Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

nho gui giup em de chuyen vinh lan 3 nam 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.26 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2011</b>


<b>Gợi ý giải Môn Văn – Giáo dục Trung học Phổ Thông</b>
<i><b>Chú ý: Đây chỉ là phần gợi ý chỉ mang tính chất tham khảo thêm</b></i>
<b>Câu 1:</b>


Trong phần kết truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa, Nguyễn Minh Châu viết:


" Khơng những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tơi vẫn
cịn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy
là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng
của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, nếu nhìn lâu hơn,
bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. . .Mụ bước
những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hịa lẫn trong đám
đơng".


Đọc lại nhiều lần đoạn kết trên, tơi ngẫm nghĩ vì sao Nguyễn Minh Châu lại có cái
kết luận đầy ám ảnh như vậy? Qua cách nhìn lại tấm ảnh của nghệ sĩ Phùng, tác giả
muốn gởi gắm điều gì cho người đọc?


Tấm ảnh Chiếc thuyền ngoài xa được những người yêu nghệ thuật đánh giá cao.
"Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau" nó vẫn cịn giữ ngun
giá trị. Có thể nói cách khác, tấm ảnh ấy cũng đựơc treo trong những phòng khách
sang trọng của những người sành điệu. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức
mà Phùng đã bỏ ra để "phục kích" nhiều ngày mới chộp đựơc nó. Đó là vẻ đẹp mà
có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những người yêu nghệ thuật trân
trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có khi họ là những người yêu nghệ
thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh tồn bích, đáng
thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất. Và ai đã sưu tầm được nó,
chắc hẳn đã tự hào rất nhiều. Nghệ thuật là vơ giá!



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tấm ảnh , những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ.
Phùng là tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng Phùng lại khơng
nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người thưởng thức. Có thể nhiều người chỉ nhìn
bề ngồi thấy nó đẹp, thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu . . . rồi quên lãng! Còn
Phùng "mỗi lần ngắm kĩ", nghĩa là anh đã hơn một lần ngắm kĩ, rồi lại "nhìn lâu
hơn" . Điều đó nói lên, đằng sau tấm ảnh, vẫn cịn có điều gì khiến anh trăn trở.
Bao giờ anh cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. Người phụ nữ
hàng chài nghèo khổ vừa phải lo cái ăn, cái mặc cho một lũ con, vừa bị chồng đánh
liên miên "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Cái khổ, cái nghèo của
chị hiện ra trong hình dáng "tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt
sũng, khn mặt rỗ mệt mỏi, đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm". Hình ảnh nhẫn
nhục, cam chịu của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng, khơng
chống trả, cũng khơng tìm cách chạy trốn. Ngồi ra, cịn thằng Phác, chị nó, và cả
lão đàn ơng cục mịch, vũ phu. Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà để lại ấn tượng
sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng vẫn là hình ảnh người phụ nữ hàng chài.Chị là
đại biểu cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều. Hạnh phúc trong cuộc
đời họ là những điều rất đơn sơ, giản dị nhưng khơng phải bao giờ cũng có được
( lúc gia đình hịa thuận, vui vẻ, / lúc nhìn đàn con được ăn no . . .).


Cuộc đời họ bình thường, thầm lặng, vơ danh khơng ai biết đến nhưng họ là số
đông, là thành phần đại đa số của cư dân trên mặt đất nầy "bàn chân chị giậm lên
mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đơng". Họ chính là đám đơng đã bám gốc rễ
trên trên hành tinh nầy từ thuở có lồi người. Nhưng khổ nỗi, đám đông ấy dường
như xa lạ với những bức ảnh tuyệt mĩ thể hiện cuộc sống của họ, nói cách khác,
tấm ảnh nghệ thuật Chiếc thuyền ngồi xa đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngồi,
đằng sau nó cịn có những cuộc sống rách rưới, đói nghèo. Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm
bất động ở một nơi sang trọng trong những gia đình sành nghệ thuật!


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ kia. Nó chỉ là cái vỏ bọc của
những mảnh đời bất hạnh mà những người không trực tiếp chứng kiến như anh thì


sẽ khơng bao giờ cảm nhận được một cách đầy đủ đằng sau tấm ảnh kia chứa đựng
những gì. Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn cón một khoảng cách. Anh muốn thấu
hiểu, chia xẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm
lịng, vì thế mà anh "ngắm kĩ" rồi lại "nhìn lâu hơn", Phùng muốn đào bới những gì
trong một tấm ảnh rất quen thuộc của chính mình? Âu đó cũng là cái tâm của
người say mê nghệ thuật.


Có lẽ vì vậy mà Phùng dường như cịn muốn làm điều gì xa hơn, cụ thể hơn chăng
để cho nghệ thuật gắn liền với cuộc đời. Bằng khơng thì tấm ảnh đẹp như một giấc
mơ đó mãi mãi vẫn là Chiếc thuyền ngoài xa !


Một điểm nữa, Nguyễn Minh Châu cũng làm cho người đọc không thể bỏ qua
trong cách nhìn lại tấm ảnh của Phùng "tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm
kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai" . Phải chăng tác
giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhống bên ngồi, cái chất thật của
cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng . Nhưng nó khơng hồn toàn xám xịt,
hay đen tối làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, mà khi để hết tâm trí nhìn ngắm,
người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó. Chẳng qua là màu hồng
kia bị che lấp bởi vô vàn cái bùng nhùng, rối rám của cuộc đời - cũng như cuộc đời
thầm lặng, vô danh của người phụ nữ hàng chài kia tưởng như khơng có gì đáng
nói mà thật ra, một cách tình cờ, Phùng đã phát hiện ở chị những phẩm chất đáng
quý khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều và thay đổi quanh niệm về con người và
cuộc sống.


Tóm lại, qua đoạn kết, phải chăng Nguyễn Minh Châu muốn nói Chiếc thuyền
ngồi xa chính là vẻ đẹp của ước mơ, của lí tưởng mà người nghệ sĩ ln khát khao
vươn tới. Nhưng để cho nó có máu thịt của cuộc sống, người nghệ sĩ khi thể hiện
nó cần có một tấm lịng trân trọng, cảm thơng. Nó là nỗi dằn dặt, đau đáu khi người
nghệ sĩ cảm thấy mình chưa thể hiện được hết điều muốn nói.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Câu 3a:</b>


Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với
Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang
Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của
một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.


Tây Tiến khơng có một sáng tạo gì khác thường, đột xuất mà vẫn là sự tiếp tục của
dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ
khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một
thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng
đặc đắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong
đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành
của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài
thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.


Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh
mông.


<i>Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!</i>
<i>Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.</i>


Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ ấy
đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi nhớ…nhưng “nhớ
chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy
gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữ, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh
bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đồn qn Tây Tiến, xa
mà khơng hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải dài tạo nên
nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.



Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội ấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ,
khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với
bao kỷ niệm chống chất, ào ạt xô tới:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Mường Lát hoa về trong đêm hơi.</i>


Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ chơi
vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cải mệt mỏi của
đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại có một cái rất thơ, dường
như huyền thoại:


<i>Mường Lát hoa về trong đêm hơi. </i>


Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ không phải là
đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn sương vẫn cảm thấy hoa.
Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân
dường như đã tan biến hết. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là
thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người,
khác với:


<i>Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm</i>
<i>Heo hút cồn mây súng ngửi trời.</i>


Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân đầy
gian khổ, khó khăn. Tác giả khơng viết súng chạm trời mà là “súng ngửi trời” rất
sinh động, nghịch ngợm, thơng minh, hóm hỉnh.


<i>Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống</i>
<i>Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi</i>



Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng ngay sau đó lại là
một câu thơ tồn vần bằng. Xuân Diệu trước đây cũng chỉ viết được hai câu tồn
vần bằng mà ơng rất tâm đắc:


<i>Sương nương theo trăng ngừng lưng trời</i>
<i>Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được
tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác
thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc
chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như
một bức tranh hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” khơng thể
nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu
sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngơn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy.


Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ cũng là một
nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế củ
tác giả bắt rất nhạy từ một làn sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau núi phất phơ
đơn sơ bất chợt, rồi ơng thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một nỗi niềm
bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp.


Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nên
thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đồn qn Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối
lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ
khơng gì khuất phục nổi.


Trên đường hành qn đã có những người lính hy sinh. Tác giả khơng ngần ngại
nói đến cái chết:


<i>Anh bạn dãi dầu không bước nữa</i>


<i>Gục lên súng mũ bỏ quên đời.</i>


Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng rất
lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng cũng
rất bình thản. Những chiến sỹ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa quen
chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió.
Hình như tác giả khơng muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên
ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về những hiểm nguy
ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự bi lụy của cảm xúc ở câu trên.
“Cọp trêu người” – có một cái gì đó rất nghịch ngợm, rất lính.


Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:
<i>Ơi nhớ Tây Tiến cơm nên khói</i>


<i>Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.</i>


Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé trong
cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lịng. Hương thơm ấy
khơng chỉ là hương “nếp xơi” mà cịn là hương từ đơi bàn tay em – cô gái Mai
Châu.


Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng khơng bi lụy, mà
vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh mới mẻ, gợi
cảm và có chút lãng mạn.


Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá
của thời gian, Tây Tiến vẫn cịn sức quyến rũ chúng ta hơm nay, gợi nhớ về



“những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một
tượng đài bất tử” về người lính vơ danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm
hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà
nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ
Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>bồng bế nhau lên xanh xám như những bóng ma"</i> hoặc " dưới những gốc đa gốc gạo
<i>xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ lặng lẽ như những bóng ma"</i>. Người chết
thì như ngả rạ, khơng một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta lại khơng
thấy ba bốn cái thây người nằm cịng queo ở bên vệ đường. Mùi tử khí nồng nặc.
Tác giả cịn tơ đậm bức tranh hơn nữa bởi hình ảnh của bầy quạ đen chờ chực để
rỉa xác người chết. Cõi âm và cõi dương nhạt nhòa. Tất cả đang đứng bên bờ vực
của cái chết.


Trên cái nền chết chóc ấy, một buổi chiều người ta thấy Tràng về với một người
đàn bà nữa. Ai vậy ? Đó là vợ Tràng. Điều khơng thể tin lại phải tin trong tác phẩm
của Kim Lân. Vậy Tràng là ai ? Tràng lấy vợ như thế nào ?


<b>a/ Lai lịch </b>


- Xuất thân: dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bị th, ni mẹ già. Dân ngụ cư là
những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư khơng có ruộng đất, chỉ đi
làm thuê làm mướn. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa
làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là "nhà" thì ln "vắng
<i>teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại"</i>. Hơn nữa, vì là
dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc
ghẹo khi anh ta đi làm về.


<b>b/ Ngoại hình:</b>



- Tràng có ngoại hình xấu xí, thơ kệch. Đầu trọc nhẵn, hai con mắt nhỏ tí, gà gà,
<i>quai hàm bạnh ra, cái lưng to rộng như lưng gấu, đi thì cứ chúi đầu về phía trước </i>
<i>lại hay nói lầm bầm trong miệng, khi cười thì ngửa mặt lên cười hềnh hệch.</i>


<b>Nhận xét: Tràng là một nông dân nghèo khổ lại xấu xí. Nếu như trong thời bình, </b>
Tràng thuộc típ người khó có khả năng lấy vợ. Nhưng điều đó lại xảy ra vào đúng
cái nạn đói khủng khiếp. Tràng lấy được vợ hay nói đúng hơn là "<i><b>nhặt được vợ"</b><b>.</b></i>
<b>c/ Tình huống nhặt vợ của Tràng (diễn biến tâm lí)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

có người đàn bà đói xơng xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã
không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao
khi gặp được cái "cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một
<i>cách tình tứ như vậy đâu".</i>


<b>+ Hơm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có </b>
người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn " Điêu, người thế mà
điêu". Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt
hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách.
Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ
đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lịng thương. Có ai ngờ
được rằng trong con người thơ kệch ấy lại có một tấm lịng thương người cao cả.
Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều " bốn
<i>bát bánh đúc".</i> Đó chính là lịng thương một con người đói khát hơn mình chứ
Tràng khơng hề có ý định lợi dụng hoặc chịng ghẹo.


Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra
<i>khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thơi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầuTràng phảng </i>
phất lo sợ về cái đói và cái chết"mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái
<i>thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng". Đó là nỗi sợ hãi có </i>
thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát


vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ
<b>một từ "kệ" thơi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo </b>
<b>nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>vong của nạn đói ?</b>


<b>+ Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: hắn đưa </b>
<i>thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra </i>
<i>hàng cơm đánh một bữa no nê... Anh còn mua 2 hào dầu để thắp sáng. Đó có vẻ </i>
như là sự cố gắng quá mức của Tràng nhưng cũng rất dễ hiểu vì Tr sắp được làm
chồng.


<b>+ Trên đường về: (khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi).</b>
Hơm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng cứ
<i>"phớn phở khác thường".</i> Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát
người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn
nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm người đọc thấy được
sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã khác với Tràng hơm qua. Trong
lịng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến "Trong một lúc Tràng hình
<i>như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê </i>
<i>gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ </i>
<i>chỉ cịn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, </i>
<i>chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ơm ấp, mơn man khắp da thịt </i>
<i>Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng"</i> . Thế là rõ rồi: Hạnh phúc
đang làm anh thay đổi.


+ Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy " ngượng nghịu" rồi cứ thế " đứng tây ngây ra
<i>giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ". Nhưng đó chỉ là cảm giác thống qua thơi. Hạnh </i>
phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau
Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, khơng dám


tin đó là sự thật: "hắn vẫn cịn ngờ ngợ như khơng phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy
<i>ư ?".</i> Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

là Tràng đã có gia đình, có vợ, khơng tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật
hiển hách.


+ Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ
chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái
đêm tân hơn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu "Trong người
<i>êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra".</i> Đó là tâm trạng hạnh phúc.
Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi
tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn
<i>bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con </i>
<i>đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng". </i>


+Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là
<b>người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi </b>
tiếng trống thúc thuế ngồi đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra
nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt
hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho
thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lịng ân hận, tiếc
rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... ( giá trị nhân đạo,
tác giả mở ra con đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái
chết đó là chỉ có đi theo cách mạng mới giải phóng được cho họ)


</div>

<!--links-->

×