Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.28 KB, 70 trang )

Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, kinh tế nước ta đã có những thay đổi mạnh mẽ,
do có những quyết sách phù hợp. Nhiều sản phẩm của Việt Nam có chất lượng
cao, chiếm lĩnh được thị trường trong nước và được xuất khẩu ra nước ngoài.
Thành công đó tạo được nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, trong đó có
ngành dệt may. Tuy nhiên, trước thềm hội nhập, để tồn tại và phát triển bền
vững thì ngành dệt may cần phải củng cố, tăng cường hơn nữa vị thế của mình
trong nước và trên trường quốc tế.
Dệt may là một ngành công nghiệp chủ chốt tạo đà cho các ngành khác
phát triển, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước.
Thực tế hơn 10 năm qua cho thấy sản phẩm đã có nhiều tiến bộ về chất lượng,
mẫu mã. Nhưng nếu so với các đối thủ cạnh tranh, chúng ta vẫn còn nhiều yếu
kém, thị trường xuất khẩu vẫn còn hạn hẹp. Dù có nhiều cải tiến và hiện đại
hoá công nghệ sản xuất nhưng đạt được đến tầm cỡ khu vực.
Do đó, cần phải có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả
cạnh tranh. Đây là một công việc hết sức cần thiết, vì ngành dệt may trong
nước đóng vai trò rất quan trọng không chỉ về kinh tế, mà còn cả về xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
đối với nền kinh tế cũng như những thách thức mà ngành này phải đối mặt
trong bối cảnh hiện nay, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt động kinh doanh
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thực trạng và giải pháp”.
Mục đích khi chọn đề tài này là làm sáng tỏ về thực trạng kinh doanh
hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua. Trên góc độ cá nhân, xin được
có ý kiến đánh giá những thành công, tồn tại, phân tích thuận lợi và khó khăn
của ngành để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh
doanh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
1
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Với mục đích nghiên cứu, bài viết được chia làm ba phần chính:
- Chương I: Tình hình xuất khẩu và tiêu dùng hàng dệt may trên thế giới.


- Chương II: Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam
hiện nay.
- Chương III: Giải pháp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam.
Xin gửi tới các cán bộ, chuyên gia của Tổng công ty Dệt may Việt Nam
(VINATEX), đơn vị đã cung cấp những tài liệu quý giá để hoàn thành bài viết
này. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Hoàng Ánh đã hướng dẫn
em thực hiện bài viết và đã có những ý kiến quý báu để bài viết được hoàn
thiện hơn.
Do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan không cho phép, bài viết sẽ
không tránh khỏi những sai sót. Do vậy em rất mong nhận được góp ý, đóng
góp của các thầy cô và những người cùng quan tâm tới đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
SINH VIÊN
2
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU DÙNG HÀNG DỆT MAY
TRÊN THẾ GIỚI
1. GIỚI THIỆU CHUNG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY
TRÊN THẾ GIỚI:
May mặc là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống con người, do vậy ngành
dệt may đã xuất hiện từ xa xưa trên thế giới. Mặc dù, với quá trình phát triển
lâu dài như vậy, nhưng chỉ có các sự kiện lịch sử lớn gần đây mới ảnh hưởng
lớn mạnh mẽ tới công nghiệp dệt may tới. Ta có thể chia lịch sử ngành này
thành ba giai đoạn chính:
1.1. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ hai:
Thời gian này, phần lớn lãnh thổ trên thế giới là thuộc địa của các nước
Tây Âu và Hoa Kỳ. Các nước thuộc địa bị lệ thuộc nhiều vào các nước này về
kinh tế. Hệ thống thuộc địa chủ yếu là nơi khai thác nguyên vật liệu và tiêu

thụ các sản phẩm từ chính quốc.
Do vậy, trên thế giới thực sự chỉ có nghành công nghiệp dệt may ở các
nước Tây Âu và Hoa Kỳ mới phát triển và cung cấp phần lớn sản phẩm dệt
may. Tuy nhiên, hàng dệt may thường được tiêu thụ ở chính thị trường nơi
sản xuất, mà ít có sự buôn bán trao đổi giữa các nước, ngoại trừ việc nhập
khẩu sợi lanh, bông và lụa từ các thuộc địa.
Tóm lại, đặc điểm chung của thời kỳ này là ngành dệt may chỉ tập trung
ở một số nước và giao dịch thương mại tương đối hạn chế.
1.2. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1997:
Giai đoạn này, chỉ còn vài cuộc chiến tranh cục bộ nhằm giành chủ
quyền và độc lập dân tộc. Thế giới phân thành hai đối cực là xã hội chủ nghĩa
3
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
và tư bản chủ nghĩa. Hai phe này đều cố gắng mở rộng ảnh hưởng của mình
ra thế giới. Do đó, đã dẫn tới sự chuyển giao công nghệ và vốn từ các nước tư
bản sang các quốc gia mới thành lập ở khu vực Châu Á và Châu Phi. Cuối
giai đoạn này, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ và các nước trong khối này
hầu hết đều chuyển sang hình thức nền kinh tế theo mô hình chuyển đổi.
Về dệt may, đặc biệt từ những năm của thập kỉ 70, chúng ta được
chứng kiến những sự phát triển và thay đổi to lớn về luợng và về chất.
- Sự vươn lên của các quốc gia và lãnh thổ ở Châu Á, đặc biệt khu vực
Đông Á, như là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan,
Inđônêxia, vv... Với chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu, nhằm
thu ngoại tệ phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước, dệt may đã trở thành
ngành trọng điểm và được các nước này quan tâm mạnh đặc biệt. Dựa trên lợi
thế nhân công rẻ, họ đã đầu tư cho ngành dệt may để làm ra sản phẩm có giá
thành rẻ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng thời, các nước trên
giải quyết được một lượng lớn công ăn việc làm, tháo gỡ vấn đề thất nghiệp.
- Sự ra đời và phát triển sợi nhân tạo thay thế một phần sợi tự nhiên.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ngày càng có nhiều loại tơ, sợi

tổng hợp được tạo ra. Loại sợi này có tính năng mới và độ bền hơn hẳn sợi tự
nhiên, dẫn tới việc chúng được sử dụng ngày một nhiều trong quá trình chế
tạo sản phẩm may mặc.
- Do giá nhân công tăng cao tại các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh,
Pháp, Canada, Nhật Bản… nên đã dần chuyển giao các công nghệ dệt may
sang các nước kém phát triển. Họ chỉ giữ lại những gì có giá trị cao như sản
xuất hàng thời trang, hay tập trung sang nghành dệt và chế biến tơ sợi hoá học
tổng hợp nhằm khống chế nguồn cung cho ngành dệt may trên thế giới.
4
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Chính vì sự phân công mang tính quốc tế như vậy đã dẫn tới sự phát
triển mạnh thương mại hàng dệt may trên thế giới. Cuối giai đoạn này, hầu
như nguồn cung hàng may mặc cho thế giới là từ các nước đang phát triển và
các nước công nghiệp mới.
1.3. Giai đoạn sau năm 1997:
Tình hình chính trị trên thế giới tương đối ổn định, song nó được tách
ra thành một giai đoạn riêng bởi vì tình hình kinh tế trên thế giới có nhiều
biến động khiến bản đồ kinh tế có sự thay đổi đáng kể.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra cuối năm 1997 ở Thái Lan,
sau đó lan rộng ra nhiều nước khác đã để lại những hậu quả kinh tế lâu dài.
Cuộc khủng hoảng này đã chỉ ra những yếu điểm của các nền kinh tế mới
phát triển. Điều đó đã dẫn tới sự suy giảm của cả nền kinh tế nói chung và
công nghiệp dệt may nói riêng.
Tuy nhiên, thời gian này cũng chứng kiến sự phát triển vượt bậc của
Trung Quốc về sản xuất hàng dệt may. Vượt qua cuộc khủng hoảng năm 1997
một cách thuyết phục, với sự ổn định chính trị, chính sách tiền tệ hợp lý của
Chính phủ, cùng với chiến lược cạnh tranh và phát triển sản phẩm, các doanh
nghiệp đã đưa Trung Quốc lên vị trí hàng đầu trong các nước xuất khẩu hàng
dệt may trên thế giới. Điều đó, các nước xuất khẩu hàng dệt may đều phải coi
Trung Quốc như đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.

2. VAI TRÒ CỦA NGÀNH DỆT MAY TRONG NỀN KINH TẾ:
Dệt may đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia, đặc biệt với các nước đang phát triển. Vai trò đó thể hiện ở ba khía
cạnh trong nền kinh tế:
- Đây là ngành cung cấp cho xã hội những sản phẩm thiết yếu của đời
sống hàng ngày.
5
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
- Ngành dệt may góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn
việc làm bởi vì đây là ngành cần rất nhiều lao động, mặc dù không cần nhiều
vốn so với các ngành công nghiệp khác.
- Dệt may dễ đem lại lợi nhuận về ngoại tệ để có thể nhập thiết bị cho
các ngành khác, nhất là ở các nước đang phát triển.
Thông qua việc phát triển công nghiệp may mặc, sản xuất hàng xuất
khẩu, các quốc gia đang phát triển chỉ phải đầu tư một lượng vốn nhỏ, nhưng
có thể thu về một lượng ngoại tệ lớn cho việc nhập khẩu máy móc và công
nghệ cho các ngành khác.
Để chứng minh luận điểm trên, ta có thể thấy rõ sự đóng góp to lớn của
ngành dệt may cho nền kinh tế qua hai trường hợp điển hình cụ thể ở khu vực
Đông Nam Á. Đó là Inđônêxia và Thái Lan.
- Tại Inđônêxia, dệt may đã có những sự phát triển vượt bậc. Năm
2001, giá trị xuất khẩu hàng dệt may đạt mức 7,68 tỷ USD (Đôla Mỹ), chiếm
17,58% tổng giá trị của các sản phẩm xuất khẩu phi dầu mỏ, chiếm 20,39%
tổng giá trị xuất khẩu của các sản phẩm chế tạo. Ngành dệt may của
Inđônêxia tạo ra hơn 1,2 triệu việc làm và con số này còn tăng lên trong tương
lai khi ngành dệt may được mở rộng.
- Tại Thái Lan, dệt may cũng đóng góp một phần không nhỏ cho nền
kinh tế. Năm 2000, chiếm vị trí dẫn đầu trong số các ngành xuất khẩu. Giá trị
xuất khẩu đạt 5,3 tỷ USD, chiếm 8,1 % trong tổng giá trị xuất khẩu của Thái
Lan. Là ngành đóng góp nhiều nhất vào tổng sản phẩm quốc nội. Chiếm tỷ lệ

13,8% đóng góp của ngành công nghiệp chế tạo. Là ngành tạo ra nhiều việc
làm nhất với gần 1,1 triệu lao động năm 2001, tức 21,2 % lực lượng lao động
trong ngành công nghiệp.
6
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY TRÊN
THẾ GIỚI:
Trong những năm qua, dệt may trên thế giới có mức tăng trưởng tương
đối đều đặn và phục hồi khá nhanh sau khủng hoảng tài chính năm 1997. Đến
năm 2000, hầu hết các nước dẫn đầu trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
may đều có được sự tăng trưởng trở lại. Ta có thể thấy được qua bảng số liệu
số 1 và xem xét một vài nước xuất khẩu điển hình như Trung Quốc, Thái Lan,
Inđônêxia…
3.1. Trung Quốc:
3.1.1. Về sản xuất:
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dệt
may Trung Quốc là 9%/ năm. Hiện nay, Trung Quốc có hơn 13.600 công ty
sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc và có 43,1 triệu nhân công. Trong khi đó,
Trung Quốc vẫn là một trong 10 quốc gia có chi phí nhân công rẻ nhất trong
ngành dệt may với chỉ có 0,7 USD/ giờ.
3.1.2. Về xuất khẩu:
Trung Quốc là nước dẫn đầu ở cả thị trường dệt và may. Năm 2000, giá
trị xuất khẩu hàng dệt là 16,14 tỷ USD, chiếm 10,2% thị phần trên thế giới,
giá trị xuất khẩu hàng may mặc là 36,07 tỷ USD, chiếm tới 18% thị phần,
chiếm 12% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Theo Bộ
Thương mại Trung Quốc, năm 2002, nước này sản xuất được 20 tỷ sản phẩm
may mặc và có doanh thu 48 tỷ USD. Nếu chia số sản phẩm này cho dân số
trên thế giới thì có nghĩa là Trung Quốc có thể cung cấp cho mỗi người 4 sản
phẩm.
7

Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Những phân tích trên cho thấy, Trung Quốc là nước có nhiều thế mạnh
về may mặc. Hơn nữa, Chính phủ cũng ưu tiên chú trọng phát triển ngành dệt
may. Đây là bài học điển hình cho các nước khác.
3.2. Thái Lan:
3.2.1. Về sản xuất:
Năm 2001, Thái Lan có 4.544 công ty sản xuất hàng dệt may. Trong
đó, khoảng 90% nhà máy nằm ở Băngkok và các vùng lân cận (Băngkok,
Samut Prakarn, Samut Sakhon, Nontaburi, Patumtani Nakhon Pathom). Cũng
trong năm 2001, công nghiệp dệt may Thái Lan có số nhân công 1.081.540
người. Đây cũng là số nhân công lớn nhất so với các ngành công nghiệp chế
tạo khác. Các sản phẩm chính gồm có tơ, sợi, vải tổng hợp các loại và quần
áo. Sản lượng của các sản phẩm này được thống kê như sau:
Bảng 1: Sản lượng đầu ra của ngành dệt may Thái Lan năm 2001
Đơn vị:1.000 tấn
Sản phẩm Sản lượng
Tơ nhân tạo 742,3
Sợi cotton 337,7
Sợi tổng hợp 550,5
Vải các loại 718,8
Quần áo 446,6
Nguồn: Báo cáo của Thái Lan tại Hội nghị hàng dệt may khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương năm 2002.
3.2.2. Về xuất khẩu:
8
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Năm 2000, thị phần xuất khẩu của Thái Lan trên thế giới sau cuộc
khủng hoảng năm 1997 đã giảm xuống chỉ còn 2% so với 2,6% năm 1990.
Tuy nhiên, nếu xét về mức độ tăng trưởng thì năm 2000, dệt may nước này
đang có dấu hiệu hồi phục với mức tăng trưởng 14%. Sản phẩm xuất khẩu của

Thái Lan có vị trí quan trọng trên thế giới và chủ yếu là hàng may mặc. Bảng
số liệu sau sẽ cho thấy tình hình xuất khẩu cụ thể hàng dệt may của Thái Lan
năm 2001:
Bảng 2: Xuất khẩu hàng dệt may của Thái Lan trong năm 2001
Sản phẩm
Khối lượng
(1.000 tấn)
Giá trị
(triệu USD)
Tơ các loại 272,8 238,2
Sợi nhân tạo 219,2 358.2
Sợi cotton 29,56 83,7
Vải các loại 421,9 1.305,4
Quần áo 191,8 3.077,5
Nguồn: Báo cáo của Thái Lan tại Hội nghị hàng dệt may khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương năm 2002.
Mặc dù, đã có những sự phục hồi sản xuất, nhưng Thái Lan vẫn còn
những tồn tại cần khắc phục. Một trong những tồn tại đó là việc các doanh
nghiệp chưa coi trọng nghiên cứu, phát triển sản phẩm, thị trường, cũng như
họ còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Những điểm yếu
này đã được chính Thái Lan đưa ra trong Hội nghị hàng dệt may khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương năm 2002. Đây là những nhận xét đáng để các
nước khác quan tâm, tìm hiểu.
9
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
3.3. Inđônêxia:
3.3.1. Về sản xuất:
Ngành dệt may Inđônêxia có khoảng hơn 2.600 doanh nghiệp và hơn
1,2 triệu lao động. Inđônêxia đã cố gắng duy trì được mức tăng trưởng liên
tục của ngành dệt may, kể cả khi có cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm

1997. Chính phủ Inđônêxia có chính sách chú trọng đặc biệt đến ngành dệt
may.
3.2.2. Về xuất khẩu:
Inđônêxia đứng trong “top” 15 nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu
hàng dệt may trên thế giới. Với tốc độ tăng trưởng đều đặn của sản xuất và
xuất khẩu, năm 2001, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,68 tỷ USD, chiếm 17,6%
kim ngạch xuất khẩu của nước này.
Bảng 3: Xuất khẩu hàng dệt may của Inđônêsia năm 1997 - 2001
Đơn vị: triệu USD
Sản phẩm 1997 1998 1999 2000 2001
Tơ 135 146 97 135 105
Sợi 762 889 1.177 1.326 1.244
Vải 1.354 1.345 1.614 1.913 1.526
Hàng may mặc 2.678 2.406 3.526 4.281 4.000
Hàng dệt may khác 243 235 437 549 800
Tổng giá trị 7.319 7.321 7.157 8.204 7.678
Nguån: B¸o c¸o cña In®«nªsia t¹i héi nghÞ hµng dÖt may khu vùc Ch©u Á -
Thái Bình Dương năm 2002.
10
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Với sự phát triển liên tục, kể cả khi có khủng hoảng trên thế giới và
trong khu vực, sự kỳ vọng đạt được 9 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm
2004 của Inđônêxia là có khả năng. Đây là nước có tiềm năng đáng để các
nước khác kính nể.
Bảng 4: Năng lực sản xuất của ngành dệt may Inđônêsia
Đơn vị: 1.000 tấn
Sản phẩm 1997 1998 1999 2000 2001
Tơ 797 8566 905 1.039 1.049
Sợi 1.937 2.074 2.107 2.298 2.3215
Vải 1.752 1.894 1.904 1.972 1.992

Hàng may mặc 486 564 572 573 584
Nguån: B¸o c¸o cña In®«nªsia t¹i Héi nghÞ hµng dÖt may khu vùc
Ch©u Á - Thái Bình Dương năm 2002.
Để chứng minh sự ổn định đó, ta hãy so sánh giữa khả năng công suất
sản xuất của Inđônêxia với sản lượng thực tế được nêu trong bảng sau:
Bảng 5: Sản lượng thực tế của ngành dệt may Inđônêsia
Đơn vị: 1.000 tấn
Sản phẩm 1997 1998 1999 2000 2001
Tơ 617 746 839 970 961
Sợi 1.584 1.783 1.912 2.056 2.025
Vải 1.241 1.341 1.346 1.546 1.561
Hàng may mặc 460 535 543 554 565
Nguån: B¸o c¸o cña In®«nªsia t¹i Héi nghÞ hµng dÖt may khu vùc Ch©u Á
- Thái Bình Dương năm 2002.
11
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Ta thấy rằng hiệu suất sản xuất của Inđônêxia rất cao, trung bình 95%
năng lực công suất. Điều này cho thấy rằng, nếu chú trọng đầu tư nhiều hơn
nữa thì sản lượng còn có khả năng tăng cao hơn.
Inđônêxia là nước phát triển tương đối đồng đều cả hai mặt hàng dệt và
may. Thành công đó có được là nhờ chiến lược phát triển các sản phẩm phi
dầu mỏ có từ giữa thập kỷ 80. Giờ đây, xuất khẩu hàng dệt may là nguồn thu
ngoại tệ lớn nhất của Inđônêxia.
3.4. Các nước khác:
Ngoài ba nước tiêu biểu kể trên, Trung Quốc là nước dẫn đầu trên thế
giới về hàng dệt may, Thái Lan và Inđônêxia là hai nước cùng khu vực có các
điều kiện tương đối giống Việt Nam, còn lại hoạt động sản xuất cũng như
xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới tập trung chủ yếu vào một số nước như
Anh, Italia, Hoa Kỳ, Đài Loan, Hàn Quốc, Đức… Tuy nhiên, thị phần của các
nước này đang bị thu hẹp một cách nhanh chóng, mà nguyên nhân chủ yếu do

giá nhân công vốn đã cao nay lại càng cao lên nhanh chóng. Đây là điều kiện
bất lợi cho họ. Nhưng đó cũng chính là điều kiện thuận lợi cho cho các nước
có giá nhân công rẻ, trong đo có Việt Nam.
4. NHU CẦU TIÊU DÙNG HÀNG DỆT MAY TRÊN THẾ GIỚI:
Do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu
dùng hàng hóa nói chung và hàng dệt may nói riêng không ngừng tăng. Với
sự vượt trội về kinh tế Hoa Kỳ cùng với EU và Nhật Bản đã trở thành những
thị trường tiêu dùng hàng hoá với số lượng lớn trên thế giới. Song trong
những năm gần đây, với sự phát triển kinh tế thần kỳ của mình, Trung Quốc
được biết đến như một thị trường mới đầy hấp dẫn. Trung Quốc chiếm tỷ lệ
lớn trong tổng tiêu dùng hàng dệt may trên thế giới.
12
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Biểu đồ 1: Tiêu dùng hàng dệt may ở một số khu vực thị trường
Đơn vị: triệu tấn
Nguồn : Textile Outlook International.
Tuy nhiên, cứ với đà tăng trưởng như hiện nay thì chỉ đến năm 2005,
Trung Quốc sẽ trở thành thị trường lớn nhất trên thế giới. Điều này hoàn toàn
có thể xảy ra, vì Hoa Kỳ cũng như EU đang áp dụng rất nhiều rào cản kỹ
thuật đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài. Còn Nhật Bản, dù có chính
sách phi hạn ngạch, với số dân 193 triệu người (năm 2000) và có mức tiêu
dùng đầu người rất cao cũng không thể sánh được với thị trường 1,2 tỷ dân
của Trung Quốc. Có thể nói trong những năm tới đây, Trung Quốc sẽ là thị
trường đầy tiềm năng cho hàng dệt may.
Ngoài ra, cũng có thể thấy qua con số thống kê lượng hàng nhập khẩu
của các nước này trong những năm 1980 – 2000:
13
Hoa Kỳ
Trung Quốc EU
Nhật Bản

0
2
4
6
8
10
12
4.8
3.9
5.5
2.0
7.9
6.8
7.1
2.8
9.6
8.7
8.3
3.4
Triệu tấn
1980 1995 2005
Lun vn tt nghip Trn V Hong A2 CN9
Bng 6: Nhp khu hng dt may ca mt s nc trờn th gii
Nc, lónh
th
Giỏ tr
nm
2000 (T
USD)
T l (%) Mc thay i (%)/nm

1980 1990 2000 1990
2000
1998 1999 2000
Hoa K 15,71 4,5 6,2 9,4 9 8 6 10
HngKụng 13,72 3 -17 -7 9
TrungQuc 12,83 1,9 4,9 7,7 9 -10 0 16
c 9,32 12,1 11 5,6 -2 8 -10 -11
Anh 6,91 6,3 6,5 4,1 0 -2 -11 -7
Phỏp 6,75 7,2 7 4 -1 8 -8 2
Italia 6,12 4,6 5,7 3,7 0 3 -9 2
Mờxicụ 6,1 0,2 0,9 3,6 20 20 41 26
Nht Bn 4,94 2,9 3,8 2,9 2 -25 4 9
Canada 4,13 2,3 2,2 2,5 6 4 -1 3
B 3,63 - - 2,2 - - - -4
Tõy Ban
Nha
3,32 0,6 1,9 2 5 12 -2 -4
Hn Quc 3 0,7 1,8 1,9 5 -38 35 -
H Lan 2,64 4 3,4 1,6 -3 -24 -4 -6
Ba Lan 2,43 0,5 0,2 1,5 26 14 -7 -4
Tng cng 89,27 55,4 62,6 53,4 - - - -
Nguồn: www.wto. org
Biểu đồ số 1 và bảng số liệu 6 cho thấy Hoa Kỳ đang là thị trờng tiêu thụ
hàng dệt may lớn nhất trên thế giới. Mức tiêu thụ sản phẩm dệt may của Hoa
14
Lun vn tt nghip Trn V Hong A2 CN9
Kỳ là 9,6 triệu tấn năm 2001. Tiếp theo sau là Trung Quốc với mức tiêu thụ 8,7
triệu tấn. Các vị trí tiếp sau thuộc về EU và Nhật Bản.
Qua phân tích vai trò của dệt may trong nền kinh tế quốc dân, tình hình
nhu cầu tiêu thụ, sản xuất và xuất khẩu một số nớc tiêu biểu trên thế giới, ta rút

ra nhận xét: dệt may chiếm một vị thế quan trọng không thể thiếu đợc đối với
chính sách phát triển kinh tế của mỗi nớc, đặc biệt những nớc đang phát triển.
Hỗu hết các nớc mạnh về dệt may đều có những điểm tơng đồng với Việt Nam.
Bài học của họ rất có ích cho chúng ta. Đồng thời, ta cũng nên phát huy những -
u điểm của họ và những nhợc điểm mà các nớc này mắc phải.
CHNG II
TèNH HèNH SN XUT V XUT KHU HNG
DT MAY VIT NAM
1. LCH S PHT TRIN NGNH DT MAY VIT NAM:
Ta ó bit, sn phm may mc rt thit yu i vi nhu cu ca con
ngi, nờn nú ó xut hin t rt sm. Vit Nam cng vy, dt may cng cú
mt quỏ trỡnh phỏt trin lõu di. Ni õy cú hng lot lng ngh th cụng
15
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
trồng bông, nuôi tằm, xe tơ, kéo sợi, dệt vải… trải dài theo chiều dài đất nước.
Tuy nhiên, nếu xét về quy mô sản xuất công nghiệp, thì dệt may Việt Nam
vẫn còn rất non trẻ, mới chỉ có gần nửa thập kỷ phát triển. Nhưng trái lại đây
là ngành có những thay đổi nhảy vọt. Cùng với sự chuyển mình và phát triển
của nền kinh tế, dệt may cũng có những giai đoạn phát triển tương ứng. Ta có
thể chia làm ba giai đoạn như sau:
1.1. Giai đoạn trước năm 1986:
Năm 1954, sau khi hoà bình được lập lại, Miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng và có điều kiện phát triển kinh tế chi viện Miền Nam đấu tranh
chống đế quốc, thống nhất đất nước. Thời kỳ này, ngành dệt may Việt Nam
đã được Đảng và Chính phủ quan tâm tạo điều kiện đầu tư phát triển. Kết quả
tạo công ăn việc làm, cũng như sản xuất được nhiều sản phẩm cho xã hội.
Với sự giúp đỡ của các nước anh em, bè bạn, chúng ta đã cải tạo và xây
mới một loạt nhà máy có công suất lớn như: Dệt 8-3, Dệt Vĩnh Phú, Dệt kim
Đông Xuân, Dệt Nam Định, May 10, May Thăng Long… Đồng thời, hàng
loạt các hợp tác xã, tổ sản xuất thủ công được thành lập nhằm cung cấp thêm

sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Năm 1975, sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một
mối, ngành dệt may lại có thêm cơ hội phát triển khi được bổ sung đội ngũ
thợ lành nghề của các làng nghề trải dài từ miền Trung vào miền Nam. Đảng,
Chính phủ đề ra chương trình phát triển kinh tế tập trung. Ba vấn đề lớn cấn
giải quyết là lương thực - thực phẩm - hàng tiêu dùng. Hàng loạt nhà máy mới
được đầu tư xây dựng như Sợi Hà Nội, Sợi Vinh, Sợi Huế, Sợi Nha Trang,
May Việt Tiến, May Nhà Bè, May Hữu Nghị…
Do quy mô phát triển khá lớn, nên dệt may đã đủ sức trở thành một
ngành kinh tế mạnh trong nền kinh tế quốc dân. Điều này dẫn tới một nhu cầu
16
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
cần có một tổ chức đứng ra quản lý chung, thay vì trực tiếp chịu sự giám sát
của Bộ Công Nghiệp nhẹ. Xuất phát từ nhu cầu đó, Chính phủ đã thành lập
Liên hiệp các xí nghiệp dệt và Liên hiệp các xí nghiệp may. Hai cơ quan này
có nhiệm vụ quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
dệt và may.
Tới năm 1990, hai cơ quan trên sát nhập lại và lấy tên là Liên hiệp Sản
xuất - Xuất nhập khẩu dệt may. Đây là mô hình tổ chức quản lý đặc trưng cho
cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung.
Sự phát triển trên thực sự là qua trình chuẩn bị rất tốt cho ngành dệt
may Việt Nam. Giờ đây, những doanh nghiệp như May 10, May Việt Tiến,
May Nhà Bè, May Thăng Long, Dệt 8 - 3… được coi là những tên tuổi lớn
trong ngành dệt may Việt Nam đều được xây dựng trong thời gian này. Nhờ
đầu tư theo kế hoạch nên có sự phát triển tương đối cân bằng giữa ngành may
và ngành dệt.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này vẫn còn những hạn chế do cơ chế chung
của cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch nhà
nước giao, mà không có sự linh động sáng tạo trong sản xuất, cũng như cải
tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng. Điều đó dẫn đến cần có những thay đổi

nhận thức mới để tạo ra một thời kỳ chuyển biến mới.
17
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
1.2. Giai đoạn từ 1986 - 1997:
Nếu như giai đoạn trước 1986 là quá trình hình thành và định hình
ngành công nghiệp dệt may Việt Nam thì giai đoạn này chính là quá trình
phát triển.
1.2.1. Tình hình kinh tế trong nước:
Trước năm 1990, do Việt Nam chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ
nghĩa nên phần lớn sản phẩm dệt may được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
sang các nước Đông Âu. Khi thị trường xã hội chủ nghĩa tại các nước Đông
Âu sụp đổ, cũng như việc Việt Nam chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường đã khiến cho các doanh
nghiệp (phần lớn là doanh nghiệp nhà nước) gặp không ít khó khăn. Họ vấp
phải những khó khăn về tổ chức sản xuất, về nguyên liệu đầu vào, cũng như
tiêu thụ đầu ra.
Quen với cơ chế làm ăn thời bao cấp, doanh nghiệp được cấp vốn, đầu
vào có sẵn, sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch được giao, đầu ra được bao tiêu
toàn bộ, thì nay, phải hoạt động như một chủ thể kinh tế hoàn toàn độc lập.
Các doanh nghiệp bắt đầu lộ ra những nhược điểm: quy mô sản xuất nhỏ,
thiếu vốn hoạt động, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, kỹ năng tổ chức sản xuất thiếu
khoa học...
1.2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh chung của ngành dệt may:
Theo Nghị định số 338/NĐ - CP của Chính phủ, các doanh nghiệp dệt
may không thuộc sự quản lý, điều hành của Liên hiệp Sản xuất - Xuất nhập
khẩu dệt may nữa, mà chuyển cho Bộ Công nghiệp. Các doanh nghiệp do đó
phải tự hạch toán độc lập. Đây thực sự là một thời điểm khó khăn cho ngành
dệt may Việt Nam.
18
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9

Thời kỳ này, nhiều doanh nghiệp do không thích ứng được với tình
hình mới, nên kinh doanh bị thua lỗ liên tục, đứng trên bờ vực phá sản. Để tự
cứu mình nên các doanh nghiệp hoạt động tách rời. Vì thế nên đã xuất hiện tư
tưởng cục bộ mạnh ai nấy làm, cá lớn nuốt cá bé. Các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau, phát triển kinh doanh một cách tự phát, dù có những điểm tốt
là dần tạo cho doanh nghiệp tính độc lập, tự thân vận động, cải tiến và phát
triển, nhưng cũng gây không ít những thiệt hại cho ngành dệt may Việt Nam
khi không có sự điều tiết, bất chấp hậu quả cho người khác cũng như cho toàn
ngành.
Tình hình trên dẫn tới một nhu cầu tất yếu là phải có định hướng và
quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Các doanh nghiệp cần có một tổ chức liên kết
để liên kết sức mạnh riêng tạo nên sức mạnh tổng hợp chung của toàn ngành.
Từ nhu cầu đó, Chính phủ đã thành lập Tổng công ty Dệt may Việt
Nam, tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Textile and Garment
Corporation, viết tắt là VINATEX, trên cơ sở Nghị định 91/NĐ - CP.
VINATEX hoạt động như một pháp nhân độc lập và trực thuộc Bộ Công
nghiệp.
VINATEX có cơ cấu tổ chức, hoạt động theo phương thức tập đoàn
kinh tế, nhằm tập hợp các doanh nghiệp, tập trung vốn, tổ chức phân công
chuyên môn hoá hòng tạo nên sức mạnh tổng hợp và sức cạnh tranh lớn trên
thị trường quốc tế. Việc thành lập VINATEX đã tạo điều kiện cho dệt may
Việt Nam phát triển đóng góp hơn nữa cho nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, khi nói đến sự thành công của ngành dệt may Việt Nam
không thể không nói đến VINATEX. Xin sơ lược một số nét về cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Tổng công ty này.
19
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
1.2.2.1. Cơ cấu tổ chức của VINATEX:
VINATEX gồm 55 thành viên với 45 doanh nghiệp, 2 Viện nghiên cứu
Kinh tế, Kỹ thuật, Thiết kế Thời trang, 3 trường đào tạo công nhân, 4 công ty

cơ khí và 1 công ty tài chính.
Các thành viên của Tổng công ty có quan hệ chặt chẽ về sản xuất, kinh
tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, vv… Cơ cấu đó nhằm tạo sự đồng
bộ trong toàn ngành từ đầu tư, cung cấp nguyên vật liệu tới tổ chức sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu.
Đồng thời, VINATEX cũng là một tổ chức liên kết các doanh nghiệp
trong nước với nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp
xúc, ứng dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh
và đào tạo nhân viên quản lý, công nhân sản xuất.
1.2.2.2. Sản xuất kinh doanh:
Tổng công ty Dệt may Việt Nam được thành lập là bước ngoặt đáng
chú ý, nó đánh dấu một thời kỳ phát triển nhảy vọt chung của cả ngành dệt
may Việt Nam. Mức đầu tư vào công nghệ cùng với việc giảm bớt lao động
dư thừa phản ánh cam kết của ngành tới công tác cải tiến chất lượng liên tục.
(Continuous Quality Improvement – CQI), đặc biệt là hiện đại hoá, tăng năng
suất và đẩy mạnh công tác marketing. Công việc nghiên cứu, triển khai ứng
dụng (R&D) rất được chú trọng. Kết quả đến nay cho thấy Tổng công ty Dệt
may Việt Nam vẫn là một trong những đơn vị hoạt động có hiệu quả nhất
trong các Tổng công ty 90, 91 khác. Các chỉ tiêu ké hoạch đề ra của Tổng
công ty đèu đạt và vượt. Tích cực đổi mới, tăng cường tập đầu tư vào những
lĩnh vực xương sống là phương châm đề ra của VINATEX. Ta có thể thấy rõ
20
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
điều này qua bảng về kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian 1993-
1997:
Bảng 7: Kết quả thực hiện chỉ tiêu của VINATEX giai đoạn 1993 - 1997
Chỉ tiêu Đơn vị 1993 1994 1995 1996 1997
Giá trị tổng sản
lượng
Tỷ đồng 1.445 2.488 2.964,5 3.283,6 3.653

Tổng doanh thu Tỷ đồng 2.692 3.500 4.566,9 4.593 5.283
Kim ngạch xuất
khẩu
Triệu
USD
111,9 138 350 395,4 474,7
Kim ngạch nhập
khẩu
Triệu
USD
121 180,6 347 407,5 417,8
Sợi các loại 1.000 tấn 7,6 43,5 51,2 56,9 59
Vải lụa thành
phẩm
Triệu mét 109,2 104 124,4 127,8 140
Quần áo dệt kim Triệu sản
phẩm
20,1 15,5 22,1 23 25
Quần áo may sẵn Triệu sản
phẩm
25.5 30,9 33,3 35,1 41,3
Nguồn: Báo cáo tổng kết – Ban kế hoạch đầu tư (VINATEX).
Qua bảng trên cho thấy Tổng Công ty Dệt may Việt Nam có tốc độ
phát triển khá cao. Sản lượng tăng 10% đến 19%, doanh thu tăng từ 15% tới
30%, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 13% tới 24%, có năm lên tới 154%. Số liệu
về tốc độ phát triển có thể tổng hợp theo bảng sau:
Bảng 8: Tốc độ phát triển của VINATEX gia đoạn 1993 - 1997
Chỉ tiêu
1994 1995 1996 1997
Tổng sản lượng

72% 19% 11% 11%
Tổng doanh thu
30% 30% 01% 15%
21
Lun vn tt nghip Trn V Hong A2 CN9
Kim ngch xut khu
24% 154% 13% 20%
Kim ngch nhp khu
49% 93% 17% 20%
Nu ly nm 1993 lm nh gc, thỡ nm 1997 Tng Cụng ty Dt may
Vit Nam cú sn lng tng gp 2,5 ln, tng doanh thu tng gp 2,1 ln, kim
ngch xut khu tng 4,4 ln, kim ngch nhp khu tng 4 ln. thy rừ tc
phỏt trin, ta xem xột biu 2.
Biu 2: Tc phỏt trin ca VINATEX giai on 1993 - 1997
0%
100%
200%
300%
400%
500%
năm 1993
năm 1994
năm 1995
năm 1996
năm 1997
Giá trị tổng sản
lượng
Tổng doanh thu
Kim ngạch xuất
khẩu

Kim ngạch nhập
khẩu
Qua biu , ta thy tc tng ca kim ngch xut nhp khu tng
nhanh hn rt nhiu so vi tc tng trng ca giỏ tr sn lng v tng
doanh thu. iu ny cho thy Tng Cụng ty ang c gng ly b phn xut
khu lm trung tõm trong hot ng kinh doanh ca mỡnh.
22
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Trong giai đoạn này, còn có những điểm đáng chú ý khác nữa là chính
sách vĩ mô của Nhà nước và Chính phủ đối với nền kinh tế quốc dân nói
chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng:
- Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và Việt Nam ra nước ngoài
được ban hành là điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế. Chính phủ đã có
những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đã khiến cho ngành dệt
may thu hút được một lượng vốn lớn. Hình thức đầu tư chủ yếu là đầu tư trực
tiếp (FDI), theo mô hình liên doanh. Yếu tố trên tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp dệt may có cơ hội tiếp cận với công nghệ tiên tiến, hiện đại, phương
thức quản lý kinh doanh mới. Ngành dệt may được đổi mới về cả chất và
lượng.
- Cùng với đà tăng trưởng nhanh chóng, ngành dệt may đã mở rộng thị
trường xuất khẩu. Với chủ trương chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá,
không chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước Đông Âu, mà còn
từng bước thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại với nhiều nước khác
trên thế giới. Từ đó mở ra những thị trường mới như EU, Nhật Bản,
ASEAN… Đây là nguồn gốc tạo nên sự phát triển vượt bậc trong ngành dệt
may Việt Nam.
- Tuy nhiên, đối với ngành dệt may, sự phát triển nhanh chóng đó cũng
bộc lộ những nhược điểm phải giải quyết. Ngoài yếu tố như ít vốn, công nghệ
lạc hậu, trình độ quản lý kém cỏi đã được giải quyết một phần nào nhất là từ
cuối thập niên 90 thế kỷ 20. Chúng ta còn một nhược điểm lớn nữa là sự phát

triển mất cân đối giữa ngành dệt và ngành may. Nếu trước đây, quy hoạch các
nhà máy dệt và nhà máy may được phát triển đồng đều theo kế hoạch của Nhà
nước, thì trong giai đoạn này quá trình đầu tư lại tập trung vào phát triển vào
ngành may.
23
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Ngành dệt mới chỉ đủ khả năng cung cấp 10% sợi cotton và 20% lượng
vải cần cho nhu cầu sản xuất trong nước. Phần nguyên liệu còn lại phải nhập
khẩu. Điều này dẫn đến phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung cấp đầu vào của
nước ngoài. Nó có thể gây ít ảnh hưởng tới các hợp đồng gia công xuất khẩu
theo phương thức CMT (Cutting - Making -Trimming). Nhưng nếu chuyển
sang xuất khẩu trực tiếp thì sẽ gây ra không ít bất lợi.
1.3. Giai đoạn từ 1997 tới nay:
Giai đoạn này, Việt Nam có những tiến bộ vượt bậc, góp phần quan
trọng vào quá trình ổn định, phát triển kinh tế. Năm 1999, chiếm 8,58% tổng
giá trị đầu ra của các nghành công nghiệp và 15% tổng giá trị xuất khẩu.
Hàng dệt may xuất khẩu là một trong những những mặt hàng có tốc độ tăng
trưởng lớn nhất trong số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ta có thể thấy rõ
trong bảng sau:
Bảng 9: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam so với các hàng khác.
Hàng hoá Đơn vị 2001 2002 Tốc độ tăng
trưởng
Thủy sản Triệu USD 1.778 2.024 13,8%
Gạo 1.000 tấn 3.729 3.241 - 13,1%
Cà phê 1.000 tấn 931 710 -23,7%
Cao su 1.000 tấn 308 444 44,2%
Hạt tiêu 1.000 tấn 57 77 35,4%
Nhân điều 1.000 tấn 41 63 54,8%
Lạc nhân 1.000 tấn 78 107 36,7%
Dầu thô 1.000 tấn 16.732 16.850 0,7%

24
Luận văn tốt nghiệp Trần Vũ Hoàng – A2 CN9
Than đá 1.000 tấn 4.290 5.870 36,8%
Hàng dệt may Triệu USD 1.975 2.710 37,2%
Giày dép các loại Triệu USD 1.559 1.828 17,2%
Hàng thủ công
mỹ nghệ
Triệu USD 235 328 39,5%
Nguồn : Bộ Thương mại.
Năm 2001 và 2002, mặc dù kinh tế thế giới vẫn ở trong tình trạng ảm
đạm, trì trệ, mức tiêu dùng xuống thấp, dẫn tới giá cả các mặt hàng giảm làm
cho kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
như gạo, cà phê giảm. Nhưng trái lại ngành dệt may vẫn có sự phát triển thể
hiện ở mức tăng trưởng cao trong kim ngạch xuất khẩu (37,2%).
Tỷ lệ đóng góp của ngành dệt may trong tổng giá trị ngành công nghiệp
chế biếnkhoảng 10% hàng năm và giá trị xuất khẩu hàng dệt may chiếm
khoảng 13 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 10: Đóng góp của ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân
Chỉ
tiêu
Năm
GD
P
(Tỷ đồng)
Ngàn
h dệt may
(Tỷ đồng)
Tỷ lệ đóng
góp vào GDP
(%)

Tổng kim
ngạch xuất
khẩu (Tỷ
đồng)
1999 399.942 7.700 1,9 11.540
2000 444.139 9.120 2,1 14.308
2001 474.340 10.260 2,1 15.810
Nguồn: Bộ Thương mại.
25

×