BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.
I. Phần thứ nhất: Xác định vợ/chồng của người để lại di sản.
Câu 1: Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Căn cứ vào Điều 675, BLDS 2005 quy định về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật thì:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc khơng hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở
thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng có quyền hưởng
di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền
hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng khơng cịn vào
thời điểm mở thừa kế”.
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc được
nghiên cứu.
- Việc Toà án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc nghiên cứu là hợp lý.
- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 4, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định Về
người thừa kế theo pháp luật:
“a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày cơng bố Luật
Hơn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố
1
danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và
đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn
sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người
thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ
nhất của tất cả các người vợ.”
Theo đó, cụ Thứ và cụ Thát sống chung với nhau như vợ chồng với nhau trước năm 1960 và
ở miền Bắc. Như vậy, cụ Thứ là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thát.
Câu 3: Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
- Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 quy định về Người thừa kế theo
pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”
Câu 4: Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hơn khơng? Vì sao?
- Cụ Thát và cụ Thứ khơng có đăng ký kết hơn.
- Vì cụ Thát và cụ Thứ chỉ sống chung như vợ chồng vào cuối năm 1960.
Câu 5: Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không
đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trường hợp những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn
được hưởng thừa kế của nhau:
+ Những người sống chung với nhau như vợ chồng mà khơng đăng kí kết hơn trước Luật
Hơn nhân và gia đình năm 1986 thì được coi như vợ chồng và được hưởng thừa kế của nhau.
+ Những người sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sau Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986, trước Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, nếu họ đi đăng ký
2
trong vòng thời hạn 2 năm kể từ ngày đi đăng ký thì được trở thành vợ chồng và được hưởng
thừa kế của nhau.
- Vì căn cứ vào Điểm a và b, Khoản 3, Nghị quyết số 03/2000/QH10 ngày 9/6/2000 quy định:
“3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,
ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hơn thì được
khuyến khích đăng ký kết hơn; trong trường hợp có u cầu ly hơn thì được Tòa án thụ lý giải
quyết theo quy định về ly hơn của Luật hơn nhân và gia đình năm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày
01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01
tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ khơng đăng ký kết hơn, nhưng có u cầu ly hơn
thì Tịa án áp dụng các quy định về ly hơn của Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 để giải
quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ khơng đăng ký kết hơn thì pháp luật khơng cơng
nhận họ là vợ chồng;”
Câu 6: Ngồi việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?
- Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần.
- Đoạn dưới đây của bản án đã khẳng định: “Các đương sự đều thống nhất là cụ Thát mất năm
1961 có vợ là cụ Tần năm 1995 có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển.
Theo các nguyên đơn và bà Khiết thì cụ Thát có vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (mất năm 1994)
có 1 con là bà Tiến”.
Câu 7: Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì
cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì cụ
Thứ khơng là người thừa kế của cụ Thát.
3
- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 4, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định Về
người thừa kế theo pháp luật:
“a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố
danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và
đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn
sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người
thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ
nhất của tất cả các người vợ.”
Theo đó, cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Bắc (Hà Nội), hai người bắt đầu sống với nhau như
vợ chồng từ cuối năm 1960 thì không nằm trong trường hợp của Điểm a, Khoản 4 của Nghị
quyết trên. Như vậy, cụ Thứ không là người thừa kế theo của cụ Thát.
Câu 8: Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác khơng khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Câu trả lời trên có khác khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam. Cụ thể là cụ Thứ là người
thừa kế của cụ Thát.
- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 4, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định Về
người thừa kế theo pháp luật:
“a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố
danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và
đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn
sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người
thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ
nhất của tất cả các người vợ.”
Theo đó, cụ Thứ và cụ Thát sống ở miền Nam; hai người sống với nhau như vợ chồng từ
cuối năm 1960 thì đã rơi vào trường hợp của Điểm a, Khoản 4 của Nghị quyết này. Do đó, cụ
Thứ là người thừa kế hợp pháp của cụ Thát.
4
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát.
- Việc Toà án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là có thể được xem xét dưới góc
độ pháp luật và đạo đức trong hai giai đoạn khác nhau.
+ Xét dưới góc độ pháp luật và đạo đức trong hoàn cảnh chiến tranh:
Thời điểm cụ Thứ và cụ Thát có mối quan hệ sinh sống như vợ chồng là trước năm 1960.
Vì vậy, theo Nghị Quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 thì cụ Thứ hồn tồn được coi
là người thừa kế của cụ Thát. Hơn nữa, cần phải xem xét đến hoàn cảnh chiến tranh và sự ảnh
hưởng của chế độ phong kiến vẫn còn đậm nét, nhiều người phụ nữ có thể trở thành vợ lẻ hoặc
“nàng hầu” trong các gia đình. Họ cần được đảm bảo quyền lợi bình đẳng như vợ cả. Việc
chung sống như vợ chồng vào thời điểm hoàn cảnh chiến tranh do họ tự nguyện, có trách
nhiệm với gia đình cho nên cần phải xét cả yếu tố đó.
+ Tuy nhiên,nếu xét dưới góc độ pháp luật hiện nay thì việc Toà thừa nhận cụ Thứ là người
thừa kế theo pháp luật là chưa phù hợp.
Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo quy định
tại Khoản 2 và 6, Điều 8, Luật HNGĐ năm 2000 về Giải thích từ ngữ:
“Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
2. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn;
6. Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn;”
Cụ Thát và cụ Thứ là hôn nhân thực tế chung sống như vợ chồng nhưng không đăng kí kết
hơn nên hiển nhiên khơng được hưởng thừa kế của nhau.
+ Xét về đạo đức trong thời đại mới, hôn nhân một vợ một chồng là tiến bộ, văn minh, phù
hợp và ngược lại, sự ảnh hưởng tiêu cực của chế độ cũ phải bị xoá bỏ.
II. Phần thứ hai: Xác định con của người để lại di sản.
Câu 1: Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
5
- Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 quy định về Người thừa kế theo
pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”
Câu 2: Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Trường hợp một người được coi là con nuôi của người để lại di sản:
+ Nếu đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng trước khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 mà
chưa đăng ký thì vẫn được chấp nhận có con nuôi thực tế.
+ Nếu đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng sau năm 1986 và trước năm 2001 mà chưa đăng ký,
nếu áp ứng đủ điều kiện chuyển tiếp thì phải đi đăng ký kể từ ngày 1/1/2001 đến 31/12/2015
để trở thành con nuôi thực tế.
- Căn cứ vào Điều 23, Khoản 1, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định về
Đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế:
“1. Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà chưa
đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định tại khoản
1 Điều 50 của Luật Ni con ni, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 đến hết
ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của cha mẹ nuôi và
con nuôi.”
Và Khoản 1, Điều 50, Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về Điều kiện chuyển tiếp:
“1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực
mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05
năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Các bên có đủ điều kiện về ni con ni theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát
sinh quan hệ nuôi con nuôi;
6
b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai
bên cịn sống;
c) Giữa cha mẹ ni và con ni có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục nhau như cha
mẹ và con”.
Câu 3: Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không? Đoạn
nào của bản án cho câu trả lời?
- Trong Bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.
- Đoạn của Bản án cho câu trả lời:
“Các bà có nghe nói trước đây bố mẹ các bà có nhận bà Nguyễn Thị Tý làm con ni, sau đó
bà Tý về với bố mẹ đẻ và đi lấy chồng”.
Câu 4: Tịa án có coi bà Tý là con ni của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời?
- Tồ án khơng coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Xác định bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của cụ
Thát, cụ Tần, cụ Thứ”.
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Giải pháp của Toà án liên quan đến bà Tý là: Toà án từ chối ghi nhận sự tồn tại của quan hệ
cha mẹ nuôi và con nuôi nếu việc nuôi dưỡng chỉ trong thời gian ngắn (cụ thể là bà Tý trước
đây là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần trong 6, 7 năm; sau đó bà Tý về nhà cha mẹ đẻ và trong
lý lịch cụ Thát, cụ Tần không ghi phần con nuôi là bà Tý). Hướng giải quyết của Tồ án là hợp
lý vì việc nuôi con nuôi chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn thì khơng đủ cơ sở để xác
định đó là quan hệ ni con ni thực tế. Có Tồ từ chối ghi nhận sự tồn tại quan hệ cha mẹ
con ni nếu việc ni dưỡng chỉ có thời gian 1 năm hay 7 năm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
cho thấy quan hệ cha mẹ nuôi, con nuôi cũng có thể được chấp nhận dù khơng được đăng ký.
7
Câu 6: Trong Quyết định số 182, Toà án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách
nào? Vì sao?
- Trong Quyết định số 182, Tồ án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách là con
nuôi, tức là thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
- Vì ơng Tùng đã ở với hai cụ và các cụ đã nuôi dưỡng ông từ nhỏ, khi hai cụ già yếu ơng
Tùng là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết ông Tùng là người lo mai táng.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng.
Hướng xác định của Toà án liên quan đến anh Tùng là nếu thu thập, xác minh về lời khai
của anh Tùng thì phải coi anh Tùng là con ni của hai cụ trên thực tế. Hướng giải quyết của
Toà là bám sát vào thực tiễn, phù hợp ý chí của người q cố là cơng nhận thực tế có quan hệ
cha mẹ nuôi, con nuôi mặc dù quan hệ này chưa được đăng ký. Tuy nhiên, để xác định quan
hệ này tồn tại, cần có chứng cứ thực tế thuyết phục và việc đánh giá tính thuyết phục của
chứng cứ phụ thuộc nhiều vào nhận thức của thẩm phán.
Câu 8: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hơn nhân
và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung khơng? Vì
sao?
- Nếu hồn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hơn nhân và
gia đình năm 1986, anh Tùng không được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung.
- Vì Theo Điều 37 của Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Việc nhận nuôi con do
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi cơng
nhận và ghi vào sổ hộ tịch”.
Theo đó ơng Tùng không được nhận thừa kế. Mặc dù ông Tùng đã ở với cụ Cầu và cụ Dung
từ lâu (khi anh Tùng 2 tuổi), anh có cơng chăm sóc, ni dưỡng hai cụ, khi hai cụ chết ông
Tùng là ngườ lo mai táng cho hai cụ. Nhưng cụ Cầu và cụ Dung khơng có đi đăng kí để xác
nhận ơng Tùng là con ni của mình nên theo Điều 37 Luật hơn nhân và gia đình thì ơng Tùng
khơng được hưởng Thừa kế.
8
Câu 9: Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
- Vì căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 quy định về Người thừa kế theo
pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”
Câu 10: Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?
Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát:
“Bà Tiến cịn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Uỷ ban nhân dân phường Xuân
Lan cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ”.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.
- Giải pháp trên của Tòa án cơng nhận bà Tiến là con cụ Thát là có thuyết phục. Vì bà Tiến
được bà Khiết kê khai trong bản sơ yếu lí lịch Đảng viên, có giấy khai sinh, được họ hàng,
hàng xóm xác nhận, như vậy là đủ căn cứ chứng minh bà Tiến là con cụ Thát và được hưởng
thừa kế theo pháp luật. Việc xác nhận như vậy đảm bảo quyền lợi mà bà Tiến được hưởng.
III. Phần thứ ba: Con riêng của vợ/chồng.
Câu 1: Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần khơng? Vì sao?
- Bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần.
- Vì cụ Thát là chồng cụ Tần có vợ hai là cụ Thứ. Ngoài bốn người con chung với cụ Tần là
ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển thì ơng Thát có một người con với cụ Thứ là bà Tiến.
Câu 2: Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
9
- Con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ khi giữa vợ và con riêng của chồng có quan
hệ chăm sóc, ni dưỡng như mẹ con.
- Vì căn cứ vào Điều 679, BLDS 2005 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và cịn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676
và Điều 677 của Bộ luật này”.
Câu 3: Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần khơng? Vì sao?
- Bà Tiến khơng đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần.
- Vì căn cứ theo Điều 679, BLDS 2005 quy định về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676
và Điều 677 của Bộ luật này”.
Trong Bản án không đề cập tới việc bà Tiến và cụ Tần có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng
nhau như mẹ con, do đó, bà Tiến khơng đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần.
Câu 4: Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được
hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được hưởng
thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần.
- Đây là căn cứ từ thực tiễn xét xử. Theo bản án: “Bà Lan là con riêng của bà Tốt được ông
Chừng chăm sóc, nuôi dưỡng từ lúc 4 tuổi. Do đó, bà Lan cũng là người thừa kế di sản của
ông Chừng và bà Tốt, theo Điều 779 BLDS2005. Xét bà Xin, bà Lan, bà Trinh là con của ông
Chừng bà Tốt nên theo Điều 676 BLDS2005 thì bà Xin, bà Trinh, bà Lan thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của ông Chừng bà Tốt”1.
1
Bản án số 560/2009/DS-PT ngày 3/4/2009 của Tồ án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
10
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối
với di sản của cụ Tần.
Cách giải quyết của Tòa án là thỏa đáng. Vì bà Tiến khơng có cơng chăm sóc, ni dưỡng cụ
Tần và khơng có quan hệ huyết thống với cụ Tần. BLDS quy định mối quan hệ này có hậu quả
pháp lí khi có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như mẹ con nhưng bản án khơng có những
tình tiết này.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của con
riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện nay.
Trong BLDS có đưa ra ba hàng thừa kế nhưng cả ba hàng thừa kế đều không liệt kê con
riêng của vợ chồng đối với bố dượng, mẹ kế mà cũng không liệt kê bố dượng, mẹ kế với đối
với thừa kế của con riêng của vợ, của chồng. Theo nhóm em, chế định thừa kế nên quy định
con riêng của vợ, chồng nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì
nên xác định rõ là thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất bởi nên coi họ như con đẻ, con nuôi của
người chết.
IV. Phần thứ tư: Thừa kế thế vị.
Câu 1: Khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Áp dụng chế định thừa kế thế vị khi con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu
được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cịn sống.
- Vì căn cứ theo Điều 677, BLDS 2005 quy định về Thừa kế thế vị:
“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
11
Câu 2: Vợ của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa kế thế vị khơng?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Vợ của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa kế thế vị.
- Vì căn cứ vào Điều 677, BLDS 2005 quy định về Thừa kế thế vị:
“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cịn sống.”
Theo đó, vợ của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không thuộc những trường hợp
được hưởng thừa kế thế vị đã được pháp luật quy định. Vì vậy, vợ của người con chết trước
(hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa kế thế vị.
Câu 3: Trong Quyết định số 509, theo Toà án (các cấp), anh Lan có được hưởng thừa kế thế vị
của ông Thiếp không?
- Trong Quyết định số 509, theo Toà án (các cấp), anh Lan được hưởng thừa kế thế vị của ông
Thiếp.
- Đoạn trong Quyết định cho thấy:
“Diện và hàng thừa kế thứ nhất của ông Thiếp gồm: Bà Sách, chị Thư, chị Hồng, chị Xung,
chị Nhung, chị Loan, chị Phượng (đã mất năm 1999) có chồng là anh Lan và 2 con là cháu Phi
và cháu Oanh và bà Sách được hưởng phần của chị Phượng; anh Công, chị Thức mỗi kỳ phần
được hưởng 6.377.000đ”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án.
- Hướng giải quyết của Tồ án là hợp lí.
- Bởi lẽ anh Lan không phải là người thừa kế của ơng Thiếp vì anh Lan là con rể theo quy
định tại Điều 677, BLDS 2005 quy định về Thừa kế thế vị. Theo đó, các con của chị Phượng
mới là người thừa kế thế vị của ông Thiếp.
12
Câu 5: Trong Quyết định số 509, theo Toà án (các cấp), cháu Oanh và cháu Phi có được
hưởng thừa kế thế vị của ông Thiếp không?
- Trong Quyết định số 509, theo Toà án (các cấp), cháu Oanh và cháu Phi được hưởng thừa kế
thế vị của ông Thiếp.
- Đoạn của Quyết định cho thấy:
“Diện và hàng thừa kế thứ nhất của ông Thiếp gồm: Bà Sách, chị Thư, chị Hồng, chị Xung,
chị Nhung, chị Loan, chị Phượng (đã mất năm 1999) có chồng là anh Lan và 2 con là cháu Phi
và cháu Oanh và bà Sách được hưởng phần của chị Phượng; anh Công, chị Thức mỗi kỳ phần
được hưởng 6.377.000đ”.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án.
Hướng giải quyết của Tồ án là hợp lí. Bởi lẽ đáng ra chị Phượng là người thừa kế của ông
Thiếp mà chị Phượng lại chết trước ông Thiếp nên theo quy định tại Điều 677, BLDS 2005
quy định về Thừa kế thế vị thì con của chị Phượng là cháu Oanh và cháu Phi mặc nhiên được
hưởng thừa kế phần di sản mà đáng ra nếu còn sống chị Phượng sẽ được hưởng.
Câu 7: Trong Bản án số 20, nếu bà Tý là con ni đích thực của cụ Tần, cụ Thát và chết sau
cụ Thát nhưng chết trước cụ Tần thì các con của bà Tý có được hưởng thừa kế thế vị của cụ
Thát và cụ Tần không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Bản án số 20, nếu bà Tý là con ni đích thực của cụ Tần, cụ Thát và chết sau cụ Thát
nhưng chết trước cụ Tần thì các con của bà Tý được hưởng thừa kế thế vị của cụ Tần.
- Vì căn cứ vào Điều 677, BLDS 2005 quy định về Thừa kế thế vị:
“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cịn sống.”
Theo đó, bà Tý chết sau cụ Thát và chết trước cụ Tần nên các con bà Tý không được hưởng
thừa kế thế vị của cụ Thát mà chỉ được hưởng của cụ Tần.
13
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế thế vị trong BLDS hiện nay.
Chế định thừa kế thế vị trong BLDS 2005 tại Điều 677 xác định:
- Không phải ai cũng được hưởng thừa kế thế vị. Ở đây, chỉ có cháu và chắt của người để lại
di sản được thừa kế thế vị.
- Ngoài ra cịn vấn đề cháu ni, chắt ni. Thực tiễn xét xử theo hướng cháu nuôi cũng
được hưởng thừa kế thế vị. Ở đây, BLDS chỉ đề cập đến “cha hoặc mẹ” của cháu mà không
phân biệt là cha hoặc mẹ đẻ với cha hoặc mẹ ni nên có thể suy luận cả hai trường hợp này
đều thuộc thừa kế thế vị. Nói cách khác, thừa kế thế vị bao gồm cả con của con đẻ và con của
con nuôi của người để lại di sản.
- Khơng cịn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Thực tế cho thấy, con của người để lại di sản
chết trước (và khơng cịn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất), nhưng con của người chết trước đó
lại cịn sống tại thời điểm mở thừa kế. Nên con của người con chết trước có nghĩa là cháu của
người để lại di sản được hưởng với tư cách là người thừa kế thế vị.
Câu 9: Trong Quyết định số 509, có thể hiểu rằng Tồ án đã áp dụng chế định thừa kế thế vị
trong trường hợp thừa kế theo di chúc khơng? Vì sao?
- Trong Quyết định số 509, khơng thể hiểu rằng Tồ án đã áp dụng chế định thừa kế thế vị
trong trường hợp thừa kế theo di chúc.
- Vì nội dung của di chúc của ông Thiếp là để lại một phần tài sản trong khối tài sản chung
với bà Sách cho anh Cơng. Cịn phần di sản được áp dụng chế định chia thừa kế thế vị cho hai
con chị Phượng không liên quan đến phần tài sản được để lại trong di chúc. Thế nên không thể
xem đây là áp dụng chế định thừa kế thế vị trong trường hợp thừa kế theo di chúc.
Câu 10: Theo Bộ luật Dân sự hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo Bộ luật Dân sự hiện hành, chế định thừa kế thế vị không được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc.
- Căn cứ vào Điều 677, BLDS 2005 quy định về Thừa kế thế vị:
14
“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng
nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cịn sống.”
Theo đó, chế định thừa kế thế vị nằm trong phần thừa kế theo pháp luật, do đó khơng áp
dụng cho thừa kế theo di chúc.
Câu 11: Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho các trường hợp thừa kế
theo di chúc khơng? Vì sao?
Theo em, không nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo di chúc.
Bởi vì thừa kế thế vị chỉ được áp dụng trong trường hợp chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Chỉ khi di sản chia theo pháp luật thì người con mới đương nhiên có suất hưởng thừa kế phần
di sản đó. Và khi người con này chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản
thừa kế thì người cháu mới thừa kế thế vị được. Cịn trường hợp di sản chia theo di chúc thì
phần tài sản đó sẽ được chia theo ý nguyện của người để lại di sản. Người để lại di sản muốn
chia cho ai thì người đó mới có quyền được hưởng và nếu người được hưởng đó khơng cịn
sống thì di chúc đó mới vơ hiệu và di sản đó được mang ra để chia theo pháp luật. Nếu chúng
ta áp dụng chế định thừa kế thế vị vào trong trường hợp thừa kế theo di chúc cũng có nghĩa là
chúng ta đã đi trái lại ý chí mong muốn của người lập di chúc, có thể hiểu là trường hợp chúng
ta sửa di chúc của người để lại di chúc, điều đó là trái với các quy định của pháp luật.
V. Phần thứ năm: Hàng thừa kế thứ hai và thứ ba.
Câu 1: Những thay đổi giữa BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 về hàng thừa kế thứ hai và
hàng thừa kế thứ ba.
Những thay đổi giữa BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 về hàng thừa kế thứ hai và hàng
thừa kế thứ ba:
- Về hàng thừa kế thứ 2: BLDS 2005 quy định thêm một đối tượng nữa là cháu ruột của
người chết mà gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
15
Căn cứ vào Điểm b, Khoản 1, Điều 679, BLDS 1995 quy định về Hàng thừa kế theo pháp
luật:
“1- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết;”
Và Điểm b, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại;”
- Về hàng thừa kế thứ ba: BLDS 2005 quy định thêm một đối tượng nữa đó là chắt ruột của
người chết mà gọi người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Căn cứ vào Điểm c, Khoản 1, Điều 679, BLDS 1995 quy định về Hàng thừa kế theo pháp
luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột”.
Và Điểm c, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cơ ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại ”.
Câu 2: Trong Quyết định số 257, ông Vàng và ơng Tính có là người thừa kế theo pháp luật
của cố Bảy và cố Xi khơng? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong Quyết định số 257, ơng Vàng và ơng Tính khơng là người thừa kế theo pháp luật của
cố Bảy và cố Xi.
- Vì một đoạn của Quyết định 257, Tồ án đã xác định:
16
“Ơng Đỗ Như Vàng (Nguyễn Văn Trọng) và ơng Nguyễn Trung Tính là con ni cả vợ
chồng cụ Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Thị Tư nên hai ông này không phải là cháu ruột của cố
Bảy, cố Xi. Theo quy định tại Điểm c Khoản a Điều 676 Bộ luật dân sự thì ơng Đỗ Như Vàng
(Nguyễn Văn Trọng) và ơng Nguyễn Trung Tính khơng được hưởng thừa kế di sản của cố
Bảy, cố Xi nên không phải là người thừa kế của cố Bảy, cố Xi”.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ơng Gịn, bà Gấm, ơng Tư, bà Bơng và bà Hoa
được Tịa án xác định là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai của cố Bảy và cố Xí?
Đoạn của Quyết định cho thấy ơng Gịn, bà Gấm, ơng Tư, bà Bơng và bà Hoa được Tòa án
xác định là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai của cố Bảy và cố Xí:
“Mặt khác, tại biên bản hoà giải ngày 24/5/2005 (BL 189) và ngày 6/6/2005 (BL 184) hồ sơ
vụ án tranh chấp thừa kế thụ lý năm 2004, các đương sự bao gồm ông Nguyễn Văn Gòn, bà
Nguyễn Thị Cấm, ông Nguyễn Văn Tư, bà Nguyễn Thị Bông và bà Huỳnh Thị Hoa là những
người thuộc hàng thừa kế thứ hai của cố Bảy, cố Xi đều xác nhận nhà đất tại 172/2A số mới là
172/3A Tân Hồ Đơng, phường 14, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh là di sản của cố Bảy, cố
Xi và cùng đồng ý chia thừa kế nhà đất này”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Cố Bảy và cố Xí chết đều khơng để lại di chúc nên di sản được chia theo pháp luật. Do ông
Đỗ Như Vàng và ông Nguyễn Trung Tính là con ni của vợ chồng cụ cố Bảy, cố Xí nên theo
Điểm c, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 khơng cịn là người thừa kế của cố Bảy, cố Xí. Như
vậy, hướng giải quyết của Tồ dân sự Toà án nhân dân tối cao là hoàn toàn hợp lý.
- Đồng thời nếu xét theo Điều 677, BLDS 2005 về Thừa kế thế vị cũng khơng hợp pháp vì
quan hệ này là quan hệ thừa kế giữa con nuôi với những người thân trong gia đình của cha, mẹ
ni nên người con nuôi không được thay thế vào vị trí của cha, mẹ ni của mình mà nhận
thừa kế thế vị di sản từ cha mẹ đẻ của cha mẹ ni.
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tồ án xác định bà Cục thuộc hàng thừa kế thứ hai của
cố Chính và cố Lơi trong Quyết định số 213.
17
- Việc tòa xác định bà Cục thuộc hàng thừa kế thứ hai của cố Chính và cố Lõi là hợp lí.
- Vì bà Cục là cháu ngoại của cố Chính và cố Lõi, do đó bà Cục đã nằm trường hợp ở Điểm
b, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Những người thừa kế theo pháp luật.
Câu 6: Ông Trắng và bà Bé có thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cố Chính và cố Lõi
khơng? Vì sao?
- Ông Trắng và bà Bé không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cố Chính và cố Lõi.
- Vì ông Trắng và bà Bé là cháu đời thứ 5 của cố Chính và cố Lõi; theo Điều 676, BLDS 2005
về Người thừa kế theo pháp luật thì bà Bé và ông Trắng không được quy định là thuộc hàng
thừa kế theo pháp luật của cố Chính và cố Lõi.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tồ án liên quan đến mối quan hệ giữa ơng
Trắng, bà Bé và bà Cục liên quan đến di sản của cố Chính và cố Lõi.
- Hướng xử lí của tịa án về mối quan hệ giữa ơng Trắng, bà Bé và bà Cục liên quan đến di
sản của cố Chính và cố Lõi là hợp lý.
- Vì theo quy định tại Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Những người thừa kế theo pháp luật
thì bà Bé và ơng Trắng là con cháu đời thứ 5 khơng có mặt trong hàng thừa kế nên khơng có
quyền hưởng thừa kế, cịn bà Cục là cháu ngoại của cố Chính và cố Lõi nên thuộc hàng thừa
kế thứ hai của cố Chính và cố Lõi, vì vậy, bà Cục hiển nhiên được hưởng di sản của cố Chính
và cố Lõi.
18