùng ống đóng có thể tích V=100cm3
 Thành phần cơ giới: Theo phương pháp 3 cấp của FAO.
 Mùn tổng số: Theo Walkley- Black.
 Đạm tổng số:Theo Kjendhall
 PHKCl của đất: Dùng pH metter
 P2O5 dễ tiêu: Trắc quang (Bray II)
 K2O dễ tiêu: Theo Maslova (đo trên quang kế ngọn lửa)
 Độ ẩm: Sấy ở nhiệt độ 1050C trong 3 giờ


21


- Các số liệu thu thập được xử lý bằng chương trình Excel và phần
mềm SPSS.
- Ứng dụng xử lý thống kê trên máy tính bằng phần mềm SPSS cho
phép loại bỏ được những trị số đặc thù (về D1.3 và Hvn) có thể sai sót khi đo
đếm, quan sát. Việc loại bỏ các trị số này chủ yếu là căn cứ mức độ chênh
lệch giữa chúng với trị số trung vị của dãy quan sát.
- Xây dựng mối tương quan tuyến tính giữa sinh trưởng Bạch đàn
urophylla và tính chất đất bằng chương trình SPSS.
- Xác định các yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của rừng
trồng Bạch đàn làm cơ sở đề xuất bảng phân hạng.
- Sử dụng công nghệ GIS thử nghiệm phân hạng đất trên bản đồ và so
sánh kết quả với thực tế
d. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn
urophylla.
Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla dựa trên
các chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần NPV (Net Present Value): là hiệu số của
giá trị hiện tại dòng doanh thu (cash inflow) trừ đi giá trị hiện tại dòng chi phí
(cash outflow) tính theo lãi suất chiết khấu lựa chọn. Được tính theo cơng
thức sau:

n

n

NPV   ( Bt  Ct )(1  r )   Bt (1  r )
t

t 0


t 0

Trong đó:


t - thời gian tính dòng tiền



n - tổng thời gian thực hiện dự án

n t

n

  Ct (1  r ) nt (2.1)
t 0


22



r - tỉ lệ chiết khấu



Ct – Dịng chi phí tại thời gian t




Bt- Dòng doanh thu tại thời gian t
- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR: Chỉ tiêu này cho biết khả năng

thu hồi vốn đầu tư, phản ánh mức độ quay vòng của vốn và xác định thời
điểm hồn trả vốn đầu tư, nó cho phép so sánh và lựa chọn các phương án,
quy mô và kết cấu đầu tư khác nhau, phương án nào có IRR lớn hơn thì được
lựa chọn.Cơng thức tính của IRR như sau:
n

Bt

 1  IRR 

t

t o



n

Ct

 1  IRR 

t

t 0


(2.2)

Trong đó:


IRR: Tỷ suất hồn vốn nội bộ



t = 1, 2, 3,......n



n - tổng số năm trong một chu kỳ kinh doanh rừng trồng



Ct - Chi phí cho rừng trồng trong năm thứ t



Bt- Thu nhập từ rừng trồng trong năm thứ t
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu suất đầu tư BCR: là thương số giữa toàn bộ thu

nhập so với tồn bộ chi phí sau khi đã triết khấu đưa về giá trị hiện tại. BCR
tính theo cơng thức như sau:
Trong đó:

n


 Bt



t 0

BCR =

C
t 0

trong năm thứ t

(2.3)

n

t

Ct- Chi phí cho rừng trồng



Bt- Thu nhập từ
trong năm thứ t

rừng trồng



×