Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

(Thảo luận Kinh tế du lịch) Phân tích đặc điểm các nhân tố ảnh hưởng tới cung dịch vụ lưu trú khách sạn tại Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.77 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ DU LỊCH
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CUNG LĨNH VỰC LƯU TRÚ KHÁCH
SẠN TẠI QUẢNG NINH
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Dương Thị Hồng Nhung
Lớp HP: 2109TEMG2711
Nhóm thực hiện: 03

HÀ NỘI 2021


BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
STT

Họ và tên

Công việc

1

Nguyễn Thị Ngân Hà

Phần 2.2

2


Nguyễn Thị Thu Hà

Thuyết trình,
chương 1,
2.1, chương 3

Nhóm
trưởng

Thư ký

3

Từ Văn Hải

Sửa word,
Powerpoint

4

Nguyễn Anh Hào

2.4.1 Thành
tựu

5

Tạ Quang Hậu

6


Nguyễn Thị Hiền

Tự
đánh
giá

Kết
luận

Ghi chú

2.4.2 Hạn
chế
Mở đầu + kết
luận, phần
2.3

Nhóm trưởng

Thư ký

LỜI MỞ ĐẦU


Du lịch là ngành cơng nghiệp khơng khói, là một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế xã hội, trong nhiều thập kỉ qua, du lịch đã có sự tăng trưởng và đa dạng hóa
mạnh mẽ để trở thành một trong những khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.
Đến nay, du lịch khơng cịn là một hiện tượng riêng lẻ, đặc quyền của cá nhân hay một
nhóm người nào đó mà du lịch đã thực sự trở thành một nhu cầu xã hội phổ biến đáp

ứng mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người. Du
lịch cũng là ngành kinh tế đóng góp phần lớn giá trị vào tổng sản phẩm quốc nội GDP,
làm thay đổi thu nhập quốc dân và phân phối thu nhập quốc dân. Du lịch mang lại lợi
ích kinh tế cao, cân bằng thu nhập giữa các vùng miền lãnh thổ. Đặc biệt các quốc gia
đang trong quá trình hội nhập và phát triển như Việt Nam thì việc đẩy mạnh phát triển
du lịch là vấn đề cần được quan tâm sâu sắc và đẩy mạnh phát triển hơn nữa. Việt Nam
có vị trí rất thuận lợi để thu hút khách du lịch với nguồn tài ngun phong phú, đa
dạng cùng với đó là chính sách mở cửa du lịch, hoạt động kinh doanh lưu trú diễn ra
cũng rất sơi động với nhiều hình thức đa dạng, ngày càng khẳng định được vai trò
năng động, hiệu quả, nhạy bén trong kinh doanh. Quảng Ninh được ví như một Việt
Nam thu nhỏ, vì có cả biển, đảo, đồng bằng, trung du, đồi núi, biên giới, sân bay. Với
tiềm năng về du lịch của mình Quảng Ninh đã tập trung vào các sản phẩm du lịch để
phát triển kinh tế. Trong đó lĩnh vực lưu trú tại Quảng Ninh phát triển mạnh mẽ với
nhiều loại hình đa dạng, đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Để nghiên cứu rõ hơn về
thị trường lưu trú tại Quảng Ninh thì nhóm 3 quyết định chọn đề tài “Phân tích đặc
điểm các nhân tố ảnh hưởng tới cung dịch vụ lưu trú khách sạn tại Quảng Ninh” để có
cái nhìn tổng quát về các nhân tố ảnh hưởng đến cung khách sạn từ đó có những giải
pháp nâng cao cung dịch vụ lưu trú khách sạn.

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CUNG DỊCH VỤ LƯU TRÚ


1.1 Khái niệm và bản chất cung dịch vụ lưu trú:
1.1.1 Khái niệm cung dịch vụ lưu trú

Cung dịch vụ lưu trú là lượng sản phẩm dịch vụ mà người bán là các tổ chức và cá
nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau
cho khách du lịch trong một khoảng thời gian và không gian nhất định.
1.1.2 Bản chất cung dịch vụ lưu trú
Cung dịch vụ lưu trú là một bộ phận của cung du lịch và được hình thành chủ yếu từ 3

yếu tố:
-Dịch vụ lưu trú:
Dịch vụ lưu trú là hình thức hoạt động kinh doanh cung cấp các cơ sở lưu trú ngắn hạn
cho những người có nhu cầu đi cơng tác, du lịch….ngắn ngày. Ngồi ra, kinh doanh
dịch vụ lưu trú cịn bao gồm cả các loại hình dài hạn dành cho cơng nhân, sinh viên,…
Ngồi cung cấp dịch vụ lưu trú thì một số cơ sở hiện nay còn cung cấp thêm các dịch
vụ khác như giải trí, ăn uống, chăm sóc sức khỏe …
-Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật: là hệ thống trang thiết bị, hạ tầng… đáp ứng đủ yêu
cầu để phục vụ hoạt động lưu trú của khách du lịch.
Một số điều kiện về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị tại các loại hình lưu trú cụ thể như:
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với khách sạn
Có hệ thống điện, hệ thống cấp nước sạch và thốt nước.
Có tối thiểu 10 buồng ngủ; có quầy lễ tân, phịng vệ sinh chung.
Có nơi để xe cho khách đối với khách sạn nghỉ dưỡng và khách sạn bên đường.
Có bếp, phòng ăn và dịch vụ phục vụ ăn uống đối với khách sạn nghỉ dưỡng, khách
sạn nổi, khách sạn bên đường.
Có giường, đệm, chăn, gối, khăn mặt, khăn tắm; thay bọc đệm, bọc chăn, bọc gối,
khăn mặt, khăn tắm khi có khách mới.
Có nhân viên trực 24 giờ mỗi ngày.
Người quản lý, nhân viên được tập huấn về nghiệp vụ du lịch.
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với biệt thự du lịch
Có hệ thống điện, hệ thống cấp nước sạch và thoát nước.


Có giường, đệm, chăn, gối, khăn mặt, khăn tắm; thay bọc đệm, bọc chăn, bọc gối,
khăn mặt, khăn tắm khi có khách mới.
Có nhân viên trực 24 giờ mỗi ngày.
Có khu vực tiếp khách, phòng ngủ, bếp và phòng tắm, phòng vệ sinh.
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với căn hộ du lịch
Có hệ thống điện, hệ thống cấp nước sạch và thốt nước

Có giường, đệm, chăn, gối, khăn mặt, khăn tắm; thay bọc đệm, bọc chăn, bọc gối,
khăn mặt, khăn tắm khi có khách mới.
Có khu vực tiếp khách, phịng ngủ, bếp và phòng tắm, phòng vệ sinh.
Người quản lý căn hộ được tập huấn về nghiệp vụ du lịch.
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với tàu thủy lưu trú du lịch
Tàu trong tình trạng tốt, cịn hạn đăng kiểm; có áo phao, phao cứu sinh, phương tiện
thông tin liên lạc, tủ thuốc cấp cứu ban đầu.
Có điện, nước sạch; có thiết bị thu gom rác thải, nước thải bảo đảm vệ sinh mơi
trường.
Có khu vực đón tiếp khách, phịng ngủ (cabin), phịng tắm, phòng vệ sinh, bếp, phòng
ăn và dịch vụ phục vụ ăn uống.
Có giường, đệm, chăn, gối, khăn mặt, khăn tắm; thay bọc đệm, bọc chăn, bọc gối,
khăn mặt, khăn tắm khi có khách mới.
Người quản lý, nhân viên được tập huấn về nghiệp vụ du lịch.
Người quản lý, nhân viên phục vụ được tập huấn về nghiệp vụ du lịch, kỹ năng cứu hộ
trên sông, biển.
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với nhà nghỉ du lịch
Có điện, nước sạch và hệ thống thốt nước.
Có khu vực đón tiếp khách và phịng ngủ; có phịng tắm, phịng vệ sinh chung trong
trường hợp phịng ngủ khơng có phịng tắm, vệ sinh riêng.
Có giường, đệm, chăn, gối, khăn mặt, khăn tắm; thay bọc đệm, bọc chăn, bọc gối,
khăn mặt, khăn tắm khi có khách mới.
Có nhân viên trực 24 giờ mỗi ngày.


Người quản lý, nhân viên được tập huấn về nghiệp vụ du lịch.
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với nhà ở có phịng cho
khách du lịch th
Có đèn chiếu sáng, nước sạch.
Có khu vực sinh hoạt chung; có khu vực lưu trú cho khách; có bếp, phịng tắm, phịng

vệ sinh.
Có giường, đệm hoặc chiếu; có chăn, gối, màn, khăn mặt, khăn tắm; thay bọc đệm
hoặc chiếu; thay bọc chăn, bọc gối, khăn mặt, khăn tắm khi có khách mới.
Chủ nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê được tập huấn về nghiệp vụ du lịch.
Điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ đối với bãi cắm trại du lịch
Có khu vực đón tiếp khách, khu vực dựng lều, trại, đỗ xe, phịng tắm, vệ sinh chung.
Có nước sạch.
Có dụng cụ, trang thiết bị dựng lều trại; có tủ thuốc cấp cứu ban đầu.
Có nhân viên bảo vệ trực khi có khách.
Có nhân viên trực 24 giờ mỗi ngày.
-Đội ngũ lao động:
Là người trực tiếp tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ lưu trú phục vụ khách du
lịch. Nhân tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu trong cung dịch vụ lưu trú.
1.2 Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ lưu trú
1.2.1 Đặc điểm cung dịch vụ lưu trú
-Có tính chất phong phú đa dạng:
Các loại hình cơ sở lưu trú du lịch được quy định tại Điều 48 Luật Du lịch 2017, bao
gồm: Khách sạn; biệt thự du lịch; căn hộ du lịch; tàu thủy lưu trú du lịch; nhà nghỉ du
lịch; nhà ở có phịng cho khách du lịch thuê; bãi cắm trại du lịch; các cơ sở lưu trú du
lịch khác.
Trong đó: Khách sạn (hotel) là cơ sở lưu trú du lịch, có quy mơ từ 10 buồng ngủ trở
lên, đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ cần thiết phục vụ
khách lưu trú và sử dụng dịch vụ, bao gồm khách sạn thành phố (city hotel), khách sạn
nghỉ dưỡng (hotel resort), khách sạn nổi (floating hotel), khách sạn bên đường (motel).


Biệt thự du lịch (tourist villa) là biệt thự có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch
thuê, có thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Có từ ba biệt thự du lịch trở lên được
gọi là cụm biệt thự du lịch.
Căn hộ du lịch (tourist apartment) là căn hộ có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du

lịch thuê, có thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Có từ 10 căn hộ du lịch trở lên
được gọi là khu căn hộ du lịch.
Bãi cắm trại du lịch (tourist camping) là khu vực đất được quy hoạch ở nơi có cảnh
quan thiên nhiên đẹp, có kết cấu hạ tầng, có cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và dịch vụ
cần thiết phục vụ khách cắm trại.
Nhà nghỉ du lịch (tourist guest house) là cơ sở lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện
nghi cần thiết phục vụ khách du lịch như khách sạn nhưng khơng đạt tiêu chuẩn xếp
hạng khách sạn.
Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê (homestay) là nơi sinh sống của người sở hữu
hoặc sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện
nghi cho khách du lịch thuê lưu trú, có thể có dịch vụ khác theo khả năng đáp ứng của
chủ nhà.
Các cơ sở lưu trú du lịch khác gồm tàu thủy du lịch, tàu hỏa du lịch, ca-ra-van
(caravan), lều du lịch.
-Mang tính chất cố định
Phần lớn các cơ sở kinh doanh lưu trú khách sạn có sự cung ứng cổ định về số phịng
hoặc diện tích khơng gian sẵn sàng cho thuê. Trong kinh doanh, các cơ sở này thường
mong muốn đạt được sự tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận bằng kỳ vọng (lý tưởng)
bán hết tất cả khả năng cung lưu trú của mình tức là đạt được 100% cơng suất sử dụng
phịng. Kỳ vọng này cũng tương tự như các hãng hàng không. Tuy nhiên, việc xác
định một chỉ tiêu đo lường cung hoặc đầu ra của các cơ sở kinh doanh lưu trú khách
sạn thường khá phức tạp.
Hệ số sử dụng cơ sở kinh doanh có thể được đo lường theo 3 cách khác nhau:
- Hệ số sử dụng cơ bản được xác định bằng tỷ lệ % số phịng (ngày phịng) có khách
sử dụng trên tổng số phịng (ngày phịng) có khả năng cung ứng trong một thời kỳ nhất
định. Hệ số này thường được gọi là cơng suất sử dụng phịng (hoặc cơng suất phịng).
Hệ số sử dụng giường được xác định bằng tỷ lệ % số giường (ngày giường có khách
sử dụng trên tổng số giường ngày giường) có khả năng cung ứng trong một thời kỳ



nhất định (với một phịng tiêu chuẩn tính hai giường đơn và một giường đôi bằng hai
giường đơn).
- Hệ số sử dụng theo doanh thu xác định bằng tỷ lệ % so sánh giữa doanh thu thực tế
nhận được với doanh thu tối đa theo mức giá niêm yết trong một thời kỳ nhất định.
Trong thực tiễn kinh doanh, có thể cho th phịng ở mức giá giảm vì nhiều lý do khác
nhau như khách quen, khách thuê dài hạn và thường xun, khách đi theo đồn đơng...
Ví dụ: Một khách sạn 100 phịng (mỗi phịng tính 2 giường) có mức giá bán bình quân
100.000đ/đêm. Qua thống kê một ngày đêm cho thấy: Có 30 phịng mỗi phịng có 2
người th ở mức giá niêm yết; có 30 phịng mỗi phịng có 2 người th ở mức giá
70.000đ/đêm vì họ đi theo đồn nên được giảm giá; có 20 phịng mỗi phịng có 1
người th với mức giá 60.000đ/đêm. Từ đó, có thể tính được các loại hệ số khác
nhau: Hệ số cơ bản 80%, hệ số sử dụng giường 70% và hệ số sử dụng theo doanh thu
63%.
-Chịu ảnh hưởng bởi tính chất thời vụ trong du lịch
Tại các điểm đến du lịch có tính thời vụ rõ rệt, các cơ sở lưu trú thường có sự phân
biệt trong quản lý cung nói chung giữa hai thời vụ: Vào lúc trái vụ các khách sạn
thường nhận đăng ký đặt phịng trước theo đồn, nhưng trong lúc chính vụ họ lại ít khi
nhận đăng ký như vậy bởi vì có nhiều cơ hội để bán phòng ở mức giá niêm yết.
-Đặc điểm về cơ cấu chi phí
Bao gồm 2 loại chi phí là chi phí cố định và chi phí biến đổi.
+Chi phí cố định: Các chi phí đầu tư cho máy móc, chi phí cơ sở hạ tầng và trang thiết
bị phục vụ hoạt động kinh doanh lưu trú
+Chi phí biến đổi: Bao gồm chi phí cho nguồn lao động sống hay nói cách khác là
nhân lực trong doanh nghiệp. Ngồi ra cịn có một số chi phí khác như: tiền hỗ trợ,
lưởng thưởng, hoa hồng, chiết khấu cho các doanh nghiệp đối tác…
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ lưu trú
Cung dịch vụ lưu trú chịu ảnh hưởng từ các nhân tố ảnh hưởng đến cung du lịch nói
chung bao gồm:
- Giá cả của hàng hoá, dịch vụ cung ứng: Nhà cung ứng sẽ cố gắng sản xuất nhiều hơn
hoặc ít hơn tuỳ thuộc vào giá cao hay thấp.Giá cả của các hàng hoá, dịch vụ có liên

quan (như thay thế hoặc bổ sung) với hàng hoá, dịch vụ đang cung ứng: Nhà cung ứng
sẽ xem xét giá cả của các hàng hoá, dịch vụ khác để quyết định lượng hàng hoá, dịch
vụ cung ứng của mình.


- Chi phí sản xuất, kinh doanh: Đây là một nhân tố bởi vì chi phí có thể ảnh hưởng
khác nhau đến sự thay đổi doanh thu. Khi doanh thu tăng do giá tăng chưa chắc làm
cho lợi nhuận tăng nếu chi phí tăng nhanh hơn doanh thu.
-Cạnh tranh trên thị trường: Sự cạnh tranh trên thị trường có thể - làm thúc đẩy cung
hoặc kìm hãm cung.
-Sự kỳ vọng: Nhân tố này có thể quan trọng như chi phí sản xuất kinh doanh, trong đó,
một cơng ty sẽ phải dự đoán cầu, mức giá và các hành động của đối thủ cạnh tranh
trước khi bắt đầu sản xuất.
- Tình trạng công nghệ: Nhân tố này ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng của mỗi
lao động và ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí sản xuất, kinh doanh.
- Quy hoạch phát triển du lịch là một nhân tố tác động trực tiếp đến sự tăng lên của
cung du lịch trong nhiều loại hình kinh doanh khác nhau.
- Các chính sách của chính phủ: Ví dụ như chính sách thuế với nhiều loại thuế trực thu
và gián thu khác nhau tuỳ theo mỗi quốc gia. Khi chính phủ thay đổi chính sách thuế
sẽ làm ảnh hưởng đến cung hàng hố, dịch vụ.
- Các nhân tố khác: Trên đây chưa phải là một danh mục đầy đủ các nhân tố ảnh
hưởng đến cung nhưng đã chỉ ra một số nhân tố sẽ phải xem xét khi cân nhắc cung các
hàng hoá, dịch vụ của ngành. Ngoài ra các nhân tố như thời tiết, tình hình an ninh,
chính trị... cũng sẽ có tác động nhất định đến cung du lịch.
Ngồi ra, có thể thấy rằng, sự kích thích của cầu là nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến
loại cung này. Sự tăng lên của cầu về dịch vụ lưu trú ngắn liền với sự phát triển du
lịch.
Bên cạnh đó, sự tiến bộ của công nghệ trong các lĩnh vực xây dựng, trang trí nội thất
và cơng nghiệp hàng tiêu dùng làm cho các khách sạn hiện đại xuất hiện ngày một
nhiều hơn, nhanh hơn hoặc các cơ sở lưu trú luôn được cải thiện, nâng cấp và làm mới.

Tùy thuộc vào mỗi loại hình lưu trú khác nhau mà có những nhân tố ảnh hưởng đối
với cung dịch vụ lưu trú cũng có sự khác biệt.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CUNG DỊCH VỤ LƯU TRÚ KHÁCH SẠN TẠI
QUẢNG NINH
2.1 Thực trạng cung dịch vụ lưu trú tại Quảng Ninh hiện nay
Trong những năm gần đây, hoạt động lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có
những chuyển biến tích cực. Tỉnh đã thu hút nhiều nhà đầu tư xây dựng hệ thống
khách sạn từ 4 - 5 sao và sản phẩm du lịch quy mô lớn, thương hiệu đẳng cấp chất
lượng cao như: Vinpearl Hạ Long, Wyndham Legend, Novotel Hạ Long, Royal Lotus
Hạ Long, Lợi Lai, Hoàng Gia, Mường Thanh Quảng Ninh, Hạ Long Plaza, Công viên
Đại Dương, Cảng Tuần Châu, Cung quy hoạch, Bảo tàng, Thư viện Quảng Ninh…
Thời gian qua, sự ra đời của các khách sạn cao cấp đã cho thấy sự tăng trưởng của dịch
vụ lưu trú trong lĩnh vực du lịch, đáp ứng ngày càng tốt hơn chất lượng phục vụ khách
du lịch đến tham quan lưu trú, nghỉ dưỡng đến với Quảng Ninh.
Năm 2018, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có tổng số 236 khách sạn, căn hộ cao cấp từ
1- 5 sao.
Trong đó, có 6 khách sạn 5 sao:
-Khách sạn nghỉ dưỡng Vinpearl HaLong Bay Resort (Đảo Rều, Bãi Cháy, thành phố
Hạ Long)
-Khách sạn Wyndham Legend Hạ Long (số 12, đường Hạ Long, phường Bãi Cháy,
thành phố Hạ Long)
-Khách sạn Hoàng Gia Hạ Long (phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long)
-Khách sạn Mường Thanh Quảng Ninh (đường Hạ Long, phường Bãi Cháy, thành phố
Hạ Long)
-Khách sạn Quốc tế Lợi Lai (đường Tuệ Tĩnh, phường Ka Long, thành phố Móng Cái)
-Khách sạn Majestic Móng Cái (đại lộ Hồ Bình, phường Trần Phú, thành phố Móng
Cái).
Tồn tỉnh có 19 cơ sở là khách sạn và căn hộ cao cấp 4 sao (18 cơ sở ở Hạ Long và 1

cơ sở ở Móng Cái); 25 cơ sở là khách sạn 3 sao. 68 cơ sở là khách sạn 2 sao và 117 cơ
sở là khách sạn 1 sao.


Tính đến tháng 6/2019, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 1.369 cơ sở lưu trú du lịch đã
được xếp hạng với 25.625 phòng, tăng 65 cơ sở, 5.061 phòng so với cùng kỳ năm
2018...

Khối khách sạn và khu căn hộ cao cấp 3-5 sao có 41 cơ sở với 5308 phòng chiếm 53%
tổng số phòng khối khách sạn trên địa bàn tỉnh (không bao gồm khối nhà nghỉ du lịch),
trong đó: (1) Thành phố Hạ Long 35 khách sạn 4679 phòng chiếm 88% tổng số phòng
khách sạn 3-5 sao (4 khách sạn 5 sao, 16 khách sạn và khu căn hộ cao cấp 4 sao, 15
khách sạn 3 sao); (2) Thành phố Móng Cái 4 khách sạn 3-5 sao 491 phòng chiếm 9%


(2 khách sạn 5 sao, 1 khách sạn 4 sao, 1 khách sạn 3 sao); (3) Thành phố Cẩm Phả 1
khách sạn 3 sao 81 phòng chiếm 2%; (4) Thị xã Đơng Triều 1 khách sạn 3 sao 57
phịng chiếm 1%. Khối khách sạn 1-2 sao có 190 cơ sở với 4727 phòng tăng 51 cơ sở,
735 phòng so với năm 2016, chiếm 47 % số phòng khối khách sạn trên địa bàn tỉnh.
Thành phố Hạ Long 102 cơ sở chiếm 54%, thành phố Móng Cái 19 cơ sở, chiếm 10%,
huyện Vân Đồn 20 cơ sở chiếm 11%, huyện Cô Tơ 26 cơ sở chiếm 14%; thành phố
ng Bí 7 cơ sở chiếm 4%, các địa phương còn lại 16 cơ sở chiếm 7%, trong đó: (1)
Khách sạn 2 sao: 66 cơ sở 2074 phòng chiếm 44% tổng số phòng khối khách sạn 1-2
sao; (2) Khách sạn 1 sao: 124 cơ sở 2653 phòng chiếm 56% tổng số phòng khối khách
sạn 1-2 sao.
Thị trường khách lưu trú quốc tế đến Quảng Ninh khá phong phú từ 140 quốc gia,
trong đó các thị trường trọng điểm là Đài Loan 39%, Hàn Quốc 36%, Úc 31%, Trung
Quốc 19%, Ý 19%, Pháp 14%, Anh 12%, Đan Mạch 11%, Canada 10%, Malaysia,
Tây Ban Nha, Hà Lan 8%... Cơng suất phịng bình qn của hệ thống cơ sở lưu trú
Quảng Ninh năm 2017 ước đạt 54%, tăng khoảng 3% so với năm 2016, doanh thu ước

đạt trên 2,8 nghìn tỷ đồng chiếm khoảng 15% tổng thu du lịch.
Nhân lực khối cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch có khoảng 18 nghìn lao động, khối lưu
trú du lịch 14 nghìn chiếm 78% (khách sạn hạng từ 1-5 sao chiếm 62%). Trong đó,
51% lao động được đào tạo chuyên ngành Du lịch từ trình độ sơ cấp đến thạc sĩ; Đội
ngũ Giám đốc và quản lý các khách sạn có 1.611 người, trong đó 25% được đào tạo
chuyên ngành Du lịch, 75% đào tạo chuyên ngành khác; lao động phổ thông chưa qua
đào tạo chiếm 15%; lao động trình độ sơ cấp chiếm 23%, trong đó chun ngành Du
lịch chiếm 11%; lao động trình độ trung cấp chiếm 24%, trong đó chuyên ngành Du
lịch chiếm 24%; lao động Cao đẳng chiếm 17%, trong đó chuyên ngành Du lịch chiếm
52%; lao động trình độ đại học chiếm 21%, trong đó đại học chuyên ngành Du lịch
chiếm 42%; lao động trình độ thạc sĩ 0,16%, trong đó chuyên ngành Du lịch chiếm
33%. Hình thức đào tạo chủ yếu hiện nay của Quảng Ninh là tại chỗ, cầm tay chỉ việc
thông qua đội ngũ đào tạo viên Dự án EU và giảng viên trường Đại học Hạ Long.
Theo thống kê sơ bộ của Sở Du lịch Quảng Ninh, tỷ suất đầu tư của khối khách sạn 5
sao khoảng trên 5 nghìn tỷ đồng, khối khách sạn 4 sao trên 3 nghìn tỷ đồng, khối
khách sạn 3 sao gần 2 nghìn tỷ đồng, khối khách sạn 2 sao trên 1 nghìn tỷ đồng, khối
khách sạn 1 sao gần 1 nghìn tỷ đồng. Quảng Ninh có 84 hộ kinh doanh khách sạn, 69
Công ty TNHH, 59 Công ty Cổ phần, 21 doanh nghiệp tư nhân, 2 Công ty Liên doanh,
1 doanh nghiệp trực thuộc Tổng Công ty.
Khối khách sạn từ 3-5 sao chủ đầu tư là các doanh nghiệp và tập đồn lớn. Tại trung
tâm du lịch Hạ Long có 136 chủ sở hữu/nhà đầu tư khách sạn. Số ngày lưu trú của


khách du lịch tại Quảng Ninh có chiều hướng tăng, đặc biệt là khách quốc tế, trung
bình 1,93 ngày/khách. Cơng suất sử dụng buồng của các khách sạn khá ổn định. So với
các trung tâm du lịch trong cả nước, Quảng Ninh được đánh giá là địa phương có hệ
thống khách sạn vào loại khá...
2.2 Đặc điểm cung dịch vụ lưu trú khách sạn tại Quảng Ninh hiện nay
2.2.1 Có tính chất phong phú đa dạng
Tỉnh Quảng Ninh được biết đến là một trong những tỉnh mũi nhọn hàng đầu về nước ta

về du lịch với hàng loạt danh lam thắng cảnh, đảo, vịnh và biển,…Quảng Ninh khơng
chỉ có vịnh Hạ Long là di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới, khu di tích danh lam thắng
cảnh Yên Tử. Nơi đây cịn có hơn 600 khu di tích đáng để tham quan, chiêm ngưỡng.
Nhờ vào điều đó mà trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh luôn là nơi nhận được
nhiều sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước.
Cùng với sự tăng trưởng về số lượng khách, các khách sạn tại nơi đây cũng ngày một
phong phú và đa dạng góp phần tạo nên sức hấp dẫn chung của sản phẩm du lịch địa
phương, đáp ứng được nhu cầu đa dạng đón khách du lịch ở các mức chi tiêu khác
nhau.
Sự đa dạng, phong phú của các khách sạn tại tỉnh Quảng Ninh được thể hiện ở cả mặt
chất và lượng. Nếu như trước đây, Quảng Ninh mới chỉ được biết đến như một điểm
du lịch nổi tiếng, nhưng ít cơ sở lưu trú cao cấp, thì trong những năm gần đây tỉnh đã
thu hút nhiều nhà đầu tư xây dựng hệ thống khách sạn từ 4 - 5 sao. Các thương hiệu
khách sạn cao cấp tại đây phải kể đến như Vinpearl, Wyndham Legend Hạ Long,
Mường Thanh, FLC, Hoàng Gia Hạ Long, Central Luxury Hạ Long, Lợi Lai,
Majestic…Bên cạnh những khách sạn cao cấp sang trọng, tại tỉnh Quảng Ninh cũng có
những khách sạn 1-2 sao để đáp ứng nhu cầu của du khách với tiêu chuẩn thấp hơn.
Với nhu cầu ngày càng tăng cao của khách du lịch, số lượng khách sạn tại tỉnh Quảng
Ninh cũng gia tăng. Theo số liệu thống kê từ Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh, tính đến
4/2020, trên địa bàn tỉnh có tổng số 268 khách sạn xếp hạng 1-5 sao. Trong đó, khách
sạn cao cấp từ 3-5 sao có 65 cơ sở với 8.696 phòng chiếm 65% khối phòng khách sạn
từ 1-5 sao. So sánh với số liệu 2019, số khách sạn cao cấp đã tăng cao từ 56 lên đến 65
cơ sở. Tuy nhiên, khối khách sạn từ 1-2 sao ở Quảng Ninh vẫn chiếm con số khá lớn.
Cũng theo số liệu thống kê từ Sở Du lịch, Quảng Ninh có 202 cơ sở với 4.773 phịng,
chiếm 35% số phịng khối khách sạn 1-5 sao.
Các khách sạn tại tỉnh Quảng Ninh cũng thể hiện sự đa dạng về mặt vị trí. Khách sạn
tại đây phân bổ các nơi khác nhau là các tụ điểm du lịch trong đó phải kể đến thành
phố Hạ Long, thành phố Móng Cái, thành phố ng Bí, Cẩm Phả, huyện Vân Đồn,



huyện Cô Tô, thị xã Đông Thiều, thị xã Quảng Yên. Tuy nhiên, các khách sạn cao cấp
3-5 sao chủ yếu tập trung tại thành phố Hạ Long và thành phố Móng Cái. Tại Hạ Long
có tổng 51 cơ sở khách sạn cao cấp, thành phố Móng Cái có 7 cơ sở, còn lại là các cơ
sở thuộc thành phố ng Bí, Cẩm Phả, Vân Đồn, Cơ Tơ và thị xã Đơng Triều.
2.2.2 Mang tính chất cố định
Cũng theo đặc điểm chung của cung dịch vụ, các cơ sở kinh doanh lưu trú khách sạn
có sự cung ứng cố định về vị trí, số phịng hoặc diện tích khơng gian sẵn sàng cho
thuê. Tại Quảng Ninh, các khách sạn ở đây cũng khơng thể nào thay đổi vị trí, số
phịng hay diện tích cung ứng. Do đó, để tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận, các khách
sạn nói chung và khách sạn tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng đều mong muốn có thể bán
hết tất cả khả năng cung lưu trú của mình tức là đạt được 100% cơng suất sử dụng
phòng.
Với những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, du lịch tỉnh Quảng Ninh luôn là một điểm
đến mà các du khách quan tâm, vào những mùa cao điểm các khách sạn tại đây ln
đạt cơng suất phịng cao trung bình trên 80%. Theo Sở Du lịch Quảng Ninh, từ ngày
27/4 đến ngày 1/5/2019 lượng khách du lịch đến các điểm tham quan trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh tăng khá mạnh, đạt 625.400 lượt, tăng 18% so với cùng kỳ. Khách lưu trú
đạt khoảng trên 54.000 lượt, trong đó khách lưu trú quốc tế đạt khoảng 41.720 lượt với
trên 70 quốc tịch và vùng lãnh thổ. Thị trường khách chủ yếu: Trung Quốc đạt 12.402
lượt, Hàn Quốc đạt 5.490 lượt, Đài Loan đạt 2.839 lượt…. Công suất buồng khách sạn
3-5 sao trên địa bàn thành phố Hạ Long đạt trung bình 80 - 90%. Để tránh tình trạng
quá tải cũng như có thể tối đa hóa lợi nhuận vào mùa cao điểm, các khách sạn tại đây
đều phải thực hiện biện pháp tăng giá phòng.
Là một điểm đến hấp dẫn và thu hút du khách là vậy nhưng ngành du lịch tỉnh Quảng
Ninh cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi dịch bệnh Covid-19. Do ảnh hưởng của dịch
bệnh, hầu hết các khách sạn tại Quảng Ninh cũng bị rơi vào tình trạng cơng suất buồng
phịng giảm tới mức thấp nhất trong những năm qua. Vào năm 2020, trong thời điểm
dịch bệnh trở nên căng thẳng và người dân phải thực hiện giãn cách xã hội, công suất
buồng tại đây chỉ đạt từ 3-5%. Trong bối cảnh dịch Covid-19, nhiều khách sạn lựa
chọn đóng cửa để cắt lỗ, tuy nhiên cũng có những khách sạn khơng mệt mỏi tìm cách

vận hành hiệu quả để mở cửa đón khách trong trạng thái bình thường mới. Khách sạn
4 sao Sài Gịn - Hạ Long là trường hợp như thế. Kể từ khi dịch bệnh bùng phát đến
nay, Sài Gòn - Hạ Long ln cố gắng duy trì mở cửa tối đa (chỉ trừ những thời điểm
phải đóng cửa để phịng chống dịch theo yêu cầu của tỉnh). Để duy trì hoạt động của
khách sạn, mọi phòng, ban đều phải suy nghĩ phương án để tiết giảm chi phí tối đa như
sử dụng hệ thống làm nóng thái dương năng, thiết bị tiết kiệm điện. Nhân lực của


khách sạn cũng được sắp xếp hợp lý để đảm bảo người lao động vừa đủ ngày cơng
đóng bảo hiểm vừa kiêm nhiệm nhiều phần việc. Tuy nhiên, khi tình hình dịch bệnh đã
được kiểm sốt và tỉnh Quảng Ninh quyết định mở cửa trở lại, ngành du lịch tại đây đã
có những tín hiệu khả quan hơn. Cụ thể như trong ngày cuối tuần 13-14/3, quần thể di
tích danh thắng Yên Tử đón hơn 8.600 lượt khách, gấp khoảng 5 lần so với những
ngày chưa đón khách ngoại tỉnh. Trong đó, khách sử dụng cáp treo là hơn 4.800 khách.
Cơng suất phịng ở khu nghỉ dưỡng Legacy n Tử đạt khoảng 50%, tương đương với
hơn 50 phòng nghỉ. Đại diện khu nghỉ dưỡng cho biết, đây là tín hiệu khả quan khi
khách về với Quảng Ninh dần tăng trở lại. Dự kiến những ngày cuối tuần, lượng khách
đặt phòng sẽ tăng nhanh chóng.
Có thể nói rằng, ngành du lịch cũng như các khách sạn tỉnh Quảng Ninh luôn nỗ lực để
có thể khắc phục tính cố định trong cung lưu trú, đồng thời ln chủ động ứng phó với
các tình huống bất ngờ xảy đến. Chính nhờ những biện pháp ứng phó kịp thời, tỉnh
Quảng Ninh ln là điểm du lịch thu hút đông đảo du khách mỗi năm.
2.2.3 Chịu ảnh hưởng bởi tính thời vụ trong du lịch
Tại tỉnh Quảng Ninh, hoạt động kinh doanh khách sạn tại đây mang tính thời vụ rõ nét.
Ngun nhân đó chính là bởi hoạt động kinh doanh khách sạn gắn chặt với điều kiện
tự nhiên của địa phương, mà cụ thể ở đây đó là tài nguyên biển. Dù những năm qua,
du lịch Quảng Ninh có sự tăng trưởng, tuy nhiên, hoạt động kinh doanh khách sạn vẫn
mang tính mùa vụ, chủ yếu chỉ tập trung vào mùa hè và mùa đông luôn là giai đoạn
thấp điểm tại đây.
Vào thời điểm mùa hè, số lượt du khách trong và ngoài nước đến Quảng Ninh đặc biệt

là thành phố Hạ Long để nghỉ dưỡng rất lớn. Theo thống kê của tỉnh Quảng Ninh, vào
mùa cao điểm các khách sạn tại đây luôn đạt cơng suất phịng cao trung bình trên 80%,
cuối tuần ln xảy ra hiện tượng “cháy phịng”. Cụ thể như vào dịp nghỉ lễ 30/4 - 1/5
năm 2019 (từ 27/4 – 1/5) lượng khách du lịch đến các điểm tham quan trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh tăng khá mạnh, đạt 625.400 lượt, tăng 18% so với cùng kỳ. Khách
lưu trú đạt khoảng trên 54.000 lượt, trong đó khách lưu trú quốc tế đạt khoảng 41.720
lượt. Công suất buồng khách sạn 3-5 sao trên địa bàn thành phố Hạ Long đạt trung
bình 80 - 90%.
Tuy nhiên, mùa đơng ln là thời kỳ thấp điểm của du lịch tỉnh Quảng Ninh. Địa
phương này có khí hậu nhiệt đới - gió mùa, đặc trưng của các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Vì thế, mùa đơng lạnh, khơ hanh, ít mưa, có gió Đơng Bắc…Do ảnh hưởng của khí
hậu cũng như yếu tố tự nhiên, từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm các khách sạn nơi đây
có số lượng khách lưu trú thấp. Khách lưu trú vào mùa đông tại đây chủ yếu là đối


tượng khách quốc tế. Theo số liệu thống kê, vào hai tháng cuối năm có những khách
sạn tại đây cơng suất phòng chỉ đạt gần 50%, dù đã giảm giá.
Để dần xóa đi khái niệm điểm đến mùa vụ trong kinh doanh du lịch, tỉnh Quảng Ninh
cùng với các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn ln khơng ngừng tìm kiếm những
giải pháp cho bài toán du lịch mùa thấp điểm. Hiện nay, bên cạnh việc hướng vào đối
tượng khách hàng đi du lịch nghỉ dưỡng, các khách sạn tỉnh Quảng Ninh còn đặc biệt
chú trọng tới phân khúc khách hàng hội nghị/tổ chức sự kiện kết hợp nghỉ dưỡng
(MICE). Nguyên nhân chủ yếu đó chính là phân khúc MICE hầu như khơng có tính
mùa vụ rõ rệt do được tổ chức theo nhu cầu sự kiện hay hội họp quanh năm. Bên cạnh
đó, xu hướng hội họp kết hợp với nghỉ dưỡng cũng đang ngày càng phát triển mạnh và
doanh thu từ đối tượng này cao hơn doanh thu khách du lịch nghỉ dưỡng truyền thống.
Ngoài ra, để thu hút du khách vào mùa đông các khách sạn thường tung ra các chương
trình khuyến mãi vơ cùng hấp dẫn. Ví dụ như du khách sẽ được trải nghiệm dịch vụ
khách sạn cao cấp như Wynham Legend Hạ Long cam kết giảm 49% giá phòng và
15% cho dịch vụ ăn uống, Novotel Hạ Long giảm 25% giá phòng, Mường Thanh

Quảng Ninh giảm 40%, Hạ Long Plaza giảm tới 55%...
Luôn biết cách làm mới, không chỉ với các sản phẩm dịch vụ, mà cịn bằng sự năng
động nhạy bén trong cơng tác kích cầu, ngành kinh doanh khách sạn nói riêng và du
lịch tỉnh Quảng Ninh nói chung đang dần xóa mờ tính thời vụ trong du lịch.
2.2.4 Đặc điểm cơ cấu và chi phí
Chi phí sản xuất kinh doanh là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến tình hình cung dịch vụ
lưu trú. Trong kinh doanh khách sạn, lao động là một yếu tố đầu vào chủ yếu và các
chi phí cố định thường vượt quá các chi phí biến đổi về tổng số và tỷ trọng. Tại tỉnh
Quảng Ninh, các khách sạn ở đây cũng mang những đặc điểm về chi phí trong kinh
doanh khách sạn nói chung. Dưới đây là bảng cơ cấu chi phí được khảo sát tại các
khách sạn tỉnh Quảng Ninh:


Biểu đồ 1: Cơ cấu chi phí kinh doanh khách sạn tỉnh Quảng Ninh
năm 2018 – 2019

Theo biểu đồ trên, có thể thấy chi phí tiền lương cho người lao động, cán bộ và nhân
viên chiếm tỉ trọng lớn nhất, năm 2019 chiếm 38% trên tổng số chi phí. Nguyên nhân
chính khiến cho chi phí nhân cơng chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số chi phí là do đặc
điểm của cung dịch vụ. Trong quá trình cung ứng dịch vụ đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp
giữa nhà cung ứng với khách hàng nên các doanh nghiệp khách sạn phải sử dụng nhiều
lao động, từ đó chi phí cho nhân công chiếm tỷ trọng lớn.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cung dịch vụ lưu trú khách sạn tại Quảng Ninh
hiện nay
2.3.1. Sự tăng lên về cầu dịch vụ lưu trú
Số liệu thống kê cho thấy lượng khách tới Quảng Ninh ngày một tăng cao,
không chỉ về số lượng mà cả chất lượng, thể hiện rõ qua tốc độ tăng trưởng khách
quốc tế và tầng lớp trung lưu trong nước, tương ứng với nhu cầu lưu trú tiêu chuẩn ít
nhất từ 3 sao trở lên. Năm 2018, du lịch Quảng Ninh đón trên 12 triệu lượt khách du
lịch, tăng 24% so với năm 2017. Lượng khách du lịch một năm gấp 10 lần dân số của

tỉnh. Trong đó, khách quốc tế đạt 5,2 triệu lượt, chiếm xấp xỉ 1/3 tổng lượng khách
quốc tế cả nước. Chín tháng năm 2019, du khách đến Quảng Ninh đạt 11,3 triệu lượt,
tăng 14% so với cùng kỳ. Cùng với đó, hạ tầng giao thơng phát triển, đặc biệt là tuyến
cao tốc Hải Phòng - Hạ Long, Hạ Long - Vân Đồn đã được hoàn thiện; tuyến cao tốc
Vân Đồn - Móng Cái đang được triển khai và dự kiến hoàn thành trong năm 2020;
Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn đã được đưa vào hoạt động...
Tuy thị trường 3 năm gần đây có nhiều dự án nghỉ dưỡng cao cấp ra mắt nhưng rõ ràng
vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu lưu trú của du khách đến Hạ Long. Đây chính là những
lý do khiến phân khúc bất động sản du lịch tại Quảng Ninh phát triển mạnh. Theo Báo
cáo số 1023/SDL-KH ngày 14/6/2019, tính đến tháng 6/2019, trên địa bàn tỉnh có
khoảng 444 cơ sở khách sạn và tàu thủy lưu trú du lịch với 14.834 buồng. Trong đó,
256 khách sạn 1-5 sao với 11.624 buồng; 1 khu căn hộ du lịch hạng 4 sao với 156
phòng. Dù số lượng khách sạn hạng từ 3-5 sao và căn hộ cao cấp chủ yếu tập trung ở
trung tâm du lịch TP. Hạ Long - chiếm khoảng 88%, nhưng vào dịp cao điểm (từ tháng
5 đến tháng 7), tình trạng cháy phịng vẫn diễn ra. Cơng suất phịng của khối này ln
đạt 60 – 70%. Riêng khối khách sạn 5 sao trên 70% và thời gian lưu trú là 2.25


ngày/khách. Đối tượng khách hàng chính thuộc nhóm có mức chi tiêu cao đến từ các
nước như Pháp, Anh, Mỹ, Đức, Nhật, Hàn Quốc …
Vì vậy, nhiều khách sạn, khu nghỉ dưỡng có quy mơ lớn, thương hiệu đẳng cấp đạt
chất lượng cao đã ra đời như: Wyndham, Royallotus, Novotel, Vinpearl, FLC,
Legacy... Năm 2020, Quảng Ninh có thêm các thương hiệu quản lý khách sạn danh
tiếng của các tập đoàn quốc tế hàng đầu thế giới, góp phần nâng tầm du lịch Quảng
Ninh như: Accor, InterContinental, Marriott, Hilton, Starwood, Hyatt, Pan Pacific…
Các thương hiệu quản lý khách sạn hàng đầu thế giới sẽ giúp cho du lịch Quảng Ninh
nâng cao thương hiệu, vị thế, thu hút thị trường khách du lịch chất lượng cao đến từ
các quốc gia, đặc biệt là từ các nước châu Âu. Ngoài ra, các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân cũng mạnh dạn đầu tư xây dựng khách sạn, nhà nghỉ khang trang, đạt tiêu chuẩn
cao, thay vì xu hướng đầu tư nhà nghỉ loại nhỏ, khách sạn mini như những năm trước.

2.3.2. Sự tiến bộ về khoa học công nghệ
Quảng Ninh được biết đến với vị trí địa chính trị và nhiều tiềm năng, lợi thế cạnh tranh
khác biệt. Với cách tiếp cận riêng là dựa vào nhân tố khoa học, công nghệ (KHCN),
Quảng Ninh đang có những giải pháp riêng phù hợp với tiềm năng, lợi thế, điều kiện
của địa phương để tận dụng thời cơ cách mạng công nghiệp 4.0 trong phát triển bền
vững.
Ứng dụng công nghệ vào hoạt động quản lý và kinh doanh đang là xu hướng mới tại
các khách sạn ở Quảng Ninh. Đây là một hướng đi giúp khách sạn có thể bắt kịp với
bước tiến như “vũ bão” của thời đại công nghệ lên ngôi như hiện nay. Theo đánh giá
chung của các chuyên gia cũng như nhiều lãnh đạo cấp cao cho thấy, việc chuyển đổi
số sẽ mang đến một bộ mặt hoàn toàn mới trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn tại
Quảng Ninh.
Thứ nhất, công nghệ chính là “chìa khóa vàng” của ngành khách sạn. Ở đây, khách
hàng có thể tìm hiểu thơng tin về khách sạn, đặt phịng, làm thủ tục hay “săn” chương
trình khuyến mãi mà các khách sạn đưa ra một cách tiện lợi nhất.
Thứ hai là các khách sạn cũng không tốn nhiều thời gian hay chi phí cho việc quảng bá
thương hiệu, sản phẩm mà mình cung cấp như trước nữa. Ở thời đại bùng nổ cơng
nghệ như hiện nay thì chỉ cần một nút “ENTER” hay một nút “SHARE” là xong.
Thứ ba là các cơng nghệ hiện đại có thể giúp khách sạn tại Quảng Ninh và trên thế giới
có thể tránh được tình trạng bị rị rỉ dữ liệu khách hàng hay các số liệu kinh doanh.
Điều này sẽ giúp các khách sạn có được sự yên tâm hơn trong quá trình hoạt động kinh
doanh của mình.


Nếu các khách sạn Quảng Ninh nói riêng và thế giới nói chung khơng muốn phải trải
qua những khó khăn và bị “bỏ quên” trên thị trường thì ngay từ bây giờ nên thực hiện
việc chuyển đổi số. Đây là “lời giải” hợp lý cho “bài toán” cạnh tranh gay gắt trên thị
trường kinh doanh khách sạn hiện nay. Chắc chắn, những công nghệ mới sẽ là “trợ thủ
đắc lực” giúp hoạt động kinh doanh của khách sạn ngày một phát triển và tiện ích hơn.
Điển hình việc áp dụng sự tiên tiến về khoa học công nghệ vào trong lĩnh vực khách

sạn đó là “bán phịng thời 4.0”. Khách sạn 5 sao Central Luxury Hotel tại Hạ Long đi
vào hoạt động từ năm 2018. Bên cạnh kênh bán phòng truyền thống, khách sạn tăng
cường sử dụng các OTA (Online Travel Agent) hay các đại lý du lịch trực tuyến như
Agoda, Booking.com hay Airbnb… Qua các OTA, Central Luxury tiếp cận được
lượng khách lớn gấp 20 lần so với con số mà họ tự tiếp cận. Các nền tảng công nghệ
trực tuyến với thế mạnh là độ mở, lượng người dùng khổng lồ, tính minh bạch cao,
tương tác tốt cho phép khách sạn quảng bá hình ảnh, dịch vụ và bán phòng trên khắp
thế giới, tiếp cận trực tiếp tới từng du khách mà không bị ngăn cản về khoảng cách địa
lý. Bên cạnh các OTA của nước ngoài kể trên, Central Luxury Hotel cũng đang sử
dụng giải pháp công nghệ do các công ty Việt Nam phát triển chẳng hạn như Enet.
Nền tảng của Enet không chỉ cho phép khách sạn bán phòng cho khách lẻ mà còn cho
cả các hãng lữ hành, cung cấp mức giá B2B (Business to Business) bán từ doanh
nghiệp tới doanh nghiệp nên rất thuận tiện.
Tăng cường sử dụng công nghệ thông minh, khách sạn tiết giảm được chi phí vận
hành, thời gian, lượng khách đặt phòng tăng và lợi nhuận cao hơn. Với trường hợp của
Central Luxury Hotel, khách mua phòng qua các OTA chiếm tới 10% tổng số khách
đặt phòng. Đây là con số khơng nhỏ và dự đốn sẽ cịn tiếp tục tăng nhanh trong
những năm tiếp theo.
Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ tại Hạ Long đều đang bán phòng qua các OTA. Thậm
chí một khách sạn bán phịng qua nhiều OTA ...Khơng dừng lại ở đó, các khách sạn
cũng gắn địa chỉ của mình trên Google map cơng khai giá phịng, bình luận, đánh giá
để tiện cho việc tìm kiếm.
2.3.3. Chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí kinh doanh cũng được coi là một nhân tố quan trọng nhất bởi vì chi phí có thể
ảnh hưởng khác nhau đến sự thay đổi doanh thu. Khi doanh thu tăng do giá tăng chưa
chắc làm cho lợi nhuận tăng nếu chi phí tăng nhanh hơn doanh thu.
Tại hệ thống các khách sạn cao cấp 4 - 5 sao tại Quảng Ninh, chi phí sản xuất kinh
doanh bao gồm các chi phí về nhân cơng, chi phí ngun vật liệu, chi phí đầu tư ban
đầu.... và chi phí sản xuất này trong hệ thống thường chiếm khoảng 13 - 15% doanh



thu. Nếu chi phí sản xuất kinh doanh tại các khách sạn4 - 5 sao tại Quảng Ninh tăng
lên sẽ làm cho giá của hàng hóa dịch vụ cụ thể giá dịch vụ lưu trú tăng, trong khi đấy,
sẽ có những khoảng thời gian, giá của dịch vụ lưu trú tại khách sạn bán ra không thể
tăng, khi ấy lợi nhuận của các khách sạn sẽ bị giảm đi.
Do ảnh hưởng của dịch Covid nên 9 tháng năm 2020, tổng khách du lịch đến Quảng
Ninh đạt trên 5,8 triệu lượt, bằng 52% so cùng kỳ năm 2019, trong đó khách quốc tế
trên 500.000 lượt, bằng 13% so cùng kỳ năm 2019. Tổng thu du lịch đạt trên 12.000 tỷ
đồng, bằng 56% so cùng kỳ năm 2019. Trong thời điểm dịch Covid 19, rất nhiều khách
sạn trên địa bàn tỉnh lâm vào tình cảnh khó khăn, tác động lớn đến doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh khối ngành du lịch, dịch vụ như: Kinh doanh khách sạn lưu trú, kinh
doanh tàu thuyền vận chuyển khách tham quan vịnh Hạ Long. Hầu hết các khách sạn
tại Quảng Ninh cũng bị rơi vào tình trạng cơng suất buồng phịng giảm tới mức thấp
nhất trong những năm qua. Có những giai đoạn tại một số khách sạn 5 sao, cơng suất
buồng phịng tại khách sạn giảm tới mức <20% , đã làm cho doanh thu tại khách sạn
giảm xuống, trong khi đó, chi phí về nhân cơng vẫn giữ ngun, chi phí về mặt bằng,
về các nguyên vật liệu đầu vào có thể giữ nguyên hoặc tăng lên... làm cho lợi nhuận
của các khách sạn giảm xuống mức hịa vốn, có lúc đã rơi vào tình trạng lợi nhuận âm,
ảnh hưởng rất lớn tới cung dịch vụ lưu trú tại khách sạn. Nhiều khách sạn lựa chọn
đóng cửa để cắt lỗ, tuy nhiên cũng có những khách sạn khơng mệt mỏi tìm cách vận
hành hiệu quả để mở cửa đón khách trong trạng thái bình thường mới. Tại thời điểm
này, sau nhiều tháng ảnh hưởng dịch bệnh, Quảng Ninh có 126 doanh nghiệp kinh
doanh tàu du lịch đã gửi đơn xin tạm dừng hoạt động, doanh nghiệp kinh doanh lưu trú
chỉ duy trì cơng suất phịng từ 3-10%. Trên các trang web có rất nhiều khách sạn rao
giảm giá sâu, song cũng khơng có khách. Thậm chí nhiều khách sạn rao bán, cho thuê
dài hạn vì bị ngân hàng siết nợ. Theo chia sẻ của một chủ kinh doanh khách sạn trên
địa bàn TP Hạ Long, để vận hành một khách sạn 4 sao với quy mơ 30-40 phịng, mỗi
tháng cần khoảng 400 triệu đồng. Nếu khách sạn bán giá phịng 1,2 triệu
đồng/phịng/ngày, thì mỗi ngày phải bán được hơn 10 phịng để có nguồn thu đủ chi
trả duy trì hoạt động của khách sạn đó. Khi khách sạn đóng cửa khơng có doanh thu

thì chủ sở hữu vẫn phải chi gần 100 triệu đồng/tháng cho các chi phí khác. Khách sạn
4 sao Sài Gịn - Hạ Long là trường hợp cụ thể. Kể từ khi dịch bệnh bùng phát đến nay,
Sài Gòn - Hạ Long ln cố gắng duy trì mở cửa tối đa (chỉ trừ những thời điểm phải
đóng cửa để phịng chống dịch theo yêu cầu của tỉnh). Để có lãi, khách sạn phải đạt
cơng suất phịng trên 50%, tuy nhiên với thời điểm tỉnh Quảng Ninh mới thí điểm mở
lại hoạt động du lịch nội tỉnh như hiện nay, công suất phịng có khi khơng đạt 5%. Để
duy trì hoạt động của khách sạn, mọi phòng, ban đều phải suy nghĩ phương án để tiết
giảm chi phí tối đa như sử dụng hệ thống làm nóng thái dương năng, thiết bị tiết kiệm


điện. Nhân lực của khách sạn cũng được sắp xếp hợp lý để đảm bảo người lao động
vừa đủ ngày cơng đóng bảo hiểm vừa kiêm nhiệm nhiều phần việc. Ví dụ như, mỗi
nhân viên buồng ngồi việc dọn phịng còn đảm nhiệm vệ sinh tại các khu vực chung
như thang máy, sảnh khách sạn. Riêng bộ phận Marketing có lẽ là bộ phận bận rộn
nhất vì khách sạn xác định đây là thời gian cần phải tập trung để truyền thông, quảng
bá, giữ mối liên hệ với khách hàng. Trong thời gian dịch bệnh bùng phát, khách sạn đã
cho ra mắt một trang fanpage và một kênh youtube riêng. Đặc biệt, khách sạn cũng
đẩy mạnh phát triển các sản phẩm mới, tập trung vào các nhóm khách lẻ nội địa, nội
tỉnh, đưa ra các gói combo ăn tối hấp dẫn vào các ngày lễ lớn như Giáng sinh, Lễ tình
nhân, 8/3, tập trung vào các sản phẩm ẩm thực như đặt món ăn ship tận nơi cho du
khách, bán các tour trải nghiệm trong ngày (daycation) phù hợp với nhu cầu nghỉ ngơi,
thư giãn của khách nội thành, nội tỉnh.
Có thể kết luận, chi phí sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng đến cung dịch vụ lưu trú tại
hệ thống khách sạn tại Quảng Ninh, chi phí sản xuất tỉ lệ nghịch với cung dịch vụ tại
khách sạn.
2.3.4. Cạnh tranh trên thị trường
Với Quảng Ninh, thị trường bất động sản nghỉ dưỡng vẫn đang phát triển rất mạnh.
Ngoài phân khúc khách sạn với nhiều thương hiệu lớn như Hilton, Wyndham, Vinpeal,
Mường Thanh, thì phân khúc biệt thự - villas nghỉ dưỡng, condotel, shophouse,
homestay đang rất nở rộ tại đây đặc biệt là tại TP. Hạ Long , cạnh tranh trực tiếp với

các khách sạn. Loại hình cơ sở lưu trú mới là Condotel - loại hình kết hợp căn hộ và
khách sạn của các tịa nhà. Loại hình này đang hình thành và phát triển mạnh tại TP Hạ
Long với hàng nghìn phịng, trong đó có những phịng cao cấp, đầy đủ tiện nghi do cá
nhân sở hữu nhưng được khách sạn tiếp thị và vận hành. Loại hình lưu trú homestay
được lắp ghép từ contener đã được hình thành tại một số khu vực Bãi Cháy (TP Hạ
Long) và một số trung tâm du lịch ở các huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn... Trong bối cảnh
nhu cầu về cơ sở lưu trú đạt chất lượng không đáp ứng được đủ nhu cầu của du khách,
thì các sản phẩm bất động sản dạng condotel trở thành một nguồn cung dồi dào và chất
lượng cho bất động sản du lịch. Với thiết kế tinh tế, cách bố trí cảnh quan sang trọng,
các căn hộ khách sạn Condotel Quảng Ninh sẽ mang đến cho du khách một không gian
tràn đầu năng lượng và ngập tràn hơi thở thiên nhiên. Những đột phá trong kiến trúc
xây dựng sẽ tạn nên một công trình hồnh tráng, đồ sộ với những đường nét điêu luyện
và tinh tế. Mức giá cho thuê mỗi đêm cuối tuần trong mùa cao điểm du lịch dao động
từ 1,8 đến 2 triệu đồng/căn 2 phòng ngủ view biển cho 4 đến 6 khách và 3-3,5 triệu
đồng/căn 3 phòng ngủ view biển cho 6 đến 10 khách. Tiện nghi sinh hoạt của các căn
hộ này nếu so với các khách sạn 3, 4 sao trên địa bàn thành phố thì không hề thua kém,


nhưng giá lại rẻ hơn rất nhiều nếu chia theo đầu khách. Tùy thuộc vào nội thất, tiện
nghi và diện tích mà sẽ có mức giá khác nhau. Các khách sạn thuộc 4-5 sao giá cả đắt
hơn rất nhiều, rơi vào khoảng 1 – 2 triệu/đêm, có nơi hơn 2 triệu (giá tiền đi liền với
dịch vụ và tiện ích). Khách sạn 1-3 sao mức giá rơi vào khoảng 250 nghìn-1 triệu/đêm
phụ thuộc vào mùa du lịch cao điểm và thấp điểm. Hay với homestay thay vì ở khách
sạn hoặc các nhà nghỉ, khách du lịch sẽ ở ngay tại nhà của dân địa phương để có thể có
một góc nhìn gần gũi và thực tế hơn với cách sống và nền văn hoá của nước chủ nhà.
Khách được xem như một thành viên của gia đình và tham gia vào các sinh hoạt đời
thường như ăn cơm chung mâm và trò chuyện trao đổi với các thành viên, những
homestay này đều được đầu tư khá công phu, mang những nét độc đáo riêng. Mức giá
trung bình hiện nay là: 60$/đêm và giá của các loại phòng ở Hạ Long đang giao động
như sau:

Entire Room: 121$/đêm (tương ứng doanh thu 1034$/tháng)
Private Room: 67$/đêm (tương ứng doanh thu 618$/tháng)
Shared Room: 20$/đêm (tương ứng doanh thu 50$/tháng)
Với mức giá này, host có thể dựa vào để điều chỉnh cho những chương trình khuyến
mãi, linh hoạt mùa cao điểm/ thấp điểm và đưa ra những quyết định tính gộp để tránh
thua lỗ hoặc phá giá thị trường.
2.3.5. Các chính sách của chính phủ
Theo thông tin cập nhật vào tháng 4/2019 của cổng thông tin điện tử về công tác lãnh
sự- Bộ ngoại giao Việt nam thì có 87 nước đã ký hiệp định thỏa thuận miễn thị thực
song phương với Việt Nam, đây là một điều kiện thuận lợi giúp cho các doanh nghiệp
du lịch khác kích cung dịch vụ lưu trú, nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ du lịch,
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của khách hàng trong nước và quốc tế.
Nhận thức rõ nhu cầu về khách sạn đang ngày càng cao, việc thiếu hụt khách sạn, đặc
biệt là khách sạn chất lượng cao sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng du lịch, cho nên
thành phố cần tiến hành cùng lúc nhiều biện pháp để tăng cường hệ thống cơ sở lưu trú
du lịch cả về chất và lượng. Sở Du lịch tỉnh hiện đang nghiên cứu, xây dựng quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2025 và sau đó để nhìn nhận và định hướng
q trình đầu tư phát triển. Bên cạnh đó cần đơn đốc, nhắc nhở các chủ đầu tư thực
hiện đúng tiến độ các dự án xây dựng khách sạn đang triển khai. Ðể đáp ứng nhu cầu
về khách sạn cao cấp, Quảng Ninh đang thực hiện ban hành cơ chế ưu đãi, khuyến
khích các nhà đầu tư trong nước và ngồi nước đầu tư xây dựng khách sạn bốn -năm
sao trên địa bàn. Chỉ đạo Sở Quy hoạch Kiến trúc, Tài nguyên - Môi trường - Nhà đất


và Sở Kế hoạch và Ðầu tư lựa chọn những diện tích đất phù hợp đã quy hoạch tại các
khu đơ thị mới hoặc ở những vị trí khác phù hợp để xây dựng khách sạn trình UBND
tỉnh duyệt làm cơ sở kêu gọi các nhà đầu tư. Các quận, huyện cũng nên tự đề xuất các
diện tích đất xây dựng khách sạn phù hợp với quy hoạch của địa phương, bao gồm các
diện tích đất dành cho mục đích cơng cộng có thể xây dựng khách sạn tại các khu đô
thị mới, đất thuộc quyền quản lý của quận, huyện. Nghiên cứu để dành một số vị trí có

được sau khi di dời các nhà máy gây ô nhiễm ra khu vực ngoại thành để xây dựng
khách sạn.
UBND tỉnh Quảng Ninh đã tạo cơ chế chính sách thơng hống để thu hút nhà đầu tư
vào lĩnh vực khách sạn cao cấp. Cụ thể: ban hành chính sách khuyến khích đầu tư xây
dựng khách sạn cao cấp từ 4 – 5 sao trên địa bàn tỉnh: Đối tượng được khuyến khích
đầu tư là các nhà đầu tư trong và ngồi nước, các tổ chức và cá nhân có liên quan đến
hoạt động đầu tư. Điển hình là việc ký kết hợp đồng quản lý khách sạn Fairfield by
Marriott Halong Bay. Times Garden Việt Nam cùng các công ty thành viên và tập đoàn
Marriot International đã ký kết hợp đồng quản lý khách sạn Fairfield by Marriott
Halong Bay. Khách sạn này sẽ được hoàn tất thủ tục pháp lý và xây dựng sớm, dự kiến
khai trương trong năm 2022. Fairfield by Marriott® Halong Bay với 220 phịng nằm ở
vị trí đắc địa trong Di Sản Thế Giới Vịnh Hạ Long do UNESCO tơn vinh, cho phép
một tầm nhìn bao qt bờ biển với những hịn đảo đá vơi quyến rũ vốn đã rất nổi tiếng.
Nằm tại một khu vực nhiều chức năng hiện đại, bao gồm trung tâm hội nghị, Fairfield
by Marriott® Halong Bay sẽ là một khách sạn lý tưởng cho cả hoạt động kinh doanh
lẫn nghỉ dưỡng. Khách sạn nằm liền kề Bảo Tàng và Thư Viện rất nổi tiếng của tỉnh
Quảng Ninh và chỉ cách Công Viên Giải Trí Sun World 15 phút đi xe. Đặc biệt, vị trí
đặc thù của khách sạn bảo đảm một sự kết nối thuận tiện tới Sân Bay Quốc Tế Nội
Bài, Sân Bay Vân Đồn và Sân Bay Cát Bi, thời gian đến các sân bay này đều không tới
3 giờ đi xe. Ông Vũ Duy Thành – chủ tịch HĐQT của Cơng Ty Club M Hạ Long đã
nói trong buổi lễ ký kết: “Có một khoảng cách đáng kể về mức giá trong sự lựa chọn
các khách sạn chất lượng hạng trung. Chúng tôi thấy một tiềm năng lớn cho thương
hiệu Fairfield tại Hạ Long. Chính vì vậy, chúng tơi vơ cùng phấn khởi khi hợp tác với
Marriott International để mang thương hiệu Fairfield by Marriott tới Việt Nam”…
2.4 Đánh giá
2.4.1. Thành công:
-Sự phát triển về đầu tư, mở rộng quy mô:
Trong những năm gần đây, hoạt động lưu trú du lịch trên tỉnh Quảng Ninh đã có những
chuyển biến tích cực thu hút nhiều nhà đầu tư, xây dựng hệ thống khách sạn từ 4-5 sao



và sản phẩm du lịch quy mô lớn, thương hiệu đẳng cấp chất lượng cao như Vinpearl
Hạ Long, Mường Thanh Quảng Ninh, Cảng Tuần Châu, công viên Đại Dương....
-Quan tâm đến nâng cao chất lượng dịch vụ:
Các yếu tố hữu hình đã được các khách sạn sử dụng tối ưu để làm tăng chất lượng dịch
vụ, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng dịch
vụ, làm khách hàng hài lòng hơn. Đa số các khách sạn 5 sao ở Quảng Ninh đều đã đầu
tư vào nội thất, trang trí, tiện khách sạn,… và được đánh giá khá cao về khả năng phục
vụ khách hàng. Bên cạnh đó, việc tổ chức lấy ý kiến khách hàng giúp doanh nghiệp có
thể nhận sự góp ý của khách hàng, có những biện pháp kịp thời để cải thiện chất lượng
sản phẩm, làm hài lịng khách hàng.
-Đa dạng về hình thức:
Nhiều khách sạn đã tạo ra được các phong cách thiết kế đặc trưng khác nhau:
Katahome Hạ Long có phong cách Âu, có nét cổ kính, có khách sạn lại thiên về sự
hiện đại đại, năng động…Điều này tạo nên sự khác biệt cho mỗi khách sạn.
-Phát triển chiến lược Marketing:
Ở các khách sạn lớn 4-5 sao, đã thiết lập được các chiến lược Marketing cụ thể, giúp
khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin đầy đủ chi tiết về các dịch vụ khách
sạn cung ứng thông qua nhiều kênh truyền thông khác nhau. Đa dạng trong phương
thức truyền thông quảng cáo như: internet, các trang mạng xã hội: Facebook, Youtube,
Instagram… làm tăng khả năng thu hút khách hàng đến và trải nghiệm dịch vụ.
-Liên kết kinh doanh:
Liên kết với các đại lý lữ hành OTA đặt phịng, tìm kiếm thơng tin…trực tuyến. Một số
doanh nghiệp OTA có liên kết với các khách sạn tại Quảng Ninh như: Agoda,
Booking, Tripadvisor… Nhiều khách sạn đã tạo lập mối quan hệ gắn bó với các hãng
lữ hành để có nguồn cung cấp khách hàng thường xuyên.
-Chất lượng nguồn nhân lực:
Đa số các nhân viên tại các khách sạn ở Hạ Long có phong cách chuyên nghiệp, trình
độ, được tuyển chọn kỹ lưỡng với các tiêu chuẩn phù hợp với từng khách sạn. - Các
dịch vụ bổ sung ngày càng được chú trọng, chất lượng ngày càng được cải thiện để

đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
2.4.2. Hạn chế
- Cơ chế chính sách:


Những hạn chế đầu tiên cần nói đến là hạn chế về cơ chế chính sách, sự phối hợp liên
ngành, liên vùng cịn bất cập từ khâu hoạch định chính sách đến triển khai kết quả.
Những vấn đề như lãi suất ngân hàng cao, giá điện sử dụng, thuế nhập khẩu và thời
hạn tính khấu hao trang thiết bị phục vụ du lịch, thủ tục hải quan… chưa hợp lý đang
phải đề xuất tháo gỡ. Ở một số nơi tại Quảng Ninh, việc kiểm sốt quy hoạch khơng
hiệu quả dẫn tới một số khách sạn phát triển tự phát, những cơng trình khơng phù hợp
về kiến trúc, phá vỡ cảnh quan mơi trường gây tác hại lâu dài rất khó khắc phục…
- Bất cập trong đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật:
Sự thiếu kinh nghiệm của chủ đầu tư dẫn đến những sai lầm trong quá trình đầu tư,
duy trì chất lượng và phát triển thương hiệu: nhiều chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm đã
lựa chọn tư vấn thiết kế khơng đủ năng lực nên xây dựng cơng trình có nhiều bất cập,
khơng đáp ứng cơng năng của khách sạn, gây khó khăn trong q trình vận hành,
khơng đạt tiêu chuẩn theo mục đích ban đầu, phải sửa lại nhiều gây tốn kém và giảm
hiệu quả kinh doanh.
- Chất lượng dịch vụ chưa đồng bộ:
Bên cạnh một số khách sạn đã tạo dựng được thương hiệu, góp phần nâng cao uy tín
của Du lịch Quảng Ninh, vẫn cịn những khách sạn quy mô vừa, nhỏ chưa quan tâm
đúng mức đến bảo dưỡng trang thiết bị, chất lượng dịch vụ cung ứng dẫn đến khơng
duy trì được chất lượng dịch vụ như ngày đầu khai trương và không giữ được thương
hiệu. Nhận thức của một số chủ sở hữu và người quản lý còn hạn chế trong việc nâng
cao và duy trì chất lượng dịch vụ.
- Chất lượng nhân lực chưa đồng bộ:
Chất lượng nguồn nhân lực của hệ thống khách sạn vẫn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng
tới chất lượng phục vụ, hiệu quả của công tác quản lý điều hành, công tác xúc tiến
quảng bá thu hút khách. Có thể kể đến một số khó khăn chính như: lực lượng lao động

giỏi, người có khả năng điều hành, quản lý trong các khách sạn tại Quảng Ninh rất
thiếu so với yêu cầu thực tế; việc thiếu hụt lao động dẫn đến nhiều cơ sở không tuyển
đủ nhân viên phục vụ.
Ngoài ra, việc sử dụng lao động thời vụ gây khó khăn cho các đơn vị trong việc đảm
bảo chất lượng… Nhiều khách sạn, đặc biệt là cơ sở quy mơ nhỏ, để tiết kiệm chi phí,
chủ đầu tư thường kiêm chức danh quản lý dù chưa có chuyên môn, kiến thức quản lý
và ngoại ngữ nên việc điều hành, triển khai hoạt động kinh doanh, sử dụng người lao
động chưa chuyên nghiệp, dẫn đến tình trạng chất lượng phục vụ của cơ sở không đảm
bảo yêu cầu, hiệu quả kinh doanh thấp.


×