Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 24 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt có thể nói là một cơng việc lớn.
Cơng việc ấy đặt ra cho cả cấp học, cho mọi người dân Việt Nam. Đối
với người đang trực tiếp học tập và sử dụng ngôn ngữ như học sinh thì
nhiệm vụ ấy được đặt ở vị trí cao.Thực trạng hiện nay, học sinh THCS
đang mắc phải khá nhiều lỗi về tiếng Việt, lỗi trong phạm vi chính tả, từ,
câu… Trước yêu cầu và thực trạng của vấn đề, tơi thấy việc tìm hiểu các
lỗi tiếng Việt trong học sinh THCS để có biện pháp khắc phục là một
cơng việc lí thú và cần thiết. Thuật ngữ “<i>chính tả</i>” hiểu theo nghĩa gốc là
“<i>phương pháp viết đúng</i>” hoặc lối viết hợp chuẩn. Cụ thể, chính tả là một
hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn
ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm tiếng nước ngoài… Ở bậc
THCS thì PPCT khơng qui định cụ thể tiết tập viết chính tả. Tuy nhiên,
vẫn có đưa ra bài tập rèn luyện chính tả trong cả ba phân mơn Văn, TLV
và Tiếng Việt. Việc rèn luyện chính tả có ý nghĩa rất quan trọng<b>.</b> Bởi vì
q trình rèn luyện chính tả giúp học sinh nắm vững hình thành kĩ năng,
kĩ xảo chính tả. Ngồi ra, cịn rèn cho học sinh các phẩm chất như tính
cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý tiếng Việt và
chữ viết của tiếng Việt. Từ những lí do chủ quan và khách quan đã nêu
trên thôi thúc tôi chọn và thực hiện đề tài “<i>Xác định lỗi và chữa lỗi chính </i>
<i>tả cho học sinh THCS”.</i>
- Một số cơ sở lí luận.
-Thực tiễn và thực trạng của học sinh đối với việc viết chính tả
ở bậc THCS.
Đề tài tập trung trình bày một số kinh nghiệm xác định lỗi và
chữa
lỗi cho học sinh có hiệu quả.
-Việc chuẩn hóa tiếng Việt trong nhà trường là một yêu cầu đúng đắn,
mang đầy đủ tính lý luận cũng như thực tiễn, tính cấp thiết trước mắt cũng
như tính lâu dài. Bởi lẽ, tiếng Việt được chia làm 3 phương ngữ chính: + Phương ngữ Nam
Bộ.
+ Phương ngữ
Trung Bộ.
+ Phương ngữ Bắc
-Chuẩn hóa tiếng Việt nhằm khắc phục lỗi, phân biệt phương ngữ trên
chữ viết và hạn chế phân biệt trên cách phát âm.<i><b> </b></i>
-Theo “Báo cáo Tình hình chính tả văn bản tiếng Việt” do Viện Công nghệ
Thông tin - ĐH Quốc gia Hà Nội cho thấy, tỷ lệ lỗi chính tả trong văn bản
tiếng Việt đã ở mức báo động, vượt quá cao so với tiêu chuẩn (tiêu chuẩn
cho phép là 1%). Tỉ lệ lỗi chính tả Tiếng Việt hiện nay là 7,79%.
-Lỗi trong phạm vi chính tả: Các em khơng thể phân biệt rõ dấu hỏi,
dấu ngã, không phân biệt được phụ âm d - gi trong nhiều trường hợp,
lỗi âm cuối n - ng, t - c, lỗi âm đệm u - ơ, lỗi âm chính o - ơ, a – ê, còn
tùy tiện khi viết “i”- “y”. Những lỗi này hoàn toàn sửa được, bởi tiếng
Việt là ngôn ngữ thống nhất. Mặt khác là đối tượng trung tâm của
trường học, học sinh được sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo, cơ giáo,
gia đình và toàn xã hội.
- Phát hiện những lỗi chính tả của học sinh THCS.
- Đề tài nhằm phục vụ cho học sinh và nghiên cứu giảng dạy của giáo viên.
-Phát hiện đúng, chính xác lỗi của học sinh đã thành quy luật và mang tính
đặc trưng nhất.
- Tham khảo ý kiến đồng nghiệp và tài liệu.
- Tìm ra quy luật về lỗi chính tả đã có.
Học sinh sở dĩ phạm các lỗi trên là do ba nguyên nhân sau:
1.Loại lỗi sai do không nhớ, không thuộc mặt chữ do thiếu ý thức
rèn luyện (đây là nguyên nhân chủ yếu).
2. Loại lỗi sai do không nắm được quy tắc.
3. Loại lỗi viết sai do ảnh hưởng của phương ngữ.
Có hai cách để khắc phục: Thứ nhất học thuộc lòng, thứ hai là nắm
<b> Thứ nhất: Học thuộc lòng:</b>
-Trong tiếng Việt từ có dấu hỏi nhiều hơn từ có dấu ngã, do đó cách học
thơng minh nhất là nhớ những trường hợp viết dấu ngã còn lại là viết dấu hỏi.
Bất kỳ văn bản nào những từ sau đây thường xuất hiện nhiều: chỗ, cũng, đã
(đã rồi), giữa, giữ, lẽ (lẽ phải), mãi (mãi mãi), nỗi (nỗi niềm), nữa (còn nữa),
những, sẽ (sẽ làm), vẫn (vẫn thế) 12 từ này luôn mang dấu ngã, học sinh chỉ
cần học thuộc thì đã giải quyết được 50% lỗi hỏi - ngã.
Ngoài 12 trường hợp trên, chúng ta cần chú ý một số trường hợp khác
có tần suất khá cao, theo giáo sư: Phan Ngọc <i>“chỉ cần học thuộc học sinh đã </i>
<i>hạn chế được gần 90% lỗi viết sai dấu hỏi, dấu ngã</i>”.
<b> Thứ hai: </b><i><b>Dùng mẹo luật hoặc qui tắc:</b></i>
<b>1. Quy tắc hài thanh hỏi, ngã đối với từ láy:</b>
<i><b>1.1. Trước hết cần phân biệt từ láy với từ ghép.</b></i>
1.1.1. Từ ghép là loại từ ghép hai âm tiết trở lên mà một lượng lớn từ
thoạt nhìn giống từ láy. Chẳng hạn các từ <i>l ỡ dở, lí lẽ, lú lẫn, mồ mả, </i>
<i>mỏi mệt, giữ gìn, nghỉ ngơi, sửa chữa, nhỏ nhẹ, sửa soạn, giãy nảy, nhểu </i>
<i>nhão, kiêng cữ, ủ rũ</i>... Điều cần nhớ là hai âm tiết của từ ghép đều có
nghĩa chân xác. Tình hình cũng giống như loại từ ghép <i>ăn uống, nhà cửa, </i>
1.1.2. Nhưng từ láy lại khác. Đó là từ cũng có cấu tạo từ hai âm tiết trở
lên nhưng ít nhất có một âm tiết khơng có nghĩa xác định. Chẳng hạn loại
từ có cả hai âm tiết đều khơng có nghĩa như <i>lởn vởn, lủng củng, </i>
<i>lững thững, tủn mủn, xởi lởi, đủng đỉnh...</i> Một số từ khác lại có âm tiết
đứng trước hoặc đứng sau không mang nghĩa như <i>lỏng lẻo, mủm </i>
<i>mỉm, nhỏ nhẻ...</i> Tức là nếu tách ra thì các âm tiết <i>lẻo, mủm, nhẻ</i>
khơng có nghĩa xác định. Nói khác, chúng khơng phải là một từ khi đứng
riêng.
<b>1. Quy tắc hài thanh hỏi, ngã đối với từ láy:</b>
<i><b>1.1. Trước hết cần phân biệt từ láy với từ ghép.</b></i>
<i><b>1.2. Quy tắc trầm bổng:</b></i>
1.2.1. Quy tắc trầm chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh là
huyền, nặng, ngã thì âm tiết đi cùng cũng có dấu ngã.
Ví dụ: từ láy có một âm tiết mang thanh huyền <i>mùi mẽ, mỡ màng, phè </i>
Ví dụ 2: từ láy có một âm tiết mang thanh nặng <i>bụ bẫm, chặt chẽ, chập </i>
<i>chững, dạn dĩ, doạ dẫm, dựa dẫm, đẹp đẽ, đĩnh đạc, gạ gẫm, gặp gỡ, giặc </i>
<i>giã, gọn ghẽ, hợm hĩnh, khập khiễng, lạnh lẽo, lạc lõng, lọc lõi, nhạt nhẽo, </i>
<i>ngặt nghẽo, nghễu nghện, ngỗ ngược, õng ẹo, quạnh quẽ, rộn rã, rộng rãi, </i>
<i>rũ rượi, thưỡn thẹo, gỡ gạc, giãy giụa, não nuột, nhễ nhại, nhẵn nhụi...</i>
Ví dụ 3: từ láy có một âm tiết mang thanh ngã <i>lã chã, lẽo đẽo, lõm bõm, </i>
<i>lõng bõng, lỗ chỗ, lững thững, nhõng nhẽo...</i>
<i><b>1.2. Quy tắc trầm bổng:</b></i>
1.2.2. Quy tắc bổng chi phối từ láy có một âm tiết mang dấu thanh
ngang, sắc, hỏi thì âm tiết đi cùng cũng có dấu hỏi.
Ví dụ 1: từ láy có một âm tiết mang thanh ngang <i>da dẻ, dai dẳng, dư dả, </i>
<i>đon đả, nham nhở, thong thả, thơ thẩn, sa sả, vui vẻ, xây xẩm, leo lẻo, hả </i>
<i>hê, hở hang, lẻ loi, mỏng manh, mở mang, rủ rê, nể nang...</i>
Ví dụ 2: từ láy có một âm tiết mang thanh sắc <i>bướng bỉnh, cứng cỏi, </i>
<i><b>1.2. Quy tắc trầm bổng:</b></i>
Ví dụ 3: từ láy có một âm tiết mang thanh hỏi <i>thỏ thẻ, hổn hển, bủn rủn, </i>
<i>đủng đỉnh, lảo đảo, lủng củng, lỏng lẻo...</i>
Lưu ý 1: Để ghi nhớ quy tắc hài thanh trầm bổng
(huyền-ngã-nặng/ngang-hỏi-sắc), người ta có hai câu lục bát sau:
Em <i>huyền</i> mang <i>nặng ngã</i> đau,
Anh <i>ngang sắc</i> thuốc <i>hỏi</i> đầu bớt chưa.
Lưu ý 2: Ngơn ngữ nào cũng có ngoại lệ nên quy tắc hài thanh tiếng Việt
cũng có một số ngoại lệ sau:
-Âm tiết có thanh ngang nhưng âm tiết đi cùng lại có thanh ngã: <i>khe khẽ, </i>
<i>lam lũ, ngoan ngỗn, nơng nỗi, trơ trẽn, ve vãn...</i>
-Âm tiết có thanh huyền láy với âm tiết có thanh hỏi: <i>bền bỉ, chàng </i>
<i>hảng, chồm hổm, chèo bẻo, niềm nở, phỉnh phờ, sừng sỏ.</i>
Hơn 60% tiếng Việt có nguồn gốc Hán nhưng phát âm Việt nên gọi ghép là
từ Hán Việt để phân biệt với từ thuần Việt. Đa số từ Hán Việt có cấu tạo từ
2.1. Quy tắc thanh ngã của từ Hán Việt được ghép thành công thức <i><b>mình </b></i>
<i><b>nên nhớ là viết dấu ngã.</b></i> Tức là với những từ Hán Việt có phụ âm đầu M, N.
Nh, L, V, D, Ng thì phải viết thanh ngã. Ví dụ:<b> M </b>(<i>mãnh liệt, mãn khoá, minh </i>
<i>mẫn, mẫu hệ, mẫu giáo, mĩ thuật, mĩ lệ...</i>),<b> N </b>(<i>não bộ, truy nã, nỗ lực, phụ </i>
<i>nữ...</i>),<b> Nh</b> (<i>nhãn hiệu, nhẫn nại, truyền nhiễm, thổ nhưỡng, nhũ mẫu</i>),<b> L</b>
(<i>lão hoá, lãnh đạo, lãnh tụ, lãng phí, lễ nghĩa, lũng đoạn, tích luỹ...</i>),<b>V</b>
(<i>vãn hồi, vãng lai, vĩ đại, vĩ tuyến, viễn xứ, vĩnh viễn</i>...), <b>D</b> (<i>dã man, </i>
<i>hướng dẫn, dĩ vãng, dĩ nhiên, diễn viên, diễm lệ</i>...), <b>NG/NGH</b> (<i>bản ngã, </i>
<i>ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngũ, nghĩa vụ, nghĩa trang</i>...)
2.2.1.Với các phụ âm <b>B: </b>bảo vệ, bản lĩnh, dân biểu, bảng nhãn... (Ngoại
lệ: <i>bãi cơng, bãi chức, bãi khố, hồi bão, bão hồ</i>), <b>C:</b> cảm tình, cảnh cáo,
cẩn thận, cổ tích, củng cố, cử hành, nghĩa cử... (Ngoại lệ: <i>cưỡng bức, linh </i>
<i>cữu</i>), <b>Ð:</b> đảm nhiệm, can đảm, đảng phái, điển hình, đả kích... (Ngoại lệ:
<i>đãi ngộ, đãng trí, phóng đãng, hiếu đễ, đỗ trọng, đỗ quyên</i>), <b>H: </b>hải cảng,
hải quân, hảo hạng, hoan hỉ, hiển vinh, hủ tục, hoả pháo, hoả tiễn, hoảng
hốt... (Ngoại lệ: <i>sợ hãi, kinh hãi, hãm hại, hung hãn, kiêu hãnh, hỗn binh, trì </i>
<i>hỗn, hỗ trợ, hỗn hợp, huyễn hoặc, hữu nghị, hữu hạn, hãng</i>), <b>K:</b> kỉ cương, kỉ
luật, kỉ niệm, kiểm điểm...(Ngoại lệ: <i>kĩ nữ, kĩ nghê, kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo, kĩ </i>
<i>sư, kĩ lưỡng)</i>, <b>KH: </b>khả ái, khả năng, khải hoàn, khảo cổ, khẩn cấp, khỏa
thân, khẩu khí, khiển trách, khủng bố, khuyển nho..., <b>PH: </b>gia phả, phản
chiếu, phản ánh, phẩm chất, phủ định... (Ngoại lệ: <i>phẫn nộ, phẫn uất, </i>
<i>phẫn chí, phẫu thuật</i>), <b>Q: </b>quả cảm, quả phụ, quản lí, quản giáo, quảng
cáo, quảng đại, quảng trường, quỷ kế, quỷ quyệt... (Ngoại lệ: <i>quẫn bách, </i>
<i>quẫn trí, cùng quẫn, quỹ đạo</i>), <b>S: s</b>ản sinh, sản vật, sở hữu, sủng ái, lịch
sử... (Ngoại lệ: <i>sĩ, suyễn</i>,<i>sãi</i>), <b>T: </b>miêu tả, vận tải, tản cư, tẩu thoát, tử trận,
phụ tử, tiểu tiết... (Ngoại lệ: <i>tiễn biệt, hỏa tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết</i>),
<b>TH: s</b>a thải, thảm kịch, thảm họa, thản nhiên, thảng thốt, thảo mộc, thiểu số,
thiển cận... (Ngoại lệ: <i>mâu thuẫn, hậu thuẫn, phù thũng</i>), <b>TR: </b>triển khai,
trở lực, trưởng giả, trưởng nam... (Ngoại lệ: <i>trữ lượng, tích trữ, trẫm, </i>
<i>chim trĩ, ấu trĩ,</i> <i>bệnh trĩ</i>), <b>X:</b> xả thân, xảo trá, ngu xuẩn, xử lí, cơng xưởng....
2.2.2. Với các nguyên âm <b>A</b> (ảo ảnh, ảm đạm, quan ải...), <b>Â</b> (ẩn sĩ,
ẩn số, ẩn dật, ẩm thực...), <b>Ô</b> (ổn định, ổn áp, ổn thoả...), <b>Y</b> (ỷ lại, ỷ thế,
yểm hộ, yểm trợ, yểu mệnh, yểu tử...), <b>U </b>(ủng hộ, uổng mạng, uổng
phí, uẩn khúc, uỷ nhiệm, ủy quyền, uỷ viên, uỷ thác, uyển chuyển...).
<i><b>2- Khi nào viết “i”, “y”?</b></i>
Hiện nay có nhiều ý kiến tranh cãi nên viết “i” hay “y”. Đây quả là một
câu chuyện tốn nhiều bút mực. Theo “Quy định về chính tả trong sách
giáo khoa cải cách giáo dục” của Bộ Giáo dục và Ủy ban Khoa học Xã hội
Việt Nam thì có một số quy tắc về viết “i" và “y” như sau:
<b> - Nguyên âm </b><i><b>trong các âm tiết mở, theo quy định là phải viết i ngắn: </b></i>
<i><b>kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ...- Nguyên âm đứng </b></i>
<i><b>một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt: ỉ (eo), ì </b></i>
<i><b>(à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,... và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, </b></i>
<i><b>y (sĩ), (chuẩn) y...</b></i>
<i><b> - Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên </b></i>
<i><b>âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh </b></i>
<i><b>huỵch...</b></i>
<i><b> - Trong các âm tiết nửa mở, có nhiều trường hợp thể hiện bằng hai </b></i>
<i><b>con chữ i, y nhưng thực chất có sự khác biệt (do sự nhầm lẫn </b></i>
Quy định này được áp dụng cho các sách giáo dục và từ điển tiếng
Việt. Thế nhưng, trong thực tế do thói quen ngơn ngữ và văn hóa
mà trong nhiều trường hợp cả “i” và “y” vẫn đều được chấp nhận là
cách viết đúng, đặc biệt là tên riêng thì dù khơng đúng với chuẩn
mực vẫn cần được tôn trọng. GS Nguyễn Lân Dũng từng nói rằng
- Kiến thức về tiếng Việt.
- Trách nhiệm và vai trị của mình trong nhà trường và trách
nhiệm trước nghề nghiệp. Từ đó giáo viên thiết kế chương trình rèn
luyện sao cho phù hợp với học sinh để có hiệu quả cao.
- GV cần phải chăm chút từng trang vở học trò, đặc biệt là trong khi
chấm và trả bài viết Tập làm văn, lồng ghép việc chữa lỗi chính tả cho
học sinh, biến tiết học này thành một hoạt động phong phú, đa dạng,
khơng lãng phí thời gian. Theo quan điểm của riêng tôi, đối với học sinh
THCS, những từ thơng dụng phổ biến thì phải viết đúng chính tả;
- Phải có ý thức rèn luyện chính tả, xem mỗi lỗi chính tả như là
một con sâu phá hỏng vườn hoa Tiếng Việt. Từ nào chưa rõ thì hỏi
Thầy cơ, trao đổi với bạn bè, tra Từ điển... Đặc biệt là tăng cường
- Phải tích cực tự giác trong việc tìm lỗi của mình và sửa chữa.
Người học chính là đối tượng quyết định sự thành bại của bản
thiết kế.
Với mong muốn cho học sinh mình giảm dần lỗi chính tả Tiếng
Việt khi tạo lập văn bản, ngày càng có nhiều bài văn hay, vở sạch,
chữ đẹp ít mắc lỗi chính tả, bản thân tơi ln nỗ lực tìm hiểu
và tham khảo nhiều tư liệu để tích cóp những kiến thức bổ ích giúp
các em phát hiện và chữa được nhiều lỗi chính tả. Qua thời
gian áp dụng đề tài vào thực tế tôi nhận thấy tuy số lỗi chưa phát
hiện được nhiều, cách phát hiện và chữa lỗi cịn mang tính chủ
quan song kết quả bước đầu của đề tài có giá trị thực tiễn trong
giảng dạy của tôi. Trong năm học 2011- 2012 nhờ sự rèn luyện
theo các biện pháp trên, các lớp tôi dạy đã tiến bộ dần về chữ viết,
lỗi chính tả.