Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.41 KB, 27 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
***
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHĨM 5
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Buổi làm việc thứ: 1
Địa điểm làm việc: Zalo
Thời gian: Từ 8 giờ đến 9 giờ, ngày 06, tháng 03, năm 2021
ST
T
41
42
43
44

Đinh Thị Hằng
Lê Thanh Hằng (TK)
Phạm Thu Hằng
Nguyễn Thị Thu Hảo

45

Trần Thị Hậu

46
47
48
49
50

Lưu Thị Thu Hiền


Phạm Thuý Hiền (NT)
Trần Thị Hiền
Trần Minh Hoà
Phù Thị Hoài

Họ và tên

Nhiệm vụ

Tình trạng tham gia

Đề tài 1 phần 1.2
Word 2 đề tài
Đề tài 1 phần 1.1
Đề tài 2 phần 2
Thuyết trình + mở đầu,
kết luận 2 đề tài
Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 2.1
Powerpoint
Đề tài 2 phần 1

Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia

Có tham gia
Không tham gia
Không tham gia

Nội dung công việc: Phân công việc, nội dung, cách thức trình bày bài thảo luận, tìm
tài liệu. Nhóm trưởng phân cơng cơng việc như sau:
ST
T
41
42
43
44

Đinh Thị Hằng
Lê Thanh Hằng (TK)
Phạm Thu Hằng
Nguyễn Thị Thu Hảo

45

Trần Thị Hậu

46
47
48
49
50

Lưu Thị Thu Hiền
Phạm Thuý Hiền (NT)

Trần Thị Hiền
Trần Minh Hoà
Phù Thị Hoài

Họ và tên

Nhận xét: Các thành viên tham gia nhiệt tình

Nhiệm vụ
Đề tài 1 phần 1.2
Word 2 đề tài
Đề tài 1 phần 1.1
Đề tài 2 phần 2
Thuyết trình + mở đầu,
kết luận 2 đề tài
Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 2.1
Powerpoint
Đề tài 2 phần 1


Deadline: 21h ngày 20/03/2021
Kết thúc buổi họp

Nhóm trưởng

Thư ký

Hiền


Hằng

Phạm Thuý Hiền

Lê Thanh Hằng

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nhóm 5

2


***
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHĨM 5
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Buổi làm việc thứ: 2
Địa điểm làm việc: Zalo
Thời gian: Từ 14 giờ 20 phút đến 16 giờ, ngày 01, tháng 04, năm 2021
ST
T
41
42
43
44

Đinh Thị Hằng
Lê Thanh Hằng (TK)
Phạm Thu Hằng

Nguyễn Thị Thu Hảo

45

Trần Thị Hậu

46
47
48
49
50

Lưu Thị Thu Hiền
Phạm Thuý Hiền (NT)
Trần Thị Hiền
Trần Minh Hoà
Phù Thị Hoài

Họ và tên

Nhiệm vụ

Tình trạng tham gia

Đề tài 1 phần 1.2
Word 2 đề tài
Đề tài 1 phần 1.1
Đề tài 2 phần 2
Thuyết trình + mở đầu,
kết luận 2 đề tài

Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 2.1
Powerpoint
Đề tài 2 phần 1

Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia

Nội dung cơng việc: Chỉnh sửa và hồn thiện nội dung phần 2.1,3 đề tài 1 và phần 1
đề tài 2
Nhận xét: Các thành viên tham gia nhiệt tình, hồn thành bài đúng hạn
Deadline hồn thiện: 21h ngày 08/04/2021
Deadline word: 21h ngày 11/04/2021
Deadline powerpoint 21h ngày 17/04/2021

Nhóm trưởng

Thư ký

Hiền


Hằng

Phạm Thuý Hiền

Lê Thanh Hằng

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nhóm 5

3


***
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHĨM 5
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Buổi làm việc thứ: 3
Địa điểm làm việc: Zalo
Thời gian: Từ 10 giờ 20 phút đến 11 giờ, ngày 18, tháng 04, năm 2021
ST
T
41
42
43
44

Đinh Thị Hằng
Lê Thanh Hằng (TK)
Phạm Thu Hằng
Nguyễn Thị Thu Hảo


45

Trần Thị Hậu

46
47
48
49
50

Lưu Thị Thu Hiền
Phạm Thuý Hiền (NT)
Trần Thị Hiền
Trần Minh Hoà
Phù Thị Hoài

Họ và tên

Nhiệm vụ

Tình trạng tham gia

Đề tài 1 phần 1.2
Word 2 đề tài
Đề tài 1 phần 1.1
Đề tài 2 phần 2
Thuyết trình + mở đầu,
kết luận 2 đề tài
Đề tài 1 phần 3

Đề tài 1 phần 3
Đề tài 1 phần 2.1
Powerpoint
Đề tài 2 phần 1

Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia
Có tham gia

Nội dung cơng việc: Chốt lại các vấn đề cịn tồn đọng và lưu ý khi thuyết trình
Nhận xét: Các thành viên tham gia nhiệt tình

Nhóm trưởng

Thư ký

Hiền

Hằng

Phạm Thuý Hiền

Lê Thanh Hằng


MỤC LỤC

Nhóm 5

4


Nhóm 5

5


A. ĐỀ TÀI 1
Những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm
1920 đến đầu năm 1930
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị
lãnh tụ thiên tài. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc vì hịa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Năm 1987, Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tơn vinh Hồ Chí Minh là "Anh
hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam".
Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng đã
được tiến hành từ mấy chục năm nay với sự góp mặt của đơng đảo các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Trong quá trình nghiên cứu ấy, các nhà lý luận một mặt làm rõ
khái niệm, các nội dung cụ thể của Tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt khác cịn chia sự hình
thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh thành những giai đoạn khác nhau. Việc
phân kỳ các giai đoạn như vậy để ta hiểu sâu sắc các mốc phát triển quan trọng, nắm

được nội dung tư tưởng quan trọng của Người trong từng thời kỳ. Việc phân kỳ các
giai đoạn như vậy để ta hiểu sâu sắc các mốc phát triển quan trọng, nắm được nội
dung tư tưởng quan trọng của Người trong từng thời kỳ. Đó khơng phải sự phân chia
đứt đoạn bởi Tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình phát triển liên tục, nhất quán, có
kế thừa, phát triển, loại bỏ những quan điểm khơng phù hợp, có những luận điểm tư
tưởng của Người được hình thành, bổ sung suốt đời. Vì vậy, tiêu chí cơ bản để phân
kỳ là dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh trong từng thời
kỳ cụ thể chứ không phải dựa vào các mốc thời gian hoạt động của Người.
Có thể thấy giai đoạn từ 1920 đến 1930 giữ một vai trò đặc biệt quan trọng với 10
năm hoạt động sôi nổi nhất, quyết liệt nhất của Hồ Chí Minh. Bởi nếu nội dung chính
của Tư tưởng Hồ Chí Minh “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” thì giai đoạn này chính là giai đoạn hình
Nhóm 5

6


thành những tư tưởng cơ bản đó. Hiểu được vấn đề đó nhóm chúng em đã lựa chọn đề
tài “Nghiên cứu những hoạt động thực tiễn và lí luận Hồ Chí Minh trong thời kì từ
cuối năm 1920 đến đầu năm 1930” để làm rõ những sự kiện chính trong quãng thời
gian hoạt động 1920 – 1930 của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, qua đó chỉ ra
những hoạt động cũng như lí luận của Người xuất hiện trong thời kỳ này, thấy được
những thay đổi, phát triển trong những tư tưởng ấy so với những thời kỳ trước.
I. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ cuối năm1920 đến đầu năm 1930:
1.1. Bối cảnh trong nước và trên thế giới từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930:

* Bối cảnh quốc tế :
Trên thế giới chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền,
Chủ nghĩa đế quốc xuất hiện đã đặt ách áp bức thống trị dưới nhiều hình thức khác
nhau ở hầu hết các nước Á – Phi – Mỹ Latinh. Cùng với mâu thuẫn gay gắt giữa giai

cấp tư sản với vô sản và mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, xuất hiện mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu
thuẫn đó ngày càng phát triển và trở thành mâu thuẫn hết sức gay gắt của thời đại. Bên
cạnh đó sự thắng lợi của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga đã mở ra một
thời đại mới cho nhân loại: thời đại cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân
tộc. Phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy: từ cách
mạng vơ sản ở các nước chính quốc (Anh, Pháp, Đức...) đến cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa (Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á, Mỹ Latinh…) Các
đảng cộng sản nối tiếp nhau ra đời (Pháp 1920, Trung Quốc 1921…). Đây là những cơ
sở thực tiễn ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh trên hành trình ra đi tìm
đường cứu nước giải phóng đân tộc của Người.
* Việt Nam từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 :
Những thay đổi của tình hình thế giới và tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ 2 của thực dân Pháp đã tạo ra những chuyển biến mới về kinh tế, xã hội văn hóa
giáo dục ở Việt Nam. Để vực lại nền kinh tế chính quốc sau khủng hoảng của cuộc
chiến tranh thứ nhất Pháp không những tiến hành khai thác tài ngun thiên nhiên mà
cịn bóc lột sức lao động của nhân dân ta một cách tàn bạo. Chúng thi hành nhiều
chính sách như nắm độc quyền về xuất khẩu bằng cách dựng lên hàng rào thuế quan,
nâng cao hạ tầng giao thơng vận tải, kiểm sốt và chi phối tài chính nước ta. Cơ cấu
Nhóm 5

7


kinh tế Việt Nam bị mất cân đối, xã hội cũng vì thế mà phân hóa ngày càng sâu sắc.
Bên cạnh những tầng lớp cũ xã hội Việt Nam xuất hiện thêm nhiều giai tầng mới đó là
giai cấp cơng nhân, tư sản và tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó mâu thuẫn trong lịng xã
hội Việt Nam ngày càng gay gắt: khơng chỉ có mâu thuẫn giữa nơng dân và địa chủ
phong kiến mà còn xuất hiện mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và tầng lớp
tư sản, to lớn hơn là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.

Cách mạng Việt Nam phải thực hiện: đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân
tộc và đánh đổ chủ nghĩa phong kiến, giành lại ruộng đất cho nông dân, song trước hết
phải đánh đuổi Thực dân Pháp và tay sai phản động để giành độc lập, tự do. Điều đó
chi phối mọi hoạt động của các phong trào yêu nước Việt Nam kể từ sau chiến tranh
Thế Giới thứ nhất. Rất nhiều phong trào và tổ chức yêu nước lần lượt được thành lập
trong khoảng thời gian này tiêu biểu như: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân
Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng. Tuy nhiên hoạt động của các tổ
chức riêng rẽ này vẫn còn nhiều sai lầm và thiếu sót. Nhân dân ta mặc dù rất yêu nước
song giai cấp tư sản Việt Nam còn rất non yếu nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và
người lãnh đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và phương pháp cách mạng
đúng đắn. Việt Nam chính thức rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Từ thực tiễn giấy lên một câu hỏi rằng: “Cứu nước theo con đường nào để có thể
đi đến thắng lợi”. Trong bối cảnh đó sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam như
một dấu hiệu cho sự ra đời của một thời đại mới. Phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam trong giai đoạn này là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin
thâm nhập vào nước ta và Hồ Chí Minh là người đã dày công truyền bá Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân của nước ta lúc bấy giờ.
Ngày 6-1-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức ra đời, là sự thống nhất của các
tổ chức cộng sản riêng rẽ và để dẫn dắt, đề ra đường lối, phương hướng đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của Việt Nam
và là tiền đề đánh dấu bước hình thành cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách
mạng Việt Nam.

Nhóm 5

8


1.2. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh:
Trong giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động

thực tiễn hết sức phong phú, sơi nổi trên địa bàn nước Pháp (1921-1923), Liên Xô
(1923-1924), Trung Quốc (1924-1927), Thái Lan (1928-1929). Trong khoảng thời
gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản.
-

Tại Pháp ( Từ cuối 1920 đến 1923) :
Tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã gặp nhiều người cách mạng châu Phi, châu Mỹ

Latinh. Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với họ thành lập Hội Liên hiệp
thuộc địa. Hội đã bầu Ban Thường vụ do Nguyễn Ái Quốc đứng đầu; thông qua Điều
lệ do Nguyễn Ái Quốc thảo với mục đích chính là “Bênh vực cho quyền lợi của tất cả
đồng bào ở các xứ thuộc địa”. Ngày 1-2-1922, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí
trong Hội Liên hiệp thuộc địa ra lời kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa đoàn kết
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, ủng hộ Hội Liên hiệp thuộc địa, đồn kết
với nhân dân “chính quốc”. Lời kêu gọi có đoạn: “Các bạn ở chính quốc! Các đồng
chí ở thuộc địa! Vì lợi ích của cơng lý, sự thật và tiến bộ, cần xóa bỏ mọi khoảng cách
giả tạo chia rẽ các bạn. Người cùng khổ là tờ báo đầu tiên có mục đích thực hiện
nhiệm vụ khơng dễ dàng đó. Để có thể thành cơng trong việc này, chúng tơi kêu gọi sự
tận tình của các đồng chí mà chúng tôi biết là luôn luôn vượt trên mọi thử thách. Hãy
gia nhập Hội Hợp tác “Người cùng khổ” của chúng tôi hoặc ngay từ hôm nay gửi
mua dài hạn báo Người cùng khổ của chúng tôi, hoặc tốt hơn, nếu có thể đồng chí
làm ln cả hai việc cùng một lúc. Thành công của chúng tôi tùy thuộc ở sự tận tình
của các đồng chí và tương lai các thuộc địa tùy thuộc ở sự thành cơng đó…”
Tháng 4/1922, Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã ra được số báo
“Người cùng khổ” đầu tiên. Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách chính trong việc xuất
bản báo “Người cùng khổ” , từ việc tổ chức ban biên tập, tòa soạn, viết bài, sửa chữa,
đi in, đem báo về tòa soạn, cho đến việc gửi báo đi các thuộc địa. Trong số đầu tiên
báo có lời chào mừng như sau: “Trong lịch sử của quần chúng bản xứ các thuộc địa
Pháp chưa có một tờ báo nào lập ra để kêu to sự thống khổ và sự nghèo nàn chung
của họ, không phân biệt xứ sở và chủng tộc. Báo Người cùng khổ ra đời do sự thông

cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Ma-đaNhóm 5

9


gát-xca, ở Đông Dương, Ăng-ti và Guy-am”. Báo “Người cùng khổ” đã thật sự trở
thành vũ khí chiến đấu, là diễn đàn để Nguyễn Ái Quốc và Hội Liên hiệp thuộc địa
tuyên truyền tư tưởng giải phóng các nước thuộc địa. Việc xuất bản báo “Người cùng
khổ” là một vố đánh vào bọn thực dân ở các nước thuộc địa, nhất là ở Đông Dương.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc tạm biệt Pari, tạm biệt nước Pháp, để lại hình ảnh
đẹp về một chiến sỹ quốc tế nhiệt thành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con
người, thực hiện những lý tưởng cao đẹp của đại cách mạng Pháp: Lý tưởng Tự do Bình đẳng - Bác ái.
 Với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria),
Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã thổi một luồng gió mới đến nhân
dân các nước bị áp bức, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa
đế quốc.
-

Tại Liên Xô (Từ 1923 đến 1924):

Ngày 30/6/1923, Người đến Pêtơrôgrát, quê hương của Cách mạng Tháng Mười và
ít ngày sau Người lên xe lửa đi Mátxcơva. Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người Việt
Nam đầu tiên có mặt trên đất nước của Lênin - nơi nhân dân Liên Xô đã được tự do và
đang xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, bình đẳng. Trên đất nước của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động, học tập để hướng tới con đường giải phóng dân
tộc và góp phần phát triển tư tưởng độc lập tự do cho các dân tộc bị áp bức trên thế
giới.
Thời gian hoạt động ở Mátxcơva cũng là thời gian Nguyễn Ái Quốc tham dự nhiều
hội nghị quốc tế lớn. Người đã tham gia Đại hội I Quốc tế Nông dân (từ 12 đến
15/10/1923), Đại hội V Quốc tế cộng sản (từ 17/6 đến 8/7/1924), Đại hội III Quốc tế

công hội đỏ, Đại hội IV quốc tế thanh niên… Tại các diễn đàn của các đại hội đó,
Người đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa bảo vệ những luận điểm đúng đắn
của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách
mạng của mình trên lập trường mácxít. Những lời phát biểu của Người đã để lại
Nhóm 5

1
0


những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng các đại biểu, đặc biệt là những đại biểu từ các nước
thuộc địa và phụ thuộc Á, Phi, Mỹ Latinh. Qua đó, đặt nền móng cho sự liên minh,
tình đồn kết vơ sản quốc tế giữa nhân dân Việt Nam và những người lao động thế
giới.

Cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia lớp học ngắn hạn của trường Đại
học Phương Đông. Được học ở ngôi trường này, Người đã nhận thức rõ hơn về tầm
quan trọng của việc đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ của phong trào cách
mạng Việt Nam. Học xong lớp ngắn hạn tại Đại học Phương Đông, trong khi chờ đợi
Đại hội V Quốc tế Cộng sản khai mạc và chờ lên đường về châu Á, Nguyễn Ái Quốc
được nhận vào làm cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản (theo giấy xác
nhận do Pêtơrốp ký ngày 14/4/1924).
Tại Phiên họp lần thứ 22 Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, ngày 1/7/1924, với
tư cách là một đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp, và nhân danh một người dân thuộc
địa, Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê bình cả Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản
Anh và đảng cộng sản một số nước chưa quan tâm đến cách mạng ở các thuộc địa: “sẽ
khơng phải là q đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng Pháp và Đảng Anh chúng ta
chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề
cập đến quần chúng các nước thuộc địa, thì tồn bộ chương trình rộng lớn của hai
đảng đó vẫn khơng có hiệu quả gì. Chương trình ấy sẽ khơng có hiệu quả gì vì nó trái

với chủ nghĩa Lênin”
=> Mặc dù thời gian lưu lại không lâu (16 tháng) nhưng thời gian hoạt động ở
Matxcơva có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khơng chỉ đối với cuộc đời hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc mà cả đối với phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Việc học tập trên đất nước của Lênin-nơi đã vun đắp cho Nguyễn Ái Quốc thực tiễn
về chính trị, kinh tế, văn hóa phong phú và bổ ích; đối chiếu, so sánh những kiến thức
thu nhận được với thực tế mà Người đã trải qua, đã thu lượm được từ các thuộc địa để
từ đó nâng cao nhận thức sâu sắc về lý luận Mác-Lênin, có thêm những kinh nghiệm
Nhóm 5

1
1


hoạt động cách mạng, trau dồi phẩm chất, đạo đức uy tín của người cách mạng. Người
đã nhận thức và lý giải sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đang đặt ra cho
cách mạng vô sản thế giới cũng như cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc
địa, từ đó Người đã hồn thiện thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng của mình
và phác thảo được những nét lớn về chiến lược cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam
=> Những gì thu thập được ở Liên Xơ những năm 1923 - 1924 là tiền đề quan
trọng để có bước đi quan trọng tiếp theo của Nguyễn Ái Quốc trên hành trình cứu
nước của mình.
-

Tại Trung Quốc ( Từ cuối 1924 – 1927)

Sau những hoạt động cách mạng sôi nổi tại nước Nga Xô viết, tháng 11-1924,
Nguyễn Ái Quốc đã tới Quảng Châu (Trung Quốc). Tại Quảng Châu Hồ Chí Minh
sáng lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” vào tháng 6 năm 1925, tổ chức sau

này trở thành tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi thành lập Hội, Nguyễn Ái Quốc đã cho xuất bản tờ báo Thanh Niên được
viết bằng tiếng Việt làm cơ quan ngôn luận của Hội tại ngôi nhà số 13 (nay là số 248 250) đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc để giữ vai trò tổ chức và hướng dẫn
phong trào cách mạng trong nước. Báo Thanh Niên đã thể hiện được nhiều nội dung
phong phú, sâu sắc với nhiều thể loại như xã luận, bình luận, lịch sử Việt Nam, lịch sử
thế giới và nhiều tin tức thời sự quan trọng. Thơng qua đó để phát động lịng u
nước, căm thù giặc, giáo dục, bồi dưỡng ý chí quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược,
giành độc lập tự do cho đất nước. Nêu lên chân lý :Muốn giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp thì phải làm cách mạng, báo Thanh Niên số 2 ngày 28/6/1925 viết:
“Cách mệnh là sự biến đổi xấu thành tốt, đó là căn nguyên của mọi hoạt động, nhờ
đó mà một dân tộc bị áp bức được giải phóng, trở nên giàu mạnh. Lịch sử các nước
đã dạy chúng ta rằng chỉ bằng con đường cách mệnh thì mới có thể tiến tới hình
thành được một chính thể có nền giáo dục, cơng nghiệp, tổ chức phục vụ xã hội tốt
đẹp hơn”.
Nhóm 5

1
2


Từ năm 1925 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc mở nhiều khóa học, đào tạo được nhiều
thanh niên yêu nước có học vấn từ trong nước sang làm lực lượng nòng cốt cho công
tác tổ chức và tuyên truyền cách mạng. Những bài giảng của Người sau đó được hợp
thành cuốn Đường Kách Mệnh xuất bản năm 1927 ở Quảng Châu, Trung Quốc. Tác
phẩm này là sự chuẩn bị mọi mặt về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
-

Tại Xiêm ( Thái Lan) Từ 1928-1929 :


Tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm hoạt động, với mục đích "đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"
Trong thời gian hoạt động ở Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tuyên truyền,
vận động, gây dựng cơ sở cách mạng và gây ảnh hưởng về trong nước. Tại đây, Người
đã mở các lớp huấn luyện ngắn hạn cho các hội viên chi bộ Việt Nam Cách mạng
Thanh niên; chọn dịch một số sách sang tiếng Việt; chỉ đạo xuất bản báo để tuyên
truyền, giáo dục, cổ vũ tinh thần yêu nước của Việt kiều; chỉ đạo mở trường dạy học
cho con em Việt kiều, v.v..
=> Với sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, phong trào yêu nước của Việt
kiều ở Thái Lan có nhiều chuyển biến mới, tích cực: Các tổ chức cách mạng được
củng cố và phát triển; tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước được tăng cường; trình độ
của cán bộ và bà con Việt Kiều được nâng lên...
-

Năm 1930 :

Từ ngày 6/l đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội
nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam;
thông ; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng.Các văn kiện này là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chính thức khẳng định rõ những quan điểm cơ bản về đường lối,
phương pháp cách mạng Việt Nam.
Nhóm 5

1
3


=> Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng

tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt
Nam kèo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930.
II. Hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930:

Các tác phẩm lý luận của Hồ Chí Minh:
Suốt cuộc hành trình ra đi tìm đường cứu nước đầy gian nan, khổ cực kéo dài 30
năm Hồ Chí Minh đã sống ở nhiều nước: từ những nước thuộc địa bị áp bức, bóc lột
khủng khiếp; cho đến những nước tư bản hùng mạnh hay đến chính đất nước của kẻ
thù đang trực tiếp xâm chiếm nước nhà,...tất cả những điều trải qua khiến Người nhận
thức sâu sắc về đời sống, nguyện vọng và khát khao của nhân dân lao động trên toàn
thế giới. Trong suốt quãng thời gian dài đằng đẵng của cuộc hành trình, ta khơng thể
khơng kể đến giai đoạn từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930, đáng được ghi nhận là
một trong những giai đoạn quan trọng bậc nhất trong quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh với sự hình thành về cách mạng giải phóng dân tộc, về
đảng cộng sản, về mối quan hệ giữa cách mạngthuộc địa và cách mạng quốc tế…
Những nội dung tư tưởng hình thành trong giai đoạn này được thể hiện bằng những
hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh và chủ yếu được Người thể hiện qua các tác
phẩm: Đông Dương (1921), Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường kách mệnh
(1927), và các tác phẩm tập hợp trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(1930).
- Đông dương (1921):

Thời gian Nguyễn Ái Quốc hoạt động trên đất Pháp trong những năm 1921-1923,
đây là thời kì đi tìm con đường và hoạt động truyền bá tư tưởng cứu nước. Để truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam, những năm tháng ở Pháp, Người đã viết tác
phẩm tiêu biểu là Đông Dương đăng tên Tạp chí Cộng sản số 14 và số 15 năm 1921
(Được xem là mốc mở đầu cho quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt
Nam của Người). Trong bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày những điều kiện thuận
lợi của châu Á nói chung và Đơng Dương nói riêng cho việc truyền bá tư tưởng xã hội
chủ nghĩa. Kết thúc bài báo, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Đằng sau sự phục tùng tiêu

cực, người Đơng Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
Nhóm 5

1
4


một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy thời cơ
đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội
chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thơi” . Trên
nền tảng đó, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành những cuộc vận động trong đội ngũ những
người cộng sản Pháp và những nhà yêu nước của các dân tộc thuộc địa sống ở Paris
ủng hộ phương hướng hoạt động của mình, và đã được mọi người tạo điều kiện cho
Người triển khai hoạt động theo hướng đó.
- Bản án chế độ thực dân Pháp (1925):

Nếu như thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã dồn tồn bộ sức lực và trí tuệ để
khai mở con đường đưa tư tưởng cách mạng theo quan điểm Mác – Lênin về nước mà
trọng tâm là thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân thì những năm tháng ở
Mátxcơva là định hướng cho cuộc vùng dậy noi gương Cách mạng Tháng Mười Nga,
Người tiến hành phác thảo những nét lớn về chiến lược cho cách mạng Việt Nam.
Thời kì này, Nguyễn Ái Quốc sử dụng nhiều phương tiện thơng tin khác nhau như báo
chí, truyền đơn, sách báo, diễn đàn, đặc biệt Người đã hoàn thành cuốn “Bản án chế
độ thực dân Pháp” bằng tiếng Pháp và tác phẩm được gửi về in tại Pháp năm 1925.
Cuốn sách đã thu thập những tài liệu người thực, việc thực xảy ra ở các thuộc địa của
Pháp nhằm vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với người dân thuộc địa. Tác
phẩm là lời tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính
quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa;
các thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ" v.v..... Cuối sách là phần
Phụ lục: Gửi thanh niên Việt Nam. Bức thư đã cảnh tỉnh thanh niên Việt Nam đang an

phận làm nô lệ. Bức thư nêu gương thanh niên một số nước đang đấu tranh cho nền
độc lập ngày mai của họ. Kết luận, bức thư viết: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại!
Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”.
- Đường kách mệnh (1927):

Năm 1927, “Đường Kách mệnh” - cuốn sách tập hợp các bài giảng Hồ Chí Minh
dùng để đào tạo những cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam những năm 1925Nhóm 5

1
5


1927 ở Quảng Châu (Trung Quốc) mà thực chất là tạo ra những phương tiện tuyên
truyền sống lần đầu tiên được xuất bản. Đây được coi là văn kiện lý luận chính trị
đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Cuốn sách
xác định chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng. Đó phải là những người có
nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh thì mới tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới làm
trịn nhiệm vụ cách mạng khó khăn. Từ việc giới thiệu, phân tích tính chất các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới: Cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789, cách
mạng Nga 1917, đối chiếu với nhu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam: Độc lập
cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Bác đã định hướng cho cách mạng Việt
Nam là đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, tức là theo con đường cách
mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Về lực lượng
cách mạng: cơng nơng là người chủ. Học trị, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn
cách mệnh của công nông. Những chỉ dẫn cơ bản này là nền tảng lý luận hình thành
khối liên minh cơng nơng và Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam. Về đồn kết quốc tế: cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các
lực lượng cách mạng thế giới, phải đứng hẳn về phía phong trào cơng nhân và phong
trào giải phóng dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới; xác
định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm,

sự thống nhất của quan hệ này; xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách
mạng chính quốc là tác động qua lại. Cách mạng thuộc địa khơng thụ động ngồi chờ
cách mạng chính quốc. Về phương pháp cách mạng, Người khẳng định phương pháp
cách mạng giữ vai trị hết sức quan trọng. Đó là phải làm cho dân giác ngộ; phải giảng
giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu; phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách
lược cho dân; phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc của một hai người”; phải biết tổ chức dân chúng lại; phải giành chính
quyền bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ. Về Đảng lãnh
đạo, khẳng định Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thành công của cách
mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”. Để lãnh đạo cách mạng Đảng phải theo chủ nghĩa Mác Lênin.

Nhóm 5

1
6


Bên cạch một số tác phẩm tiêu biểu đã nêu ở trên thì Bác cịn viết rất nhiều các bài
báo khác nhằm mục đích tố cáo tội ác của tư bản và tuyên truyền về con đường cách
mạng đúng đắn. Ví dụ như thời gian ở Trung Quốc, ngày 21/6/1925, Báo

“Thanh Niên”, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo ra số
đầu tiên. Báo “Thanh Niên” là tờ báo đầu tiên trong lịch sử báo chí
vơ sản nước ta góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt
Nam vào đầu năm 1930. Hay thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ
viết bài cho các báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière),

Sự thật (Pravda), Người cùng khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế (Inprékor), Tạp chí
Cộng sản vv.v.. Các bài báo tập trung nói về các vấn đề liên quan đến giai cấp công
nhân, đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các thuộc địa, mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930 (tức ngày 6 tháng Riêng năm 1930 ) tại Cửu Long thuộc
Hương Cảng, Người thống nhất hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam; Thông qua: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và
Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
=> Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng
tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp
và thấm nhuần tinh thần dân tộc. Sự ra đời của Cương lĩnh đã xác định rõ về đường
lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau
khi thành lập Đảng. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất
để giành chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Nhóm 5

1
7


III. Giai đoạn từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 là giai đoạn hình thành cơ

bản Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường Cách mạng Việt Nam:
Với 10 năm hoạt động sôi nổi, từ 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào giải phóng dân tộc trong nước và sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng chí,
bạn bè, Người đã nhận thức và hiểu được các quy luật vận động và phát triển của

phong trào cách mạng trong nước và thế giới, từ đó Người tiếp cận với chủ nghĩa
Mác-Lênin, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam. Người đi từ yêu nước chân chính
đến người cộng sản. Trong q trình ấy, các tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam
của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển.
Người tích cực sử dụng báo chí Pháp để lên án, tố cáo chủ nghĩa thực dân, thức
tỉnh lương tri nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ, khơi dậy lòng yêu nước của nhân
dân các dân tộc thuộc địa và của dân tộc Việt Nam, đề cập đến mối quan hệ mật thiết
giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc. Khẳng định cách mạng
giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Các tác phẩm của Hồ Chí Minh như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925),
“Đường kách mệnh” (1927), “Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” (Chánh cương vắn tắt),
“Sách lược vắn tắt”, “Chương trình tóm tắt” (1930) và nhiều bài viết khác của Người
trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng, cách mạng về giải
phóng dân tộc. Những tác phẩm có tính chất lý luận nói trên chứa đựng những tư
tưởng lớn được hình thành trong giai đoạn này của Người như là:
-

Mục tiêu và con đường cách mạng là “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới Xã hội cộng sản” (sau này gọi là Cách mạng Dân tộc Dân
chủ và Cách mạng Xã hội chủ nghĩa).
Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng khơng ngừng đã được thể hiện trong
cương lĩnh đầu tiên của đảng, cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến lên
Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới khác với những chủ
trương những con đường cứu nước của những nhà yêu nước đương thời đã đi vào bê
Nhóm 5

1
8



tắc và thất bại. Đó là mục tiêu và con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn mục tiêu và con đường này khi trở thành người Cộng
sản cuối năm 1920. Đến hội nghị ngày 3/2/1920, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa vào
Cương lĩnh chính trị đầu tiên chiến lược “Làm tư sản dân quyền Cách mạng và thổ
địa Cách mạng để đi tới Xã hội Cộng sản”.
Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với một xuất phát
điểm duy nhất là lòng u nước thương nịi. Người muốn ra nước ngồi, “Xem nước
Pháp và các nước khác làm thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình”. Năm 1919, Người
gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đó là tổ chức duy nhất bênh vực quyền lợi của các
thuộc địa mà chưa hề có nhận thức rõ ràng về chủ nghĩa Mác-Lênin, về Chủ nghĩa xã
hội. Đó cũng là cơ sở cho quyết định lịch sử của Hồ Chí Minh 5 tháng sau đó, tháng
12 năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp tại tua, Người đã bỏ phiếu tán thành
gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người trở
thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với
Chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học
thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa MácLênin”. Người viết: “Muốn giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác là con
đường Cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”. Từ đó, Hồ Chí Minh ra sức tun truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước,
thành lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thành công.
-

Đối tượng của cách mạng: “đánh đuổi đế quốc pháp, phong kiến An Nam và giai
cấp tư sản phản cách mạng”. Cách mạng Giải phóng Dân tộc và Cách mạng Vơ
sản có quan hệ khăng khít
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (đầu năm 1930) đề ra nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng là: “Đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách
mạng”. Nhiệm vụ này được đề ra xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc và đồng thời mâu thuẫn cơ bản nhất là: nhân dân ta với thực
dân Pháp. Cương lĩnh đã vạch ra vì đế quốc Pháp dùng bọn phong kiến Việt Nam, bọn

Nhóm 5

1
9


đại tư sản phản cách mạng và bọn địa chủ để áp bức bóc lột nhân dân Việt Nam. Và
trong bài báo “Người cùng khổ” bằng ngòi bút sắc bén, Hồ Chí Minh đã vẽ lên một
bức tranh tồn cảnh về chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương: “Chủ
nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương... Chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột
một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... Nhà từ nhiều
hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người... Ở Đơng Dương, bọn thực
dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần
độn bằng rượu”. Chính vì thế Người đã xác định đối tượng cách mạng, để giành thắng
lợi từng bước, trước hết đảng phải tập trung lực lượng cách mạng đánh đổ kẻ thù chủ
yếu là đế quốc và bọn tay sai của chúng và sau đó đánh đổ tồn bộ giai cấp địa chủ
phong kiến.
Ngồi ra cịn tư tưởng nữa của Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa và Cách mạng vơ sản ở chính quốc có mối liên hệ khăng khít và mật thiết
với nhau, có tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối liên hệ bình đẳng chứ khơng phải mối liên hệ phụ thuộc
hoặc quan hệ chính – phụ. Năm 1925, trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
có viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính
quốc và một vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu người ta muốn giết
con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi
thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn sẽ tiếp tục sống
và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và
giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản chính quốc”. Ở đây, Hồ Chí Minh muốn nhấn
mạnh vai trị tích cực, chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải
phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của Chủ nghĩa thực dân.

Hồ Chí Minh cịn ví chủ nghĩa tư bản như một con rắn độc, trong đó nọc độc và
sức sống của nó tập trung ở các thuộc địa nhiều hơn là ở chính quốc. Hồ Chí Minh
cho rằng, những người khinh thường cách mạng thuộc địa, đề cao cách mạng chính
quốc là những người “muốn đánh chết rắn đằng đuôi”. Một bước tiến mới, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa Cách mạng chính quốc và Cách
Nhóm 5

2
0


mạng thuộc địa đã được thể hiện trong tác phẩm “Đường kách mệnh”. Trong tác phẩm
này, bên cạnh luận điểm “Nếu cơng nơng Pháp cách mệnh thành cơng thì dân tộc An
Nam sẽ được tự do”, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: “An Nam dân tộc cách mệnh thành
cơng thì tư sản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì cơng nông pháp làm giai cấp cách
mệnh cũng dễ”. Như vậy, từ những nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân và phong trào
đấu tranh ở thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự đốn mang tính then chốt: cách
mạng thuộc địa có thể thành cơng trước Cách mạng chính quốc, Cách mạng Việt Nam
có thể thành cơng trước Cách mạng Pháp.
-

Cách mạng thuộc địa trước hết là 1 cuộc “Dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi giặc
ngoại xâm, giành độc lập tự do
Đây là một cách nhìn nhận, đánh giá hết sức đúng đắn của Hồ Chí Minh. Người đã
nhìn ra mâu thuẫn cơ bản của một xã hội thuộc địa, đó là mâu thuẫn dân tộc. Trong tác
phẩm “Đường kách mệnh”, trước những biến đổi hết sức phức tạp của lịch sử thế giới,
Hồ Chí Minh đã lựa chọn, phân tích và nêu lên một số cuộc cách mạng tiêu biểu cho
ba loại hình tư bản cách mạng, dân tộc cách mạng và giai cấp cách mạng. Nắm vững
quan điểm đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp,
Người đã tìm hiểu cội nguồn của những cuộc cách mạng đó từ những mâu thuẫn kinh

tế, xã hội, nêu bật sự đối kháng giai cấp và mục tiêu cách mạng phải giải quyết. Người
chỉ rõ: “Địa chủ hết sức ngăn trở tư bản mới, tư bản mới hết sức phá địa chủ, hai bên
xung đột nhau làm thành ra tư bản cách mệnh”; “Bọn cường quyền này bắt dân tộc
kia làm nô lệ… đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại,
biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp
bức mình đi; ấy là dân tộc cách mệnh” và “Bông nông không chịu nổi, đoàn kết nhau
đánh đuổi tư bản đi… ấy là giai cấp cách mệnh”.
Dưới ngịi bút sắc sảo, ngơn từ giản dị, dễ hiểu Người đã phân tích lịch sử các nước
Mỹ, Pháp, đối chiếu thực tiễn các nước này với cuộc sống của các giai cấp, dân tộc
thuộc các màu da khác nhau, Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là Cộng hịa và
Dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Như
vậy, điều quan tâm là bản chất của cuộc cách mạng phải thực sự đem lại sự giải phóng
Nhóm 5

2
1


cho quần chúng bị áp bức. Không chấp nhận một cuộc cách mạng mà chỉ có những
khẩu hiệu giả dối, còn trên thực tế là sự thay thế một phương thức bóc lột này bằng
một phương thức bóc lột khác, tiếp tục đẩy con người vào tình cảnh tha hóa, đau khổ.
Người viết: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Khát vọng lớn lao nhất của người dân là được độc lập, tự do. Vì thế, trước hết phải
thực hiện cuộc dân tộc cách mệnh để đánh đuổi ngoại xâm, thành lập chính quyền do
nhân dân làm chủ. Đó là tiền đề, cũng là điều kiện tiên quyết để tiến hành đấu tranh
giai cấp, xây dựng kinh tế xã hội...theo Người: “Như An Nam đuổi Pháp... Để giành
lấy quyền tự do, bình đẳng của dân nước mình, ấy là dân tộc cách mệnh” hay “an nam

dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản pháp yếu, tư bản pháp yếu thì cơng nơng
pháp làm cách mệnh giai cấp cũng dễ. Và nếu cơng nơng pháp cách mệnh thành cơng,
thì dân tộc an nam sẽ được tự do”. (tác phẩm “Đường kách mệnh” được xuất bản năm
1927). Mối quan hệ đó chính là hai cánh của con chim cách mạng bay cao và bay xa.
-

Lực lượng lãnh đạo: cách mạng muốn thành công phải do đảng lãnh đạo. Nền
tảng tư tưởng của đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đến thắng lợi. Người viết: “ Lực
lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vơ tận.
Nhưng lực lượng ấy cần có đảng lãnh đạo mới chắc thắng lợi.” Trong “Đường kách
mệnh”, Người viết: “ Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngồi thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng,
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Hồ Chí Minh cho rằng: “
Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình
hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất
gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức
rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy phải có đảng tổ chức và giáo dục nhân
dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách
mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.

Nhóm 5

2
2


Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước. Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”, phải dựa vào lí
luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ
cách mạng năm 1925-1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có kim chỉ nam.”
Và Người khẳng định “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh ln ln coi trọng chủ nghĩa MácLênin, chính chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc cơ bản nhất hình thành tư tưởng của
Người. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin thực sự là “mặt trời soi sáng” cho
con đường Cách mạng Việt Nam, là cái cẩm nang thần kì để giải quyết các cơng việc
cho đúng đắn… Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác-Lênin như trí khơn của con người,
như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi là nói lên vai trị cực kỳ quan trọng của lý
luận ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa Mác-Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng.
-

Lực lượng tham gia của cách mạng giải phóng dân tộc là tồn thể dân tộc, trong
đó phải xây dựng khối liên minh cơng nơng là lực lượng nịng cốt
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết tồn
dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được
liên minh cơng nơng vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách
mạng”
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, Hồ Chí Minh đã nêu lên vai trị của nhân dân trong quá trình cách
mạng. Theo Người “Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người”, vì vậy phải làm cho dân giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo quần chúng
vùng lên “đánh đuổi tụi áp bức mình đi”. Người phê phán hành động ám sát cá nhân
và những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa chỉ “xúi dân bạo động mà không biết cách
tổ chức”. Trên cơ sở phân tích thái độ giai cấp đối với cách mạng giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh đã làm rõ sức mạnh to lớn của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và

Nhóm 5

2
3


khối liên minh cơng - nơng. Trong đó, nơng dân đóng vai trị rất quan trọng “Pa-ri
Cơng xã vì tổ chức khơng khéo và vì khơng liên lạc với dân cày, đến nỗi thất bại” và
cách mạng năm 1905 của Nga thất bại cũng là do chưa biết liên lạc với dân cày, “Thợ
thuyền với dân cày khơng nhất trí. Khi thợ thuyền nổi lên thì dân cày chưa theo ngay”.
Chỉ khi hai giai cấp được thống nhất về chiến lược và chiến thuật như đã từng diễn ra
ở Nga năm 1917, cách mạng mới có thể thành cơng. Người khẳng định “công nông là
người chủ cách mệnh”, “là gốc cách mệnh” vì “cơng nơng bị áp bức nặng hơn”,
“cơng nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết”, “cơng nơng là tay khơng chân
rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới” cịn “học
trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng
công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Người kết luận
“Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất
trí chống lại cường quyền”. Như vậy, lực lượng của cách mạng là toàn dân tộc đoàn
kết trong một mặt trận chung thống nhất để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc,
đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động. Cách mạng muốn
thành công cần phải biết cách làm, phải có phương pháp. Theo Hồ Chí Minh, chính là
phương pháp vận động quần chúng, phương pháp tổ chức đấu tranh, cách thức xây
dựng các tổ chức quần chúng... Muốn tập hợp lực lượng của toàn dân tộc trong cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, thì khơng thể khơng tổ chức và phát huy vai trị của
các tổ chức cơng hội, dân cày, hợp tác xã... Bởi lẽ, nếu không tập hợp, huy động được
nguồn sức mạnh vô địch của quần chúng thì đội tiên phong của cách mạng sẽ không
thể lãnh đạo cách mạng đến thành công.
-


Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định cách
mạng việt nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, đặt cách mạng việt nam trong
quỹ đạo của cách mạng vơ sản, coi đồn kết quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng của
cách mạng Việt Nam. Xác định rõ mục tiêu của Đảng là “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới Xã hội Cộng sản”, phù hợp với mục tiêu của
phong trào cộng sản quốc tế. Người đề cao nhiệm vụ đồn kết quốc tế, tích cực ủng hộ

Nhóm 5

2
4


cách mạng thế giới, liên xô và phong trào đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, chống chiến tranh của nhân dân thế giới.
Tư tưởng đó Người cịn thể hiện trong “Đường kách mệnh”, Người khơng nhìn
nhận cách mạng Việt Nam một cách biệt lập mà đặt nó trong thể thống nhất biện
chứng với cách mạng thế giới. Nhờ việc phân tích sâu sắc thực tiễn của các dân tộc
thuộc địa, nhận thấy vai trị, vị trí chiến lược của các thuộc địa đối với các nước chính
quốc, người cho rằng: “An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu,
tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công
nông Pháp cách mệnh thành cơng, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”. Nhận định trên
của Người không phải một cách võ đốn mà có căn cứ khoa học, có cả sự trăn trở, một
sự hiểu biết sâu sắc đất nước, con người, lịch sử của nhân dân các nước thuộc địa.
Thơng qua việc trình bày lịch sử, phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa đệ nhất
quốc tế, đệ nhị quốc tế với đệ tam quốc tế thực hiện khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới liên hợp lại!”, “Đường kách mệnh” chỉ rõ mối
quan hệ mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, vấn đề đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Hồ Chí

Minh nâng tầm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bằng quan điểm chủ nghĩa u
nước chân chính khơng thể tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản và khẳng định: “Chúng
ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để
chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.

Nhóm 5

2
5


×