Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Xác định cấu trúc, năng suất và hiệu quả kinh tế của rừng bạch đàn (eucalyotus urophilla) trồng thuần loài tại lâm trường hữu lũng II, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.08 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------------------------------

NGUYỄN QUANG THỊNH

XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC, NĂNG SUẤT VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
CỦA RỪNG BẠCH ĐÀN (Eucalyotus urophylla) TRỒNG THUẦN LOÀI
TẠI LÂM TRƯỜNG HỮU LŨNG II, TỈNH LẠNG SƠN

Chuyên ngành: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Vũ Tiến Hinh

Hà Tây – 2007


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình đào tạo Cao học (Khoá XIII - Hệ tập trung)
trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và đánh giá kết quả học tập của khoá học,
được sự đồng ý của Khoa Sau đại học, dưới sự hướng dẫn của GS.TS Vũ Tiến
Hinh, tôi thực hiện đề tài luận văn: “Xác định cấu trúc, năng suất và hiệu
quả kinh tế của rừng Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) trồng thuần loài tại
Lâm trường Hữu Lũng II, tỉnh Lạng Sơn.” .
Trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn, cùng với sự cố gắng
của bản thân, tơi đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn,


sự giúp đỡ của khoa Sau đại học, các đồng nghiệp, lâm trường Hữu lũng II.
Nhân dịp này, tơi xin được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng
dẫn GS.TS Vũ Tiến Hinh đã tận tình chỉ bảo tơi trong suốt q trình thực hiện
đề tài, xin cám ơn các đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tơi hồn thành bản
luận văn này.
Tơi trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau Đại Học, các thầy giáo,
cô giáo đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và hết lịng giúp đỡ tơi trong suốt q
trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Lâm trường Hữu Lũng II
tỉnh Lạng Sơn, Phòng Kỹ Thuật, cán bộ, cơng nhân lâm trường đã nhiệt tình
giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho tôi thu thập số liệu tại cơ sở.
Mặc dù đã làm việc rất nỗ lực nhưng do hạn chế về thời gian nghiên
cứu, nên luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của các thầy cơ, các nhà khoa học và bạn bè đồng
nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bạch đàn là một trong những loài cây đang được trồng rộng rãi ở nước
ta hiện nay và được coi là cây nguyên liệu giấy chủ yếu ở trung tâm Miền
Bắc. Bạch đàn cũng được trồng thành công ở vùng đồi dốc thoải thuộc các
tỉnh Trung Bộ và vùng Đồng Bằng ở nhiều nơi trong cả nước.
Ở Việt Nam, từ những năm 1990, khi một số dòng Bạch đàn như U6,
U16 được nhập từ Trung Quốc có năng suất cao đã tạo nên một phong trào
chọn giống và lai tạo giống Bạch đàn. Kết quả khảo nghiệm và trồng thử
trong mấy năm qua cho thấy, hai giống PN2 và PN14 do Trung tâm nghiên cứu

Phù Ninh chọn lọc và nhân giống cũng như giống U6 do Xí nghiệp giống
thành phố Hồ Chí Minh nhập nội từ Trung Quốc là những giống sinh trưởng
nhanh ở nhiều nơi.
Trong thời gian 1996 - 2000, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã tạo được gần 80 tổ hợp lai
trong loài và lai khác loài giữa các loại Bạch đàn Uro (Eucalyptus Urophylla),
Bạch đàn trắng caman (E.camanldulensis), Bạch đàn Liễu (E.exserta). Qua
khảo nghiệm đã xác định được một số tổ hợp lai có năng suất cao nhất, chọn
được một số cá thể làm cây đầu dòng và đã xây dựng được một số khu khảo
nghiệm và trồng thử trên một số vùng sinh thái. Kết quả bước đầu cho thấy
đây là những giống có triển vọng cho trồng rừng kinh tế ở nước ta [11]
Trung tâm Nguyên liệu giấy (1998) cho thấy, ở hầu hết các địa điểm
được khảo nghiệm, trong 2 - 3 năm đầu, các dòng Bạch đàn PN2 và PN14 đều
cho năng suất cao hơn các dòng U16 và GU được nhập nội từ Trung Quốc về
và cao hơn rất nhiều so với giống sản xuất. Mặt khác, khảo nghiệm tại Gia
Thanh và Sóc Đăng (Phú Thọ) cũng cho thấy các dịng Bạch đàn PN2 và PN14


2

sau 39 tháng có thể tích thân cây 20 – 26,6dm3/cây với năng suất 10-14,6m3/
ha/ năm (khoảng cách trồng 3 x 2m).
Cho đến nay những nghiên cứu về các dòng Bạch đàn nói trên cịn ít,
đặc biệt là vấn đề liên quan đến năng suất và hiệu quả kinh tế.
Vì thế, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Xác định cấu trúc, năng suất và hiệu quả kinh tế của rừng Bạch đàn
(Eucalyptus urophylla) trồng thuần loài tại lâm trường Hữu Lũng II, tỉnh
Lạng Sơn”.



3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trên thế giới
1.1.1. Những nghiên cứu về Bạch đàn E.urophylla
Từ thế kỷ XIX, Bạch đàn đã từ châu Úc du nhập đến nhiều nước trên
thế giới và được đánh giá như là một lồi cây nhập nội có khả năng thích ừng
với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau và sau đó, nó lại được đánh giá là loài
cây trồng rừng kinh tế. Năm 1955, trên thế giới đã có 700.000 ha rừng trồng
Bạch đàn và tới năm 1975 đã có khoảng 4 triệu ha rừng trồng tại nhiều vùng
khác nhau của 58 nước.
Phải nói rằng, sự thành cơng của việc phát triển rộng lớn của rừng trồng
Bạch đàn trên nhiều nước có phần đóng góp rất lớn của những chương trình
nghiên cứu về loài và xuất xứ Bạch đàn. Đề cập đến những cơng trình nghiên
cứu liên quan đến khảo nghiệm lồi và xuất xứ Bạch đàn Urophylla, có thể kể
đến những cơng trình như:
Khảo nghiệm lồi Bách đàn E.urophylla năm 1977 trên 11 địa điểm
khác nhau ở Brazil. Kết quả cho thấy, ở tuổi 3,5 sinh trưởng chiều cao trung
bình cho cả 11 địa điểm là 8,34m. Địa điểm có sinh trưởng tốt nhất là
Aracruz, chiều cao đạt trung bình là 11,94m, nơi kém nhất là Joao Pinheiro
đạt 3,27m.
Khảo nghiệm 17 xuất xứ Bạch đàn Urophylla ở tỉnh Santos và xuất xứ
ở Brazil, Amazon cho thấy có sự tương quan rất chặt chẽ giữa độ cao phân bố
của các xuất xứ với tỷ lệ sống, sinh trưởng chiều cao. Khảo nghiệm 22 xuất
xứ Bạch đàn Urophylla năm 1981 ở Wanagama, Indonesia cho thấy sau 22
tháng tuổi, các xuất xứ từ Wetar sinh trưởng trội hơn về chiều cao và đường
kính.



4

Sau đó, vào năm 1971 người ta lại tiến hành khảo nghiệm 5 xuất xứ
Bạch đàn Urophylla trên 2 lập địa khác nhau ở Puerto Rico. Sau 8 năm cho
thấy xuất xứ ở Timor sinh trưởng tốt hơn về đường kính và chiều cao.
Những nghiên cứu thành cơng về lồi Bạch đàn lai giữa E.grandis với
E.urophylla ở Brazil và E.allba với E.urophylla ở Cơng Gơ đã góp phần vào
việc tạo được những khu rừng trồng nguyên liệu giấy có năng suất cao.
Ngày nay, việc khảo nghiệm xuất xứ Bạch đàn Urophylla đã được một
số tổ chức Lâm Nghiệp như Trung tâm Lâm Nghiệp nhiệt đới Pháp (CTFT), cơ
quan Lâm Nghiệp Úc (CSIRO) quan tâm và giúp đỡ cung cấp hạt giống, hướng
dẫn phương pháp và kể cả việc hỗ trợ kinh phí cho khảo nghiệm.

1.1.2. Nghiên cứu quy luật cấu trúc lâm phần
1.1.2.1. Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo đường kính
Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính là quy luật cơ bản của lâm
phần và được các nhà Lâm học, điều tra rừng quan tâm nghiên cứu. Đầu tiên
phải kể đến cơng trình nghiên cứu của Meyer (1934), Prodan (1949). Các tác
giả này đã mơ tả phân bố số cây theo cỡ đường kính của rừng tự nhiên bằng
phương trình tốn học dạng:
N = k.e-αdi

(1.1)

Phương trình này được gọi là phương trình Meyer hay hàm Meyer.
Tiếp đó, Naslunel (1936-1937) đã xác lập phân bố Charlier-A đối với
phân bố N-D của lâm phần thuần loài đều tuổi. Loetch (1973) dùng hàm Beta
nắn phân bố thực nghiệm, Roemisch (1975) nghiên cứu khả năng dùng hàm
Gamma mô phỏng sự biến đổi của phân bố N/D theo tuổi. J.L.F Batista và

H.T.Z Docuto (1992) trong khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Maranhoo Brazin đã dùng hàm Weibull mô phỏng phân bố N-D.


5

1.1.2.2. Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường
kính
Đây cũng là quy luật cơ bản và quan trọng trong hệ thống các quy luật
cấu trúc lâm phần. Qua nghiên cứu nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương
ứng với mỗi cỡ đường kính ln tăng theo tuổi. Trong một cỡ kính xác định,
ở các cấp tuổi khác nhau cây rừng thuộc cấp sinh trưởng khác nhau.
Tiurin.D.V (1927) đã phát hiện ra quy luật này khi xác lập đường cong chiều
cao ở các cấp tuổi khác nhau. Prodan.M (1935) cho thấy độ dốc đường cong
chiều cao có chiều hướng giảm dần khi tuổi tăng lên.
Curtis.R.O đã mô phỏng quan hệ chiều cao với đường kính và tuổi theo
dạng phương trình: Logh = d + b1.1/d + b2.1/A + b3.1/dA

(1.2)

Tại từng tuổi nhất định dùng phương trình:
Logh = b0 + b1.1/d

(1.3)

Các tác giả như: Hohenadl; Krenn; Michailoff; Naslund, M; Anoutchin,
NP; Eckert, KH; Korsum, F; Levakovic, A; Meyer, H.A; Munller và V.Soest,
J đã đề xuất dùng các phương trình dưới đây:
h = a0 + a1d + a2d2

(1.4)


h - 1,3 = d2/(a + bd)2

(1.5)

h = a.bd; logh = a + b.logd

(1.6)

h = a.(1 – e-bd)

(1.7)

h = a + b.logd

(1.8)

h - 1,3 = a.(d/(1 + b))b

(1.9)

h - 1,3 = a.e-b/d.

(1.10)

log (h – 1,3) = loga + b.((loge)/d)

(1.11)

h = a(b.lnd – c.(lnd)^2)


(1.12)

h = a0 + a1d + a2logd

(1.13)

h = a0 + a1d + a2d2 + a3d3.

(1.14)


6

Như vậy, để biểu thị tương quan chiều cao với đường kính có thể sử
dụng nhiều dạng phương trình khác nhau. Việc lựa chọn phương trình thích
hợp nhất cho những đối tượng nào thì chưa được nghiên cứu đầy đủ. Hai dạng
phương trình được sử dụng nhiều nhất để biểu thị đường cong chiều cao là
phương trình Parabol và Logarit.
1.1.3. Biểu thể tích
Biểu thể tích 2 nhân tố là biểu ghi bằng số liệu mối quan hệ giữa thể
tích với 2 nhân tố cấu thành thể tích là đường kính và chiều cao thân cây.
Prodan, Meyer, Spurr, Halaj, Tiorin… đưa ra nhiều dạng phương trình khác,
nhưng tập trung nhiều nhất là 2 dạng phổ biến:
V = a + b.d2.h

(1.15)

V = K.db.ha


(1.16)

Hai dạng phương trình trên được nhiều tác giả kiểm tra và thiết lập để
cấu trúc nên biểu thể tích 2 nhân tố ở nhiều nước, như Đức, Ấn độ, Mỹ,
Indoiaxia, Thái lan… Mặc dù là biểu thể tích 2 nhân tố nhưng yếu tố hình
dạng thân cây đã được xem như một hằng số hoặc một biến số quy về đường
kính và chiều cao thân cây. Vì vậy, độ chính xác và tính rộng rãi trong sử
dụng của biểu thể tích hai nhân tố rất cao. Để giảm chi phí cho cơng tác
nghiên cứu lập biểu, một số quốc gia hoặc địa phương thường tiến hành
kiểm nghiệm biểu thể tích hai nhân tố của nước láng giềng hay địa phương
lân cận để sử dụng cho đối tượng của mình.
1.1.4. Biểu cấp đất
Cấp đất là một chỉ tiêu biểu thị sức sản xuất hay mức độ phù hợp của
điều kiện hoàn cảnh đối với một kiểu rừng nhất định. Nghiên cứu lập biểu cấp
đất làm cơ sở cho việc xác định và sử dụng các biểu điều tra, sản lượng nói
riêng và thiết kế các biện pháp kinh doanh rừng nói chung.


7

Trên thế giới, q trình tìm tịi những chỉ tiêu biểu thị mức độ phù hợp
của điều kiện hoàn cảnh rừng đã trải qua nhiều giai đoạn. Trước tiên người ta
đi theo hướng tìm những nhân tố có tính chất nguyên nhân, tác động rõ đến quá
trình sinh trưởng của rừng như khí hậu, khơng khí, đất… Nhưng thực ra có rất
nhiều nhân tố luân chuyển ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây rừng,
cho dù có thể xác định được một nhân tố chủ đạo đi chăng nữa, thì nhân tố này
lại tác động một cách tổng hợp với các nhân tố khác. Do đó, đi theo hướng này
khơng đạt được kết quả mong muốn. Sau đó, việc nghiên cứu đi theo hướng
dùng nhân tố có tính chất hệ quả, như trong nông nghiệp dùng kết quả thu hái
để phân chia cấp sản lượng của đồng ruộng còn đối với lâm nghiệp dựa vào trị

số sản lượng của rừng để phân chia sức sản xuất.
Từ khi Eichhorn (1904) phát hiện ra quy luật “Trữ lượng rừng là một
hàm số của chiều cao lâm phần” thì phương pháp phân chia cấp đất được củng
cố với cơ sở lý luận vững chắc hơn. Theo ông, tất cả các lâm phần trên các điều
kiện khác nhau, có cùng trữ lượng khi chúng có cùng chiều cao bình qn.
Nội dung chính của phân chia cấp đất là phải tìm được mối quan hệ
theo tuổi của một nhân tố điều tra được lựa chọn nào đó, thơng thường là
chiều cao bình qn lâm phần, chiều cao bình quân tầng ưu thế… Nhân tố
được lựa chọn này phải có quan hệ chặt chẽ với trữ lượng, ít chịu ảnh hưởng
của biện pháp kinh doanh.
Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đều khẳng định, quy luật sinh
trưởng chiều cao của mỗi loài cây phụ thuộc vào các vùng sinh thái. Từ đó
ứng với mỗi kiểu sinh trưởng chiều cao, cần xác định một biểu cấp đất hay
còn gọi là một hệ thống cấp đất.
Như vậy, việc phân chia cấp đất cho dù sử dụng chỉ tiêu nào thì thực
chất là đánh giá và phân chia trực tiếp mức độ sinh trưởng của rừng.


8

1.1.5. Những nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế
Năm 1974, giáo sự Jonh E – Gunter trường đại học Tổng Hợp thuộc bang
Michigan - Mỹ đã xuất bản giáo trình: “Những vần đề cở bản trong đánh giá đầu
tư Lâm nghiệp”. Trong đó tác giả đưa ra các cơ sở để đánh giá hiệu quả trồng
rừng, với những nội dung cơ bản như: Lãi suất đơn, lãi suất kép, thời gian và năm
chiết khấu.
Năm 1979, tổ chức Nông nghiệp và lương thực thế giới (FAO) đã xuất
bản giáo trình: “Phân tích các Dự án Lâm Nghiệp” do Hans M – Gregesen và
Amoldo H. Contresal biên soạn.
Theo tài liệu lưu trữ của TREE CD – ROM (Cab. International for

Asia), từ năm 1939 đến tháng 4 năm 1995 có 48 cơng trình đánh giá hiệu quả
kinh tế trong Lâm nghiệp. Trong đó có 19 cơng trình đánh giá hiệu quả kinh
tế Lâm nghiệp nhiệt đới, đặc biệt có cơng trình đánh giá hiệu quả kinh tế rừng
trồng, trong đó có 9 cơng trình tập trung vào đánh giá hiệu quả do áp dụng các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh.

1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về Bạch đàn E.urophylla
Ở Việt Nam, Bạch đàn đã được nhập vào trồng rải rác trước năm 1945.
Từ giữa những năm 60 ở miền Bắc đã nhập giống Bạch đàn trắng
(E.tereticornis), Bạch đàn liễu ( E.exserta), Bạch đàn chanh (E.citriodora),
Bạch đàn đỏ (E.robus)... để phát triển phong trào trồng cây trong nhân dân và
thiết lập rừng trồng ở các Lâm trường Quốc doanh.
Từ năm 1960, Bạch đàn trở thành một trong những loài cây chủ yếu
của Lâm nghiệp, tuy nhiên cho đến nay Bạch đàn đã trải qua những bước
thăng trầm, có thể chia ra thành 3 giai đoạn: Từ 1977 – 1983 là thời kỳ bài trừ
Bạch đàn mạnh nhất, do quan niệm Bạch đàn trồng làm xấu đất, làm cạn kiệt


9

nguồn nước, do đó diện tích trồng chỉ có 2000 đến 3000 ha/năm, mặt khác
Bạch đàn còn bị tàn phá hoặc khơng được chăm sóc, nhiều cây con trong
vườn đủ tiêu chuẩn nhưng bị vứt bỏ. Giai đoạn 1984 – 1986 là giai đoạn phục
hồi, diện tích trồng Bạch Đàn hàng năm không ngừng tăng lên. Từ năm 1987
trở lại đây là giai đoạn phát triển, diện tích trồng rừng Bạch đàn ln đứng
đầu trong các lồi cây trồng của Lâm nghiệp. Các loài Bạch đàn được trồng
nhiều như: E. exserta, E. camaldulensis, E. citriodora, E. robusta, E.
urophylla…
Nguyễn Dương Tài (1992) [18] nghiên cứu xuất xứ Bạch đàn

(Eucalyptus urophylla) đã đưa ra kết luận, 21 xuất xứ Eucalyptus urophylla từ
Indonesia đều tỏ ra tốt với điều kiện tự nhiên ở nơi thí nghiệm trong những
năm đầu.
Nguyễn Thanh Vân (2003) [21] khi đánh giá sinh trưởng Bạch đàn
(Eucalyptus urophylla) trồng thuần loài tại Lạng Sơn, Bắc Giang, đã so sánh
sinh trưởng Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) giữa các dòng U6, PN2 và Bạch
đàn hạt trồng thuần lồi và kết luận các dịng này đều phù hợp với điều kiện
tự nhiên ở Bắc Giang - Lạng Sơn và nhận thấy dòng PN2 sinh trưởng nhanh
nhất.
Phạm Quang Việt (2004) [22] qua nghiên cứu Bạch đàn Eucalyptus
urophylla ST. Black đã chọn được 2 dòng vượt trội nhất về sinh khối tại thời
điểm 3 tháng tuổi ở cây hom.
Gần đây, Vũ Thành Nam (2006) [16] đã nghiên cứu cấu trúc và mô phỏng
sinh trưởng Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) dịng U6 và PN2 trồng thuần lồi
nhằm đề xuất một số giải pháp kinh doanh có hiệu quả cho loài cây này tại địa
phương.


10

1.2.2. Nghiên cứu quy luật cấu trúc lâm phần
1.2.2.1. Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D)
Đối với rừng tự nhiên nước ta, Đồng Sỹ Hiền (1974) [5] đã dùng họ
đường cong Pearson biểu diễn phân bố số cây theo cỡ đường kính của rừng tự
nhiên. Vũ Nhâm (1988) [17] và Vũ Tiến Hinh (1990) [7] cho thấy, có thể
dùng phân bố Weibull với hai tham số để biểu thị phân bố N-D cho những
lâm phần thuần lồi, đều tuổi như thơng đi ngựa (pinus massoniana),
thơng nhựa (Pinus merkussii), Mỡ (Manglietia glauca) và bồ đề (Styrax
tonkinensis).
Nguyễn Ngọc Lung (1999) [14] khi nghiên cứu phân bố số cây theo cỡ

đường kính đã thử nghiệm 3 hàm phân bố: Poisson, Charlier, Weibull cho
rừng thông ba lá (Pinus kesiya) ở Việt Nam và rút ra kết luận: Hàm Charlier
kiểu A là hàm phù hợp nhất.
Tuy vậy, đối với rừng thuần loài đều tuổi nhiều tác giả đã chọn phân bố
Weibull để mơ tả và xây dựng mơ hình cấu trúc đường kính lâm phần.
1.2.2.2. Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N-H)
Phân bố số cây theo chiều cao thường ít được các tác giả quan tâm hơn
và cũng được sử dụng ít hơn trong thực tế. Với các lâm phần thuần loài đều
tuổi, phân bố số cây theo chiều cao xét cho toàn lâm phần hay trong từng cỡ
chiều cao đều có dạng đường cong một đỉnh hơi lệch phải.
Theo nhiên cứu của nhiều tác giả, nếu lấy chiều cao bình quân làm đơn
vị, thì giới hạn thấp nhất về chiều cao là 0,69 và cao nhất là 1,16; hệ số biến
động chiều cao lâm phần khoảng 8%. Nguyễn Ngọc Lung (1999) [14] đã
dùng hàm Charlier kiểu A mô phỏng phân bố N-H cho lâm phần thông ba lá
(Pinus kesiya) ở Việt Nam và nhân thấy có 82% các ơ tiêu chuẩn phù hợp.


11

Với rừng tự nhiên lá rộng nước ta, theo Đồng Sỹ Hiền (1974) [5], phân
bố chiều cao của từng loài cây hay lâm phần thường có nhiều đỉnh, phản ánh
kết cấu phức tạp của rừng tự nhiên. Hệ số biến động chiều cao với lâm phần
tự nhiên từ 25-40%, trong phạm vi loài từ 12-34%.
1.2.2.3. Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường
kính
Khi sắp xếp cây rừng cùng một lúc theo hai đại lượng đường kính
ngang ngực (D1.3) và chiều cao cây (H) sẽ được quy luật phân bố hai chiều và
có thể định lượng thành quy luật tương quan giữa chiều cao và đường kính
thân cây, quy luật kết cấu cỏ bản này cũng được nhiều tác giả nghiên cứu.
Ở nước ta, Đồng Sỹ Hiền (1974) [5] đã thử nghiệm năm dạng tương

quan thường được nhiểu tác giả nước ngoài sử dụng là: (1.4), (1.6), (1.8),
(1.13), (1.14), và kết luận phương trình (1.6) thích hợp cho đối tượng rừng
hỗn giao khác tuổi có nguồn gốc tự nhiên.
Vũ Nhâm (1988) [17] dùng phương trình (1.8) xác lập quan hệ H/D cho
mỗi lâm phần làm cở sở lập biểu thương phẩm gỗ trụ mỏ rừng thông đuôi
ngựa. Vũ Tiến Hinh (2000) [8] dùng phương trình (1.8) xác lập quan hệ H/D
cho các lồi Mỡ, Sa mộc, thơng đi ngựa.
Như vậy, đối với rừng trồng thuần loài dạng phương trình được sử
dụng nhiều nhất để biểu thị đường cong chiều cao là phương trình Logarit.
1.2.3. Biểu thể tích
Phân tích sâu sắc thực tiễn điều tra rừng nước ta Đồng sỹ Hiền khẳng
định: “Ở Việt Nam chỉ nên lập và sử dụng biểu thể tích 2 nhân tố”. Để lập
loại biểu này cần nghiên cứu mối quan hệ giữa thể tích (V) với đường kính
(D) và chiều cao (H) thân cây. Vì vậy, mối quan hệ này được hầu hết các tác
giả trong và ngoài nước quan tâm.


12

Đồng Sỹ Hiền (1974) [5] đã kiển tra hai dạng phương trình (1.15) và
(2.16) và kết luận: Có thể lập biểu thể tích cho một số lồi cây rừng tự nhiên
theo dạng phương trình (1.16). Sau này phương trình (1.16) được Viện điều
tra quy hoạch rừng sử dụng để lập biểu cho một số kiểu rừng trồng thuần loài
như: Đước, Tràm, Bạch đàn… Vũ Đình Phương cũng sử dụng phương trình
này để lập biểu thể tích cho thơng Caribe, keo vùng trung tâm.
Phạm Ngọc Giao (1976) đề xuất phương trình: V = a + b.h + c.d2.h (1.17)
sau đó được Bộ môn Điều tra quy hoạch rừng thử nghiệm và giới thiệu để lập
biểu thể tích cho 2 lồi thơng nhựa và thông đuôi ngựa vùng Đông Bắc. Biểu
này được sử dụng rộng rãi trong điều tra hiện nay.
Việc kiểm nghiệm biểu thể tích, các tác giả trong nước và ngoài nước

thường dùng phương pháp chặt trắng lâm phần làm tài liệu đối chứng để kiểm
tra biểu. Cách làm này cho độ chính xác rất cao, nhưng cũng rất tốn công sức,
tiền của và không phải lúc nào cũng thực hiện được.
Vì vậy, thực tiễn hiện nay thường có hiện tượng sử dụng một biểu thể
tích ngồi giới hạn cho phép của biểu đó. Vấn để đặt ra là có thể kiểm tra biểu
mà khơng cần chặt tồn bộ cây rừng trong lâm phần hay không?

1.2.4. Cấp đất
Phân chia cấp đất hay cấp năng suất là nội dung không thể thiếu khi
nghiên cứu sinh trưởng, tăng trưởng và là cơ sở đánh giá năng suất của rừng.
Nguyễn Ngọc Lung (1987) [13] dùng hàm Schumacher biểu diễn sinh trưởng
chiều cao bình quân tầng cây trội lâm phần thông ba lá ở Lâm Đồng, từ đó
phân chia các đường cong cấp đất.
Trịnh Đức Huy (1988) [10] đã xây dựng hệ thống cấp đất cho rừng Bồ
đề tại Trung tâm ẩm Bắc Việt Nam, chỉ tiêu được chọn để phân chia cấp đất
là chiều cao bình quân cộng và từ số liệu đo đếm tạm thời trên các ô tiêu


13

chuẩn và giải tích cây tiêu chuẩn bình qn lâm phần. Hàm Gompertz được
chọn để mô tả sinh trưởng chiều cao và bằng phương pháp Affill phân thành 5
đường cong chỉ thị cấp đất.
Nguyễn Trọng Bình (1996) [1] xác lập đường cong cấp đất dựa vào
quan hệ chiều cao của cây ở 2 thời điểm khác nhau theo dạng:
H(A+n) = a + b.HA

(1.18)

Sau đó xác lập quan hệ giữa tham số a, b với tuổi. Thông qua tuổi xác

định lại các giá trị a, b từ các phương trình lý thuyết, căn cứ vào chiều cao cho
trước tại tuổi A0, suy diễn đường sinh trưởng chiều cao cho từng cấp đất.
Bằng phương pháp này, tác giả đã thử nghiệm cho 3 lồi cây thơng nhựa,
thơng đi ngựa và Mỡ với định kỳ n = 2 năm.
Vũ Tiến Hinh (2000) [8] đã dùng hàm Gompertz mô tả sinh trưởng
chiều cao (Hg) của cây bình qn các lâm phần Sa mộc, thơng đuôi ngựa và
Mỡ và dùng Hg làm chỉ tiêu phân chia cấp đất.
Đào Công Khánh (2001) [12] đã dùng chiều cao bình quân Hg làm chỉ
tiêu phân chia cấp đất cho Bạch đàn Urophylla, Keo tai tượng và dùng hàm
Schumacher để mô phỏng chiều cao. Để lập biểu cấp đất cho Bạch đàn
Urophylla, tác giả đã dùng phương pháp cố định tham số a và thay đổi tham
số b lập phương trình sinh trưởng cho 4 cấp đất. Do Lồi cây này được thâm
canh với cường độ cao ở các tỉnh vùng nguyên liệu giấy nên tốc độ sinh
trưởng khá cao, tác giả đã ngoại suy một cấp đất phía trên. Cấp đất ngoại suy
này chỉ là tạm thời, việc bổ sung một cấp đất tốt hơn chỉ được làm sau này khi
có các lâm phần bạch đàn Urophylla năng suất cao và có tuổi đủ lớn để điều
tra đo đếm.


14

1.2.5. Những nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế
Trong những năm còn thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đánh
giá hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như đánh
giá hiệu quả hoạt động kinh doanh trồng rừng nói riêng chưa được các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư quan tâm và đề cập đúng mức. Bởi lẽ, tất cả
các hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện theo kế hoạch bắt buộc
của nhà nước. Mọi chi phí sản xuất cũng như toàn bộ vốn đầu tư được ngân
sách nhà nước cấp phát hoàn toàn, sản phẩm làm ra được nhà nước chỉ định
bao tiêu.

Những đơn vị làm ăn thô lỗ hoặc những rủi do bất trắc được Nhà
Nước cấp bù và hỗ trợ. Vốn cấp được sử dụng lâu dài, không phải trả lãi và
khơng phải hồn trả… Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả mang tính hình thức
chiếu lệ, phương pháp kỹ thuật và hệ thống chỉ tiêu đánh giá đơn giản, giá
cả được cố định trong nhiều năm. Từ kết quá đánh giá hiệu quả không phản
ánh đúng sự thật, vốn sản xuất không được bảo tồn và phát triển.
Tại trường Đại học Lâm nghiệp, từ năm 1991 cũng bắt đầu đưa vào
chương trình giảng dạy các phương pháp, kỹ thuật và hệ thống chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh trong lâm nghiệp. Các
nội dung đó cũng đã được đề cập và biên soạn trong một số bài giảng mơn
học và giáo trình như: Phân tích các dự án lâm nghiệp (1993) [2], quản lý
dự án đầu tư (1997) [3].
Năm 1997, Đỗ Doãn Triệu đã biên soạn tài liệu: “Đánh giá kinh tế
các dự án đầu tư trồng rừng trong cơ chế thị trường” [20]. Tài liệu này đã
đề cập đến phương pháp phân tích các dự án đầu tư trồng rừng, đặc biệt là
phân tích tài chính và phân tích kinh tế dự án.


15

Trần Hữu Dào (2001) [4] đánh giá hiệu quả rừng Quế (Cinnamomun
cassia blume) trồng thuần loài ở Việt Nam và đã đề cập đến phương pháp
đánh giá hiệu quả kinh tế trồng rừng Quế, đặc biệt là phân tích đánh giá rủi
ro trong kinh doanh trồng Quế và xác đinh tuổi thành thục tài chính trong
kinh doanh trồng Quế.
Như vây, việc đánh giá hiệu quả kinh tế bước đầu đã được nghiên cứu
ở nước ta nhưng khả năng vận dụng, phổ cập vẫn còn hạn chế.


16


CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG,
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU

2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bạch đàn được xem là loài cây của Australia. Hiện nay, người
ta biết có hơn 600 lồi ngun sản ở Australia và một số đảo quanh
vùng. Có 2 lồi E.deglupta và E.urophylla xuất hiện bên ngoài khu
phân bố của Australia. Hai loài Bạch đàn này có nhiều triển vọng để
gây trồng ở các vùng có vĩ độ thấp. Chúng là lồi chịu được vĩ độ thấp
tốt hơn so với bất kỳ loài Bạch đàn nào khác được tìm thấy ở
Australia.
Bạch đàn Eucalyptus Urophylla là lồi nhập nội có phân bố tự
nhiên ỏ một số quần đảo của Indonesia và đã được khảo nghiệm cải
thiện giống ở nhiều vùng cho kết quả khả quan: Vùng trung tâm (Phú
Thọ, Yên Bái...), Đông Bắc (Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên...),
miền Trung (Quảng trị, Thừa Thiên Huế), Tây Nguyên (Gia Lai...).
Đây là loài cây mọc nhanh, chu kỳ kinh doanh ngắn (6-8 năm), phạm
vi thích ứng rộng, dáng thân thon thẳng, độ che phủ của tán lá cao hơn
so với Bạch Đàn trắng nên tác dụng chống xói mịn tốt hơn. Kỹ thuật
thâm canh rừng trồng đã được xác định và nhiều dịng vơ tính đã được
cơng nhận giống (PN2 và PN14) hoặc giống tiến bộ kỹ thuật (W4, W5,
U6)... kỹ thuật nhân hom và nuôi cấy mơ đã được áp dụng và có khả
năng cung cấp cây con có chất lượng và số lượng lớn (Trung tâm
nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, Trung tâm Nông Lâm Nghiệp Quảng
Ninh).


17


2.1.1. Phân bố địa lý
Bạch đàn Urophylla là một trong hai lồi Bạch đàn E. Urophylla,
E. alba khơng mọc tự nhiên ở lục địa Châu Úc. Khu vực phâm bố tự
nhiên được giới hạn bởi các hòn đảo cực nam quần đảo Sonda của
Indonesia, bao gồm các đảo Timor, Wetar, Alor, Pandar, Andonara và
Flores. Những đảo này bị tách biệt về phía Bắc và phía Nam bởi các biển
Timor và Flores. Bên trong các đảo này, E.Urophylla có mặt trên một
giải giữa các vĩ độ nam 7 030’ và 10 0. Giới hạn về phía Tây và phía Đơng
thường khơng rõ. Trong vùng phân bố tự nhiên E. Urophylla sống ở
vùng bán sơn địa đến vùng núi. Trong đảo Wetar gặp loài Bạch đàn ở độ
cao 300 đến 400 m, trong khi đảo Timor chỉ xuất hiện ở độ cao 2900m
trên đỉnh Tatamailan (2963m) Nguyễn Luyện (1993) [15].
Trong vùng phân bố tự nhiên về phía Tây, lồi Bạch đàn này lan
tới dãy núi dài khoảng 250 km của đảo Flores, tiếp đó cịn thấy Bạch đàn
xuất hiện ở đảo Adorama, Lomblem, Alor và cuối cùng là đảo Wetar và
Timor về phái Tây.
Khu vực khô hạn hơn trong vùng phân bố của loài Bạch đàn này
gồm các đảo Adorama, Pandar, Alor, phần Bắc đảo Timor và Tây đảo
Wetar, trong khu vực này tổng lượng mưa bình quân chỉ từ 900 đến
1000 mm.
Khu vực khác bao gồm phần Nam đảo Timor, một phần cuả đảo
Flores và phía Tây đảo Wetar, có tổng lượng mưa cả năm từ 1400 1500 mm. Nhìn chung đây là vùng có tiểu khí hậu mưa mùa hè, tổng
lượng mưa biến động từ 1000 đến 1500mm và mùa khơ khơng q khắc
nghiệt. Nhiệt độ tối cao trung bình của tháng nóng nhất là 29 0 C, nhiệt
độ tối thấp của tháng trung bình lạnh nhất 8-10 0 C, nhiệt độ trung bình
năm là 27,2 0 C.


18


2.1.2 Đặc điểm hình thái
Bạch đàn E. Urophylla là lồi cây sinh trưởng nhanh và đạt đến
kích thước lớn. Trong vùng Laclubar trên đảo Timor thuộc Bồ Đào Nha
có những cây cao tới 53m đường kính đạt tới 1,26m, đặc biệt dãy Monter
Mutio với độ cao 2100m có những cá thể cực lớn, đường kính đạt 2,5m.
Trong khi đó ở những nơi khô hay trên các đỉnh dông, E. Urophylla lại
có dạng rất khác, chiều cao giảm, mặc dầu thân có thể đạt đường kính
lớn [15].
Dạng thân cành: Loại Bạch đàn E. Urophylla tăng trưởng nhanh có
thể đạt kích thước lớn, thân thẳng, phân cành thấp và tỉa thưa tự nhiên
tốt.
Hình thái vỏ: vỏ của Bạch đàn E. Urophylla ít sần sùi, ráp dày và
có sợi thẳng. Mầu sắc thơng thường là mầu nâu. Cây non có vỏ nâu đỏ.
Ở nơi độ cao thấp thì vỏ trơn nhẵn, với phần gốc cao đến 2m có vỏ sần
sùi. Kiểu vỏ thay đổi tuỳ theo điều kiện nơi mọc và tuổi trưởng thành
của cây.
Kiểu lá: Lá Bạch đàn E. Urophylla của cây trưởng thành sắp xếp
so le, hình dáng kích thước thay đổi theo tuổi của cây. Cuống lá có
chiều dài từ 19-22mm, chiều dài phiến lá từ 127 -158mm, chiều rộng
phiến lá 38 - 68mm. Lá non rất khác so với lá trưởng thành có màu sắc
ngả đỏ [15].
Dạng hoa quả: Hoa Bạch đàn E. Urophylla là hoa lưỡng tính có
cấu tạo thích hợp với kiểu thụ phấn chéo nhờ cơn trùng. Cụm hoa có
kiểu hình xim hai ngả, số quả của cụm trung bình là 7, đế của hoa có
hai dạng chủ yếu là đế hình chng và dạng đế hình bán cầu. Bầu hoa
là bầu thượng, bầu khi lõm xuống thì phẳng, tỉ lệ giữa hai lồi này
thường thay đổi theo độ cao.



19

2.1.3. Cơng dụng của Bạch đàn
Gỗ Bạch đàn Urophylla có thể phục vụ nhiều mục đích khác nhau, kể
cả đồ gia dụng và xây dựng, nhưng thông dụng và phổ biến nhất là cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp giấy và gỗ trụ mỏ.
Năng suất rừng Bạch đàn Urophylla trồng quảng canh trên lập địa xấu
chỉ đạt 7,7 – 8m3/ ha/ năm. Trong khi đó thâm canh cao sản ở vùng Trung tâm
có thể đạt 16 – 20m3/ ha/ năm.

2.1.4. Một số biểu lập cho rừng trồng Urophylla
Biểu lập cho rừng trồng Urophylla chủ yếu thuộc đối tượng rừng trồng
từ hạt, các biểu gồm:
1. Biểu thể tích hai nhân tố cây đứng có vỏ Bạch đàn Urophylla.
2. Biểu cấp đất rừng trồng Bạch đàn Urophylla (theo chiều cao bình quân Hg).
3. Biểu quá trình sinh trưởng rừng trồng Bạch đàn Urophylla.

2.2. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
2.2.1.1. Vị trí địa lí
Lâm trường Hữu Lũng II thuộc huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, cách
Quốc lộ 1A khoảng 1km về phía Đơng Nam.
- Phía Bắc giáp huyện Văn Quan và huyện Bắc Sơn.
- Phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên.
- Phía nam và Tây Nam giáp tỉnh Bắc Giang.
- Phía Đơng giáp huyện Chi Lăng và tỉnh Bắc Giang.
Đây là vùng chuyển tiếp giữa trung du và miền núi, có đường Quốc lộ
1A và đường sắt liên vận quốc tế, rất thuận tiện cho việc giao lưu hàng hoá
thương mại - dịch vụ với các tỉnh trong nước .



20

2.2.1.2. Địa hình
Lâm trường Hữu Lũng II là huyện miền núi, với địa hình đồi núi cao. Độ
cao trung bình của khu vực này so với mực nước biển từ 450 - 500 m. Độ dốc
trung bình khoảng 17-200. Xen lẫn với đồi núi là các thung lũng bằng phẳng và
các khe suối có nước chảy quanh năm. Nhìn chung, địa hình phức tạp, bị chia
cắt mạnh bởi các dãy núi đất sắp xếp theo dạng bát úp.
2.2.1.3. Khí hậu thuỷ văn
Lâm trường Hữu Lũng II chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu
vùng núi phía bắc, khơ lạnh và ít mưa vào mùa đông, mưa nhiều vào
mùa hè. Nhiệt độ khơng khí trung bình hàng năm là 22,7 0c, tháng có
nhiệt độ khơng khí trung bình cao nhất là 28.5 0c (tháng7) và thấp nhất là
15 0c (tháng 1). Lượng mưa bình quân hàng năm là 1448,2mm. Lượng
mưa hàng năm thường tập trung vào tháng 5, 6, 7, 8 chiếm 90,68% tổng
lượng mưa hàng năm. Mùa khô thường kéo dài từ tháng 11, 12 và các
tháng 1, 2, 3 năm sau với lượng mưa trung bình chỉ chiếm 9,32% tổng
lượng mưa hàng năm.
Huyện Hữu Lũng có hai con sơng lớn là sông Thương chảy vào
huyện theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và sông Trung chảy qua địa bàn
huyện theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đổ vào sông Thương ở phía bờ
phải tại Na Hoa. Nhìn chung hệ thống sơng suối ở Hữu Lũng chiếm 16%
diện tích đất tự nhiên. Chế độ thuỷ văn có ảnh hưởng lớn đến việc cung
cấp nước cho sản xuất nông – lâm nghiệp và đời sống của nhân dân.
2.2.1.4. Tài nguyên rừng và hiện trạng
Huyện Hữu Lũng có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, nguồn
nguyên liệu đá vôi với hàm lượng cao (khoảng 55%) phục vụ cho sản xuất xi
măng tại chỗ.



21

Tài nguyên rừng cũng tương đối đa dạng. Cấu trúc địa hình làm cho
thực vật của huyện tương đối phong phú. Trong khu vực có các lồi thực vật
q hiếm như: Hồng đàn, nghiến, trai lí... Ngồi ra cịn có các loài động vật
như: Hươu xạ, sơn dương, gấu… Đặc biệt, trong vùng núi đất hầu hết là rừng
nghèo kiệt gồm nhiều lồi cây ưa sáng và chịu bóng như: Chẹo tía, dẻ, kháo,
sau sau …mật độ trung bình từ 450 – 500 cây/ha.
2.2.1.5. Thổ nhưỡng
Khu vực Hữu Lũng có nhiều loại đất khác nhau nhưng chủ yếu là:
- Đất Feralit phát triển trên đá trầm tích sa thạch và đá vôi
- Đất bồi tụ phù sa sông suối.
- Đất Feralit vàng nhạt phát triển trên đất cát sa thạch cuội kết.
Đất có thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, độ dày tầng đất từ
50–100 cm. Ngồi ra cịn có một số loại đất khác.

2.2.2. Điều kiện kinh tế – Xã hội
Theo số liệu thống kê năm 2004, dân số huyện Hữu Lũng có 108.527
người, bao gồm dân tộc Nùng (50,3%), dân tộc kinh (40,55%), dân tộc Tày
(6,4%), dân tộc Sán Chỉ (1,3%), dân tộc Dao (0,35%), còn lại là các dân tộc
khác (1,1%). Số dân sản xuất nông – lâm nghiệp là 86.439 người chiếm
82,7% tổng số dân, còn lại là các ngành nghề khác.
Tỷ lệ dân số tăng tự nhiên hàng năm là 1,3%, dân số được phân bố
đồng đều trên các xã và thị trấn. Lao động chưa có việc làm chiếm 13,9%,
đời sống kinh tế của người dân cịn nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ đói nghèo
chiếm 10,29% . Văn hố xã hội cịn chậm phát triển.
Lâm trường Hữu Lũng II được UBND huyện Hữu Lũng giao quản lý
5.208 ha đất lâm nghiệp thuộc các xã Đô Lương, Minh Sơn, Minh Tiến, Nhất



22

Tiến, Thiện Kỵ. Số dân thuộc Lâm trường chủ yếu sản xuất lâm nơng nghiệp và
số lao động chưa có việc làm cao, người dân sống chủ yếu dựa vào nghề rừng,
do vậy công tác quản lý bảo vệ và sản xuất lâm nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Do ảnh hưởng của chế độ kinh tế bao cấp trước đây nên trong một thời
gian dài kinh tế của Lâm trường có nhiều trì trệ, phát triển chậm, cơ sở hạ
tầng cịn nhiều hạn chế, hầu hết các cơ sở hạ tầng được xây dựng do Nhà
nước đầu tư. Từ khi Nhà nước chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng của Nhà nước, Lâm trường được quyền tự
quyết kinh doanh; thu chi nên kinh tế của Lâm trường ngày một ổn định và
phát triển. Cơ sở hạ tầng của Lâm trường cũng dần được cải thiện.
Đến nay, Lâm trường đã có trụ sở làm việc kiên cố và nhà ở tập thể bền
vững cho cán bộ công nhân viên của Lâm trường. Đặc biệt, hệ thống đường
giao thông đã được xây dựng đến xã xa nhất của lâm trường (xã Thiện Kỵ),
rất thuận lợi cho cơng tác quản lí và sản xuất lâm nghiệp của lâm trường nói
riêng và tồn huyện nói chung. Mặc dù vậy, nhưng do phân bố ở khu vực địa
hình phức tạp nên việc xây dựng cơ sở hạ tầng và sản xuất lâm nghiệp cũng
gặp khơng ít khó khăn. Trong đó, khó khăn lớn nhất là cơng việc vận chuyển
nguyên vật liệu cho xây dựng và sản xuất. Cũng chính từ lí do trên mà việc
phát triển kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng ở đây còn chậm, chưa đáp ứng được
nhu cầu của xã hội.

2.2.3. Lịch sử rừng trồng
Rừng trồng Bạch đàn Eucalyotus urophylla dòng PN2 thuần lồi, bằng
cây hom. Cây con có bầu, kích thước bầu 8 x 15cm, 3 - 4 tháng tuổi, chiều
cao cây 25 - 35cm, đường kính gốc 2,5 – 3,5mm.
Biện pháp làm đất: Xử lý thực bì tồn diện, đào đất theo hố, kích thước
hố: 40 x 40 x 40cm.



23

Bón lót phân NPK 0,2kg/hố (320kg/ha). Đào hố trước khi trồng 1
tháng, lấp hố, bón lót trước khi trồng 2 -3 tuần.
Mật độ trồng: 1.600 cây/ha, cự ly cây cách cây 2,5m, hàng cách hàng
2,5m. Năm trồng và thời vụ trồng: năm 2001, tháng 3-4.
Chăm sóc từ năm thứ nhất đến năm thứ 3: năm thứ nhất phát 2 lần,
cuốc lật (thay xới lần 1), xới lần 2; năm thứ 2 phát 2 lần, xới 1 lần; năm thứ 3
phát chăm sóc 1 lần. Bảo vệ từ năm thứ nhất đến năm thứ 6.


×