Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nghiên cứu các nguồn hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng được khai thác gỗ tại các tỉnh yên bái, sơn la và điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 98 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Quản lý tài nguyên rừng và đất rừng dựa vào cộng đồng là một phương
thức quản lý rừng dựa vào kiến thức kinh nghiệm truyền thống và nguyện
vọng của cộng đồng, hướng đến việc nâng cao năng lực và tăng cường sự hợp
tác chia sẻ kinh nghiệm cho cộng đồng và bên liên quan nhằm quản lý các
nguồn tài nguyên bền vững và góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
văn hoá của các cộng đồng dân tộc sống trong và gần rừng. Xu hướng phát
triển rừng cộng đồng là yếu tố quan trọng trong phát triển lâm nghiệp ở nhiều
quốc gia nhằm định hướng thu hút sự quan tâm của các cộng đồng để đóng
góp vào tiến trình quản lý rừng bền vững.
Trong những năm qua, ở Việt Nam xu hướng nhận thức về vai trò của
cộng đồng trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã có nhiều thay đổi. Rừng
cộng đồng đã tồn tại lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn của cộng đồng dân cư
sống dựa vào rừng. Vài năm gần đây, cộng đồng dân cư đã thực sự trở thành
người chủ rừng và từ đó nâng cao ý thức bảo vệ rừng, sử dụng rừng hợp lý,
góp phần nâng cao đời sống của chính những cộng đồng này.
Khái niệm về rừng cộng đồng đã được nhìn nhận một cách rộng rãi và
đang phát triển một cách nhanh chóng. Thực tế chỉ ra rằng trải qua nhiều thế
hệ, những cộng đồng sống trong rừng, phụ thuộc vào các sản phẩm từ rừng đã
đúc kết cho mình những kiến thức bản địa, những luật tục truyền thống trong
quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên rừng xung quanh họ.
Cộng đồng dân cư thơn bản được hiểu là tồn bộ các hộ gia đình, các cá
nhân sống trong cùng một thơn, làng, bản, ấp, bn, phum, sóc hoặc đơn vị
tương đương. Theo quyết định 106/2006/QĐ-BNN về việc ban hành Bản
Hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thơn thì khái niệm “Rừng cộng
đồng” được hiểu là rừng được Nhà nước giao cho cộng đồng dân cư thôn để
sử dụng rừng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.



2

Cho đến nay về mặt pháp luật, rừng đã được giao cho cộng đồng, cộng
đồng được khẳng định quyền bảo vệ và phát triển rừng, nhưng việc hưởng lợi
từ rừng như thế nào vẫn chưa được rõ ràng.
Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg về Quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ
gia đình, cá nhân được giao rừng. Nhưng đối tượng trong quyết định này
khơng có cộng đồng dân cư thơn bản.
Quyết định số 106/2006/QĐ-BNN về Ban hành bản hướng dẫn rừng cộng
đồng dân cư thôn. Quyết định này chưa phân định được rõ và cụ thể việc hưởng
lợi giữa các cộng đồng được các dự án hỗ trợ với các cộng đồng không được các
dự án hỗ trợ; chưa phân định rõ được việc hưởng lợi giữa các cộng đồng được
giao rừng được khai thác gỗ với các cộng đồng được giao rừng chỉ để bảo vệ và
phát triển...
Việc hưởng lợi của cộng đồng sau khi được giao rừng nếu chưa được
làm rõ, nhất quán và tương xứng với trách nhiệm của họ trong bảo vệ và phát
triển rừng thì chắc chắn không thể quản lý rừng bền vững. Nhằm làm rõ vấn
đề trên và trả lời các câu hỏi: Hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng đang
diễn ra như thế nào? Có ảnh hưởng đến quản lý rừng cộng đồng không? Giải
pháp phân chia, quản lý nguồn hưởng lợi này sao cho việc quản lý bảo vệ
rừng được bền vững?
Để góp phần làm rõ những vấn đề trên tơi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu các nguồn hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng được
khai thác gỗ tại các tỉnh Yên Bái, Sơn La và Điện Biên”. Đề tài được thực
hiện trên ba cộng đồng thuộc 3 tỉnh: Yên Bái, Sơn La và Điện Biên, là những
cộng đồng hiêṇ đang đươ ̣c Nhà nước giao bảo vê ̣, phát triể n rừng và đươ ̣c các
dự án hỗ trơ ̣ để nâng cao năng lực quản lý rừng.


3


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Thuật ngữ Cộng đồng theo FAO (1996) “Cộng đồng là những người
sống tại một chỗ, trong một tổng thể hoặc là một nhóm người sinh sống tại
cùng một nơi theo những luật lệ chung” còn lâm nghiệp cộng đồng theo FAO
(1999) là “bao gồm bất kỳ tình huống nào mà người dân địa phương tham gia
vào hoạt động lâm nghiệp”.
Theo J.E-Michael Arnld (1999) thuật ngữ Lâm nghiệp cộng đồng được
sử dụng với nghĩa hẹp hơn “Là các hoạt động lâm nghiệp cộng đồng được tổ
chức bởi các nhóm đồng sử dụng tài nguyên rừng trong một làng”.
Thuật ngữ Lâm nghiệp cộng đồng đã được đề cập ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Nó hình thành với mục đích tạo dựng một phương thức quản lý rừng
cộng đồng, phân cấp trong quản lý rừng, rừng được quản lý bền vững. Mặt
khác đối với người dân đang sống phụ thuộc vào rừng các giải pháp quản lý
bảo vệ rừng đóng góp vào việc sinh kế và cải thiện đời sống của họ. Từ quan
điểm đó, hình thành các phương thức, các chương trình hoạt động quản lý
rừng cộng đồng.
Tính đến thời điểm hiện nay lâm nghiệp cộng đồng đã trải qua ba giai
đoạn: Giai đoạn thứ nhất phần lớn những người bên ngoài cuộc xác định vấn
đề và đề ra quyết định để giải quyết vấn đề đó. Kết quả đạt được đều khơng
đáng khích lệ, sự quan tâm của cộng đồng thường theo thời gian mà lắng
xuống. Rất ít các cộng đồng tiếp tục các hoạt động sau khi những người ngoài
cuộc rút lui, và tất nhiên tính bền vững khơng đạt được. Giai đoạn thứ hai
những người ngoài cuộc xác định vấn đề và đề ra phần lớn quyết định, nhưng
họ đã bắt đầu tham khảo ý kiến của những người trong cộng đồng, thông qua
các cuộc phỏng vấn. Kết quả là những người ngoài cuộc đã bắt đầu nhận thức



4

được rằng những người trong cộng đồng có khá nhiều hiểu biết và thường có
cách giải quyết vấn đề phù hợp và hiệu quả hơn. Giai đoạn thứ ba những người
ngoài cuộc chỉ là những người hỗ trợ và thúc đẩy, cịn những người trong cộng
đồng là những những tích cực xác định vấn đề và đề ra các giải pháp. Cách làm
này đã mang lại những kết quả đáng khuyến khích làm cho người dân trong
cộng đồng tự nhận thức được vấn đề và chủ động trong việc đề ra các giải pháp
mà họ có thể thực hiện được. Tuy vậy trong các giai đoạn này vấn đề hưởng lợi
từ rừng cộng đồng cũng chưa được làm rõ.
Hình thức quản lý rừng cộng đồng đã xuất hiện từ rất lâu trong q trình
sản xuất nơng lâm nghiệp của lồi người. Tuy nhiên sự thống trị của chế độ
thực dân của người Châu Âu diễn ra trên diện rộng và kéo dài cho tới thế kỷ
20 đã có những ảnh hưởng tiêu cực đối với hệ thống quản lý cây và rừng cổ
truyền ở nhiều địa phương. Chính sách thực dân đã đập tan các hệ thống quản
lý cổ truyền về tài nguyên ở các địa phương cùng với những nguồn kiến thức
bản địa về tài nguyên và hệ sinh thái nơi đó. Trong thời gian hậu thuộc địa,
nhiều nhà quản lý sử dụng rừng vẫn chịu ảnh hưởng của những lực lượng từ
bên ngồi và cũng góp phần khơng nhỏ trong việc làm suy giảm tài nguyên
rừng trên thế giới.
Một thực tế mà chúng ta có thể kết luận rằng, khi mà các cộng đồng dân
cư không phải là nhân tố tham gia thực hiện quản lý rừng, họ khơng thấy
được trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc quản lý tài ngun rừng
thì ở đó tài ngun rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Khi chính phủ của các
quốc gia giao quyền quản lý những khu rừng và tạo cơ hội cho người dân,
cộng đồng được hưởng lợi từ rừng, khi đó những vấn đề như đói nghèo, suy
thoái tài nguyên dần dần được đẩy lùi và cộng đồng địa phương sẽ nhận ra
trách nhiệm của chính họ trong việc bảo vệ và quản lý tài nguyên rừng, thúc
đẩy cho sự phát triển của các cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào rừng.



5

Thực tế trên thế giới cho thấy đã có rất nhiều các nghiên cứu về các khía cạnh
cải tiến chính sách, thể chế, cách tiếp cận, áp dụng công nghệ trên cơ sở kiến thức
bản địa để phát triển quản lý dựa vào rừng cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm
tốt có thể kế thừa và vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
1.1.1. Châu Á
Tại Châu Á, rừng được coi là một trong những tài nguyên quan trọng
nhất. Rừng được quản lý bảo vệ dựa trên cơ sở nhóm, ở bất cứ tình huống
nào, trách nhiệm quản lý rừng đều được giao cho một nhóm hoặc tập thể như
dòng họ, bộ tộc hoặc đẳng cấp (quản lý thôn xã), làng bản hoặc cộng
đồng…Rừng ở đây được giao cho một tập thể có tổ chức, được nắm một số
quyền về đất và cây rừng, cùng với các sản phẩm trên đó [21,T28]. Quản lý
rừng cộng đồng ở Châu Á thường được quan tâm chú ý ở một số nước như:
Tại Ấn Độ, có nhiều loại rừng lăng miếu, những rừng này đều được các
tổ chức tôn giáo hoặc nhóm cộng đồng địa phương quản lý, đồng thời người
dân địa phương ở Ấn độ đã bảo vệ được các đám rừng có diện tích từ 0.5 – 10
ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại
những lùm cây thiêng đó hình thành từ những xã hội chun săn bắt và hái
lượm và việc lấy bất kỳ một sản phẩm nào ra đều là cấm kỵ và nó cũng đã
góp phần vào việc duy trì và mở rộng tài nguyên rừng.
Ở đất nước này còn tồn tại khái niệm “Nistar” là quyền hưởng thụ cổ
truyền các lâm sản như củi, gỗ và tre nứa. Vào nửa cuối thế kỷ 19, theo thông
tục ở Ấn độ mỗi làng được cấp một diện tích đất hoang hóa và đất rừng bằng
hai lần diện tích đất canh tác của thơn bản. Tất cả các diện tích rừng thừa ra
đều được chỉ định là rừng cấm và được quản lý theo Luật lâm nghiệp Ấn độ.
Năm 1951 Ấn Độ đã tiến hành quốc hữu hoá các tài nguyên rừng và thực
hiện luật cải cách ruộng đất. Vào đầu những năm 70, chính phủ ban hành
nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển trên đất không lâm nghiệp. Do



6

các chương trình LNXH khơng mang lại kết quả như mong đợi, từ năm 1988,
chính phủ ban hành chính sách mới về lâm nghiệp cộng quản trên đất lâm
nghiệp. Mục tiêu cơ bản là lơi kéo và khuyến khích người dân và cộng đồng
của họ tham gia vào quá trình quản lý tài nguyên rừng trên đất lâm nghiệp của
Nhà nước. Người dân và các cộng đồng của họ được hưởng các sản phẩm phụ
và một phần sản phẩm gỗ tuỳ theo điều kiện của các bang.
Chương trình LNXH được thực hiện trên đất của làng bản và tư nhân.
Mục tiêu của chương trình nhằm giảm sức ép đối với các khu rừng cơng
nghiệp do chính phủ quản lý. Chính phủ huy động nông dân, trường học và
các tổ chức xã hội tham gia vào trồng rừng gỗ nhiên liệu. Các chương trình
lâm nghiệp xã hội tại Ấn độ tập trung giải quyết một số vấn đề như: Giúp đỡ
dân nghèo và cố nông được quyền hưởng thụ các tài sản công cộng của thôn
bản và đất đai của cơ quan lâm nghiệp trên đó họ có thể trồng các lồi cây
rừng và các lồi cỏ thích hợp; Tuyển chọn các biện pháp kỹ thuật có hiệu quả
kinh tế cho từng khu sinh thái cụ thể; Tổ chức các cộng đồng địa phương để
tiến hành phát triển có hiệu quả công tác lâm nghiệp xã hội.
Nepan việc quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng trong đó có rừng và các tài
sản khác thường gắn với các thôn bản nhỏ và hiu quạnh. Tính chất của việc
quản lý tài nguyên rừng ở đây thường có những nét chung và khá hiệu quả về
mặt bảo vệ. Các chỉ tiêu về quy chế tổ chức thường dựa trên ý kiến thống nhất
của cộng đồng và cũng là cốt lõi của những hệ thống quản lý rừng bản địa.
Những hệ thống rừng bản địa này được xây dựng từ năm 1950, từ đó đến nay
Chính phủ Nepan đã có những thay đổi mạnh mẽ về thái độ đối với rừng vùng
đồi, đây là một sự chuyển biến sâu sắc. Nguyên nhân là do nạn tàn phá rừng
ngày càng gia tăng và có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân bản
địa. Đầu tiên là việc thi hành luật bảo vệ phát triển rừng thơng qua hệ thống

pháp luật của chính phủ, nhưng việc đó đã thất bại. Sau đó đã có nhiều thay


7

đổi về chính sách, luật lệ chuyển việc quản lý rừng cho chính những người sử
dụng chúng ở thơn bản.
Tại Thái Lan, từ những năm 1968, chính phủ ban hành chính sách
khuyến khích người dân định canh định cư trên các vùng đất đã bị tàn phá
nặng nề do đốt nương làm rẫy và khai thác gỗ. Chính sách lâm nghiệp năm
1985 đã chỉ rõ:
- Các cộng đồng, tổ chức và cá nhân phải cùng nhau phát triển và quản
lý các vùng lâm nghiệp.
- Nhà nước phát triển một chương trình khuyến lâm để nâng cao nhận
thức và hỗ trợ nơng dân phát triển lâm nghiệp.
- Khuyến khích phát triển mọi hoạt động lâm nghiệp cộng đồng.
- Phát triển hệ thống khuyến khích trồng rừng do các cá nhân và hộ gia
đình đảm nhận.
Năm 1989, lâm nghiệp Hồng gia đã đưa ra chính sách về phát triển lâm
nghiệp cộng đồng. Năm 1992, lâm nghiệp Hoàng gia lại đưa ra chỉ thị và
hướng dẫn mới qui định phân quyền hạn nhiều hơn cho các cấp tỉnh và huyện,
chức năng khuyến lâm được nhấn mạnh hơn là chức năng bảo vệ thuần tuý.
Thời kỳ những năm 1980, chính phủ phát triển các chương trình lâm
nghiệp cộng đồng và hình thành hệ thống khuyến lâm trong tồn quốc. Năm
1990, chính phủ ban hành kế hoạch phát triển lâm nghiệp dài hạn.
Trong giai đoạn 1954 - 1967, các tổ chức công nghiệp rừng đã hình thành
chương trình làng lâm nghiệp trên cơ sở giao giao đất của Nhà nước, các tổ chức
lâm nghiệp hỗ trợ xây dựng các làng lâm nghiệp. Các tổ chức quốc tế đầu tư vào
phát triển lâm nghiệp cộng đồng qua các dự án như: Dự án quản lý vùng đệm, dự
án phát triển lâm nghiệp cộng đồng của SDC Thuỵ Sỹ, dự án bảo tồn thiên nhiên

trên cơ sở cộng đồng của Quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới...


8

Tại Chiang Mai – Thái Lan, tháng 9/2001 đã tổ chức một hội thảo quốc
tế về lâm nghiệp cộng đồng, trong đó đã phản ánh nhu cầu phát triển phương
thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Nhìn chung việc phân chia lợi ích hay cịn gọi là quyền hưởng lợi giữa
những người dân cộng đồng bản địa với Nhà nước và các tổ chức bên ngoài
cộng đồng ở những nước này vẫn đang là quan hệ mâu thuẫn gay gắt nhất.
Phần lớn các nước này đều đang phải gánh chịu hậu quả của cách can thiệp từ
trên xuống trong việc quản lý tài nguyên mà không quan tâm tới truyền thống
địa phương, kinh nghiệm và khả năng của người dân. Do chưa có những thỏa
thuận hợp lý giữa những thành viên bên ngoài và bên trong cộng đồng trong
việc quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng và phân chia các lợi ích từ rừng nên dẫn
đến hậu quả là tài nguyên rừng và đất rừng ngày càng bị suy giảm. Người dân
cộng đồng địa phương cũng như là các tổ chức bên ngoài cộng đồng của các
nước trên hầu hết đều có những biện pháp cố gắng duy trì nguồn tài nguyên
đã bị suy thoái nhưng chưa đạt được hiệu quả. Do đó hầu hết các nước này
đều đang phải thử nghiệm thực hiện một số các chương trình, hoặc cải thiện
chính sách nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa mong muốn của người dân bản
địa cùng với lợi ích của quốc gia như là sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường sinh thái.
Tại Indonesia, người dân ở vùng Kalimanta có tập quán canh tác du canh,
lúc ban đầu du canh được tiến hành tại các khu rừng tự nhiên, sau đó các diện
tích rừng thứ sinh cũng được sử dụng, từng bước các hộ gia đình đã bắt đầu đòi
hỏi quyền được sở hữu nương rẫy và đất bỏ hóa. Với áp lực dân số ngày càng
gia tăng những quyền lợi đó được mở rộng cho thế hệ tiếp theo. Những nguồn
lâm sản phụ như song mây, gỗ trầm hương và tổ ong đã có sự cạnh tranh và

khơng thỏa hiệp về lợi ích giữa người dân địa phương và những người bên
ngoài. Tại miền Nam và Tây Sumatra, các thành viên cộng đồng có quyền thu


9

hái lâm sản và mở nương làm nông nghiệp trên đất rừng của làng, trong đó một
số đám rừng được giữ lại và không ai được đụng chạm tới chúng [21, T68,
T76].
Tại Tiamor, Indonesia, tất cả đất đai được công khai xếp vào loại adapt
tức là đều thuộc quyền sở hữu của địa chủ lớn địa phương, mãi cho tới cuối thế
kỷ 20 những người nông dân mới được hưởng quyền sử dụng đất. Vào những
năm 1940 và 1950, tại huyện Amarasi, người ta đã đề ra nhiều bước để cải tiến
việc quản lý đất đai. Những biện pháp đó đều dựa trên bộ luật Adat và sau đó
được luật lệ nhà nước củng cố để thi hành tại 64 thơn bản của huyện. Chúng
gồm có nghĩa vụ trồng các hàng cây Keo dậu (Leucaena leucocephala) theo các
đường đồng mức trên các lơ nương rẫy trước khi bỏ hóa, và một phần sử dụng
đất tách rời các khu canh tác với các khu lâm súc dành cho chăn thả [21, T83].
Mặc dù, thành công của các hệ quản lý tập thể được đảm bảo tốt nhất với
những nhóm nhỏ, các ví dụ nêu trên cho biết rằng quản lý rừng cộng đồng
cũng đã phát triển tại các cộng đồng lớn hơn. Tuy nhiên, việc đó cũng địi hỏi
phải tăng cường xác định chính xác và thực hiện các thủ tục dành cho việc
kiểm tra theo dõi và thi hành luật lệ đề ra.
Năm 1988 chính phủ đã ban hành quy định u cầu các cơng ty khai thác
gỗ phải góp phần phát triển kinh tế - xã hội và quản lý tài nguyên rừng trong 3
chương trình:
- Chương trình lâm nghiệp xã hội: Chính phủ huy động người dân vào
phục hồi rừng đước, sản xuất các sản phẩm phụ từ rừng…
- Chương trình phát triển làng bản: Tiến hành phân tích các điều kiện
kinh tế - xã hội văn hóa, nâng cao nhận thức của người dân qua tuyên truyền

và huấn luyện, hỗ trợ một số vật tư thiết yếu.
- Chương trình định canh định cư: Nhà nước cung cấp sử dụng, hỗ trợ kỹ
thuật và dịch vụ để tạo ra nhiều sản phẩm ngồi gỗ cho nơng dân.


10

Đầu những năm 1980, Bộ Lâm nghiệp Indonesia đã phát triển một
chương trình LNXH đối với trồng rừng Tếch trên đất do nhà nước quản lý với
3 mục tiêu là nâng cao hiệu quả trồng rừng và mở rộng các chức năng của
rừng, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho nơng dân, cải thiện quan hệ giữa
Chính phủ và nông dân qua quan hệ địa phương.
Năm 1992, chương trình phát triển làng lâm nghiệp được hình thành.
Năm 1995 đổi tên thành chương trình phát triển cộng đồng làng Lâm nghiệp
do Bộ Lâm nghiệp quản lý.
Năm 1996, Bộ Lâm nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và các trường đại
học đã thiết kế một dự án lôi kéo người dân vào bảo vệ và phát triển rừng. Các
tổ chức quốc tế cũng đã có các dự án hợp tác với Bộ Lâm nghiệp như dự án
phát triển LNXH của GTZ (Đức), quản lý rừng truyền thống với đại học
Harward (USA)…
- Tại miền núi ở Nam Á thường có một mắt xích chặt chẽ theo cổ truyền
giữa đất nơng nghiệp tư và rừng. Rừng cung cấp những vật tư quan trọng cho toàn
bộ việc kinh doanh trang trại như phân xanh, năng lượng củi đun nấu, sưởi ấm và
cho cả việc xây dựng nhà cửa, chuồng trại dưới dạng gỗ xây dựng và nhà cột.
Rừng cũng là đất đai chăn thả và cung cấp thức ăn gia súc cho toàn bộ
vật ni của nơng dân trong đó có trâu, bị, dê, cừu là thành phần quan trọng
của hệ canh tác địa phương. Mối quan hệ khăng khít giữa con người, đất đai,
gia súc với rừng trong đó nội bộ các hệ canh tác sinh tồn đã dẫn tới một loạt
tổ chức địa phương nhằm quản lý rừng công cộng trên phần đất lớn của lục
địa này. Các phương thức quản lý rừng không chỉ hướng về việc thu lượm các

sản vật của gỗ mà còn hướng tới việc kiểm tra thu hái thức ăn gia súc và chăn
thả trong rừng. Nhiều phương thức quản lý như luân canh đồng cỏ, chăn thả
gia súc, hoặc chặt cụt ngọn cành cây để nuôi gia súc tại chuồng thường được
vận dụng và bổ sung thay thế cho cách chăn thả tự do suốt đêm ngày.


11

Tại Phillippin, sau năm 1971, Chính phủ ban hành chính sách cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cá nhân và cộng đồng trong thời gian
25 năm và sau đó có thể gia tăng thêm thời hạn. Tại Phillippin có những cơ
chế cơng nhận quyền sử dụng đất rừng lâu dài cho cộng đồng. Đến thời kỳ
những năm 1980, Chính phủ phát triển 3 chương trình, trong đó liên kết lâm
nghiệp với các hoạt động phát triển kinh tế xã hội tổng hợp miền núi.
Sau năm 1949, Trung Quốc thành lập hệ thống hợp tác xã nông nghiệp.
Hệ thống lâm nghiệp chỉ do nhà nước và hợp tác xã quản lý. Đầu năm 1978,
Trung Quốc thực hiện cải cách và một cửa, hộ gia đình được giao đất và rừng.
Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình khơng kể
nó thuộc sở hữu Nhà nước hay tập thể. Năm 1984, Luật Lâm nghiệp của nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa được chính thức ban hành.
Luật Lâm nghiệp yêu cầu mọi cá nhân và tổ chức phải trồng rừng trên khu
đất trống đồi núi trọc. Quyền sử dụng và quản lý rừng thuộc về tập thể hay cá
nhân trồng rừng không kể đất thuộc quyền sở hữu của ai. Chính phủ dành 10%
ngân sách lâm nghiệp để phát triển chế biến lâm sản, các sản phẩm ngồi gỗ.
Chính phủ Trung Quốc xây dựng chương trình trồng rừng quốc gia từ
năm 1989 đến 2000 với mục tiêu là trồng 20 triệu ha cây mọc nhanh, xây
dựng hệ thống rừng bảo vệ và 1 dự án trồng cây chắn cát. Đến cuối năm 1991,
lượng cây trồng phân tán đã tương đương 13 triệu ha. Tuy nhiên, chính phủ
vẫn phát triển các chương trình nhằm hỗ trợ cho phát triển lâm nghiệp cộng
đồng dưới hình thức tự nguyện.

1.1.2. Châu Mỹ La Tinh
Châu Mỹ La Tinh là vùng còn nhiều rừng che phủ nhất trong các nước
đang phát triển, với 996 triệu ha rừng và độ che phủ lên tới 48%. Hơn một
nửa rừng nhiệt đới trên thế giới hiện còn nằm ở khu vực này. [21, T194]


12

Tài nguyên rừng là một trong những yếu tố quan trọng đối với vấn đề
phát triển kinh tế, sinh thái và xã hội của một đất nước. Nhưng ở các nước
Châu Mỹ La Tinh hoạt động lâm nghiệp và những hoạt động dựa vào tài
nguyên rừng đã không được chú trọng, rừng bị tàn phá, diện tích rừng bị giảm
xuống nhanh chóng, kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề như: Xói mịn đất,
nguồn nước cạn kiệt, sự tuyệt chủng và biến mất hoàn toàn của nhiều loài
động thực vật. Suy thối mơi trường, trái đất nóng lên và mất đi nhiều nguồn
gen quý hiếm. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia ở Châu Mỹ La Tinh đã
thực hiện theo hai cách: Một là Nhà nước nắm quyền quản lý rừng, hai là nhà
nước trao trách nhiệm quản lý rừng cho chính những người sử dụng rừng. Có
thể là cá nhân hoặc tập thể (cộng đồng), kết quả là gắn việc quản lý bảo vệ
rừng vào họ, từ đó tạo nên khả năng sử dụng rừng lâu dài bền vững, góp phần
cải thiện về mơi trường và xã hội.
Đối với các nhóm bản địa và tộc người Mestizo ở Châu Mỹ La Tinh,
rừng theo cổ truyền xa xưa là nơi người dân có thể đi săn bắt động vật và cơn
trùng đồng thời thu hái các lồi cây và nhiều sản phẩm khác. Cây rừng được
sử dụng làm vật liệu xây dựng, cung cấp dược liệu, lương thực thực phẩm,
hương liệu, các chất nhuộm, gôm và nhựa. Côn trùng được săn bắt như là
nguồn chất đạm (protein) và cũng được dùng để khống chế các nạn dịch côn
trùng. Quyền được hưởng thụ các tài nguyên rừng cho phép người dân bản
địa phát triển nhiều phương pháp tạo ra được nguồn lợi tức, làm giảm sự lệ
thuộc của họ vào các chương trình hỗ trợ của nhà nước. [21, T199]

Hecht, S.B và Cockburn,A (1989, the fate of forest, số phận của rừng)
đã chỉ rõ ra rằng, phần lớn rừng Amazon là sản phẩm do các hoạt động của
con người, con người tác động vào các môi trường rừng để phục vụ cho mục
đích của mình. Các khu rừng trên thực tế đã được quản lý và chúng ta có thể


13

hiểu được các cơ chế quản lý đó qua cơ sở sinh thái và nhân văn của nhân dân
bản địa và những người Mestizo. [21,T237]
- Tại Châu Mỹ hiện có nhiều điển hình về quản lý rừng và nơng lâm kết
hợp do các cộng đồng địa phương thực hiện. Đó là phương thức làm nương
bỏ hóa tại vùng Amazon của dân bản địa và phương thức nông lâm kết hợp
Huastec tại Mexico của người Mestizo.
Ở phương thức làm nương bỏ hóa của hai bộ lạc Amuesha và Bora đều sử
dụng hệ thống nông nghiệp mà trên thực tế là một sự chuyển hóa của một hệ canh
tác hoa màu ngắn ngày sang một hệ nông lâm kết hợp dài ngày. Mặc dù phần lớn
việc quản lý đều do các gia đình đơn lẻ thực hiện nhưng trang trại thì khơng có
ranh giới vĩnh cửu, các đám nương do một gia đình canh tác thường nằm rải rác ở
nhiều nơi khác nhau trên mảnh đất thuộc quyền quản lý của cộng đồng. [21,
T201]
Hệ sinh thái nông lâm nghiệp của người Huastec thường bền vững và
tạo điều kiện cho rừng tái sinh và đảm bảo được các tài nguyên tự nhiên để sử
dụng sau này. Người Huastec tạo nên các đám rừng thứ sinh và nguyên sinh
kết hợp với việc gây trồng cây nhập nội như cà phê, một số luân canh theo
kiểu gắn việc sản xuất ngô với rừng thứ sinh đang diễn thế. [21, T225]
- Tại Bolivia, mơ hình phát triển quản lý tài nguyên rừng đều tập trung
vào việc tổ chức các hợp tác xã lâm nghiệp, người ta đã tiến hành xây dựng
thêm các xưởng cưa để tạo thêm lợi tức, kết hợp với việc quản lý rừng nhằm
đạt được tính sản xuất bền vững. Mặc dù cây rừng được tập thể quản lý, người

ta vẫn cần có giấy phép khai thác do các nhà đương cục của chính phủ Bolivia
cấp phát hàng năm. Cộng đồng dành lại những lồi cây nhập nội và có giá trị
cao đề xây dựng một quỹ tiết kiệm chỉ được dùng tới khi rất cần thiết. [21,
T210]


14

- Tại Peru, Chương trình quản lý tài nguyên Selva Trung ương, năm
1980 được phát triển, chương trình này nhằm vào việc quản lý tài nguyên
rừng đặc biệt là rừng đầu nguồn với mục tiêu là tạo ra nguồn công ăn việc làm
và lợi tức bằng tiền cho các thành viên cộng đồng đồng thời bảo tồn các rừng
tự nhiên của cộng đồng được quản lý. [21, T211]
- Tại Braxin, việc nghiên cứu nhóm người Indieng Kapor tại miền đơng
Amazon, Braxin đã chứng minh rằng các nhóm bản địa đã xử lý hệ động thực
vật và cuối cùng đã làm tăng được tính đa dạng sinh học. Điều đó góp phần vào
việc duy trì và nâng cao khả năng cung ứng của rừng cho con người trong thời
gian dài. [21, T226]
- Tại Mexico sự tham gia của nông dân vào việc quản lý, bảo vệ và nâng
cao tài nguyên rừng được thực hiện của một chính sách có tên là “Kinh tế lâm
nghiệp thôn xã” đã cho thấy sự tham gia trực tiếp của người dân địa phương
đã là chìa khóa cho sự thành cơng của các chương trình mong muốn phát triển
tài nguyên rừng cộng đồng. [21, T238]
Nhìn chung tại châu lục này đã và đang song song tồn tại hai hệ thống
quản lý rừng đó là hệ thống quản lý rừng địa phương, được tồn tại và duy trì
do sự tích lũy kiến thức bản địa của người dân trong việc xây dựng các thành
phần trong hệ thống đó và hệ thống quản lý rừng gắn với bên ngoài, hệ thống
này thường gắn liền với sự hỗ trợ về khoa học và tài chính từ bên ngồi cộng
đồng với mục tiêu cuối cùng là nhằm vào các hệ sinh thái và thúc đẩy người
dân trong cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng. Sự

cạnh tranh về mặt hưởng những lợi ích từ rừng của những người dân trong
cộng đồng với Nhà nước và các tổ chức bên ngoài ở Châu lục này đã ít gay
gắt hơn và bắt đầu bước sang giai đoạn hợp tác cùng phát triển. Các chương
trình thường chú trọng việc tham khảo và sử dụng những ý kiến người dân ở
tại cộng đồng trong việc bảo vệ và phát triển rừng


15

1.2. Ở Việt Nam
Ngày nay, quản lý rừng cộng đồng đang trở thành một trong những phương
thức quản lý rừng phổ biến ở Việt Nam và tồn tại song song với các phương
thức quản lý khác như quản lý rừng của hệ thống sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp nhà nước, quản lý tư nhân. Trong thực tiễn, có nhiều hình thái biểu hiện
khác nhau, đa dạng và phong phú của phương thức quản lý rừng này, càng
khẳng định vai trò của quản lý rừng cộng đồng như: Rừng và đất rừng do cộng
đồng tự công nhận và quản lý từ lâu đời; rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích
lâm nghiệp của các tổ chức nhà nước (lâm trường, Ban quản lý rừng đặc dụng và
rừng phòng hộ, Ban quản lý các dự án) khoán cho các cộng đồng khốn bảo vệ,
khoanh ni và trồng mới theo hợp đồng khốn rừng; rừng và đất rừng của hộ
gia đình và cá nhân là thành viên trong cộng đồng tự liên kết lại với nhau thành
các nhóm cộng đồng (nhóm hộ) cùng quản lý tạo nên sức mạnh để bảo vệ, hỗ
trợ, đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2007 cả nước có 10.006 cộng đồng dân cư
thôn, chủ yếu là các cộng đồng các đồng bào dân tộc ít người, đang quản lý,
sử dụng 2.792.946,3ha rừng và đất trống đồi núi trọc (gọi chung là đất lâm
nghiệp) để xây dựng và phát triển rừng, trong đó: 1.916.169,2 ha đất có rừng
(chiếm 68,6%) và 876.777,1 ha đất trống đồi núi trọc (chiếm 31,4%). Diện
tích đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý chiếm 15% tổng diện tích rừng của
cả nước (12.873.815 ha). Trong diện tích đất lâm nghiệp có rừng do cơng

đồng quản lý và sử dụng thì rừng tự nhiên chiếm tuyệt đại đa số lên đến 96%,
rừng trồng chỉ chiếm có 4%. Cộng đồng quản lý chủ yếu rừng phòng hộ, đặc
dụng (71%), rừng sản xuất chỉ chiếm 29%. Cộng đồng quản lý và sử dụng đất
lâm nghiệp nêu trên với 3 hình thức sau:
- Thứ nhất, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định
lâu dài (có quyết định hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và rừng, sau


16

đây gọi tắt là giao) với diện tích 1.643.251,2 ha tương đương 58,8% diện tích
đất lâm nghiệp do cộng đồng quản lý và sử dụng.
- Thứ hai, rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý từ lâu
đời nhưng chưa được Nhà nước giao (chưa có bất kỳ một loại giấy tờ hợp
pháp nào, gọi tắt là chưa giao) với diện tích 247.029,5ha tương đương 8,9%.
Đó là các khu rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước, những khu rừng cung cấp
lâm sản truyền thống cho cộng đồng.
- Thứ ba, rừng và đất rừng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp của các tổ
chức Nhà nước (Lâm trường, Ban quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng
hộ…) được các cộng đồng nhận khốn bảo vệ, khoanh ni, trồng mới theo
hợp đồng khoán rừng lâu năm, 50 năm, gọi tắt là nhận khốn với diện tích
902.662,7ha tương đương 32,3%.
Đến nay Việt Nam đã có khung pháp lý và chính sách cơ bản cho phát
triển lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ), được thể hiện trong hai bộ luật lớn: Luật
đất đai năm 2003 và Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; và các văn bản
chính sách khác. Khung pháp lý và chính sách này thể hiện các điểm căn bản
như cộng đồng dân cư là chủ rừng, người sử dụng rừng có tư cách pháp nhân
đầy đủ tuỳ theo từng điều kiện của mỗi cộng đồng và đối tượng giao hay nhận
khoán. Cộng đồng được giao đất, giao rừng, nhận hợp đồng khoán rừng lâu dài

khi đáp ứng các qui định của pháp luật và chính sách hiện hành. Cộng đồng
được hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ khi tham gia quản lý rừng theo
qui định của pháp luật.
Các loại rừng cộng đồng hình thành từ các nguồn gốc khác nhau nhưng
đều được 3 chủ thể chính quản lý là cộng đồng dân cư thơn, dịng tộc và
nhóm hộ hoặc nhóm sở thích. Đối với rừng do cộng đồng dân cư thơn và
dịng tộc quản lý thường ở các vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số phù hợp với tập quán truyền thống, điều kiện sản xuất và thị trường kém
phát triển, trình độ quản lý cịn thấp. Rừng do nhóm hộ hoặc nhóm sở thích


17

cùng nhau liên kết để quản lý thường ở các vùng sản xuất và thị trường phát
triển, đang dần tiếp cận sản xuất hàng hố, trình độ sản xuất của các hộ nơng
dân cao, khả năng đầu tư lớn. Chính từ cơ sở này mà quản lý rừng cộng đồng
ở Việt Nam đang dần hình thành theo hai xu hướng phù hợp điều kiện cụ thể
ở từng vùng, đó là quản lý rừng cộng đồng đáp ứng nhu cầu sinh kế và quản
lý rừng cộng đồng cho sản xuất hàng hoá.
Quản lý rừng cộng đồng đáp ứng nhu cầu sinh kế ở các vùng sâu vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với tập quán truyền thống, điều kiện sản
xuất và thị trường kém phát triển; trình độ quản lý còn thấp. Các sản phẩm từ
rừng chủ yếu được sử dụng cho tiêu dùng trong cộng đồng như gỗ để làm nhà,
củi đốt, khai thác lâm sản ngoài gỗ. Rừng được quản lý theo truyền thống được
qui định trong hương ước của cộng đồng. Nhà nước và địa phương cần có chính
sách riêng về qui chế khai thác và sử dụng lâm sản cũng như cung cấp các dịch
vụ kỹ thuật, tổ chức và vốn để cộng đồng có thể quản lý rừng.
Quản lý rừng cộng đồng chi sản xuất hàng hoá ở các vùng sản xuất và thị
trường phát triển, đang dần tiếp cận đến sản xuất hàng hố, trình độ sản xuất
của các nơng hộ cao, khả năng đầu tư lớn. Các hình thức quản lý rừng cộng

đồng sẽ đa dạng và phong phú ở trình độ cao hơn như thành lập tổ chức kinh
tế rừng cộng đồng có pháp nhân, có thể là hợp tác xã của cộng đồng, doanh
nghiệp cộng đồng cho quản lý rừng và chế biến lâm sản, vv…hoạt động theo
luật doanh nghiệp. Trong trường hợp này cộng đồng dân cư thôn sẽ tiến tới
thực sự là chủ thể đầy đủ trong quản lý và sử dụng rừng.
Trong những năm qua, nhiều chương trình, đề án, dự án về quản lý rừng
cộng đồng của chính phủ, các tổ chức quốc tế được thực hiện ở nhiều nơi mang
lại nhiều kết quả. Nhiều hoạt động về quản lý rừng cộng đồng được thực hiện
trên khắp cả nước đã mang lại nhiều thành cơng. Bài học từ thực tiễn chỉ ra
rằng có nhiều điển hình tốt về quản lý rừng cộng đồng bởi các qui ước của
cộng đồng, nghĩa vụ và quyền lợi công bằng cho các thành viên trong cộng


18

đồng, các thành viên trong cộng đồng ý thức về rừng bằng sự tự giác vốn có,
bằng sự nghiêm khắc của cộng đồng, bằng sự tín ngưỡng hoặc tâm linh.
Thực tiễn cũng cho thấy do tính đa dạng của các cộng đồng nên khơng
thể có một mơ hình LNCĐ chung mà cần có các loại hình LNCĐ khác nhau,
phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Nhiều vấn đề đang đặt ra cho quản lý rừng
cộng đồng như địa vị pháp lý của cộng đồng dân cư thôn trong quản lý rừng,
các khía cạnh về quyền đầy đủ khi cộng đồng tham gia quản lý rừng, kế
hoạch quản lý rừng, sử dụng thương mại sản phẩm từ rừng cộng đồng, cơ chế
hưởng lợi, tổ chức quản lý rừng.
Tại hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng, trên cơ sở phân tích từ
thực tiễn về vấn đề xác lập quyền quản lý và sử dụng rừng của cộng đồng,
Hội thảo đã đề xuất chính sách liên quan như: Xác lập vị trí pháp lý của cộng
đồng khi tham gia quản lý rừng với tư cách là chủ rừng với đầy đủ quyền và
nghĩa vụ như các chủ rừng khác được qui định trong các bộ luật; Sự thừa
nhận và thể chế hố rừng do cộng đồng tự cơng nhận từ lâu đời; Những khía

cạnh về chính sách cho phép mở rộng đối tượng rừng giao cho các cộng đồng
quản lý như các khu rừng phòng hộ, vùng đệm các khu rừng đặc dụng.
Về vấn đề lập kế hoạch quản lý rừng cộng đồng, Hội thảo thống nhất kế
hoạch quản lý rừng giữ vai trò hết sức quan trọng, là công cụ quan trọng bậc
nhất để cộng đồng quản lý rừng. Kế hoạch quản lý rừng cần phải được thể chế
hố đầy đủ về nội dung kỹ thuật, trình tự thủ tục và tính bắt buộc cho cộng đồng
quản lý rừng. Kế hoạch quản lý rừng cộng đồng là cơ sở cho cơ quan quản lý
Nhà nước về lâm nghiệp đối với đối tượng là rừng do cộng đồng quản lý. Riêng
đối với rừng tự nhiên, kế hoạch quản lý rừng được thừa nhận như là phương án
điều chế rừng của cộng đồng dựa vào đó cộng đồng kinh doanh rừng tự nhiên
theo đúng quy định pháp luật hiện hành về quản lý rừng tự nhiên.
Vấn đề hưởng lợi rừng trong quản lý rừng cộng đồng đã trở thành một vấn
đề “nóng” trong hội thảo và cũng là vấn đề địi hỏi phải có những đột phá về


19

nhận thức, xây dựng cơ chế chính sách và quản lý. Những kinh nghiệm từ thí
điểm hưởng lợi rừng do cộng đồng quản lý ở một số nơi ở Tây Nguyên cần được
nghiên cứu và điểu chỉnh trong chính sách hưởng lợi rừng. Định hướng hưởng
lợi rừng trong quản lý rừng cộng đồng cần được quan tâm và nghiên cứu để mở
rộng và thể chế hố, đó là: Thứ nhất, thừa nhận và thể chế hoá khai thác thương
mại và cơ chế hưởng lợi sản phẩm từ rừng cộng đồng; Thứ hai, dần tiến tới cơ
chế hưởng lợi rừng từ dịch vụ môi trường.
Tổ chức quản lý rừng cộng đồng được Hội thảo thống nhất một số điểm
quan trọng là khuyến khích sáng kiến của cộng đồng trong hình thành các tổ
chức quản lý rừng cộng đồng. Kiểu tổ chức nửa Nhà nước trong quản lý rừng
cộng đồng là khá phù hợp. Cần xác lập cơ chế hợp tác và đối tác giữa các tổ
chức bên trong và ngoài cộng đồng trong quản lý rừng. Để xác lập vị trí pháp
lý và tính pháp nhân của cộng đồng trong quản lý rừng cộng đồng việc hình

thành các chủ thể kinh tế đại diện cộng đồng để có đủ pháp nhân quản lý rừng
cộng đồng và vấn đề mới cần khuyến khích nghiên cứu, thí điểm.
Kết quả Hội thảo cho thấy việc xác lập cơ sở pháp lý một cách rõ ràng về
quản lý và chia sẻ lợi ích từ cộng đồng là rất cần thiết vì:
- Cộng đồng cùng tham gia quản lý rừng là một thực tiễn không thể phủ
định, dù được thể chế hố hoặc khơng thừa nhận thì nó vẫn tồn tại bởi đây là
đặc trưng cơ bản của văn hoá và quan hệ cộng đồng vùng cao đã có từ lâu đời.
Do đó việc thừa nhận cộng đồng là một chủ thể có pháp nhân ln có lợi cho
cơng tác quản lý rừng. Vấn đề này cần được nghiên cứu và bổ sung vào các
bộ luật để từng bước khẳng định cộng đồng dân cư thôn có đủ tư cách pháp
nhân trong quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Sử dụng một phần rừng cho mục đích chung của cộng đồng như cung
cấp gỗ làm nhà, giữ nguồn nước, đáp ứng nhu cầu tâm linh, vv…phải được
xem là một hình thức hưởng lợi của cộng đồng cần được thể chế hoá một cách
rõ ràng. Sử dụng rừng cho mục đích chung của cộng đồng là rất cần thiết


20

trong bối cảnh tương lai và hiện tại khi kinh tế hộ, kinh tế trang trại, sản xuất
hàng hoá phát triển có thể là những nguy cơ làm ảnh hưởng đến việc quản lý,
sử dụng và hưởng dụng tài sản chung của cả cộng đồng như đã xuất hiện ở
nhiều nơi. Thực tế ở nhiều nơi cho thấy cộng đồng hết đất cơng để dùng cho
mục đích chung, khơng có rừng để bảo vệ nguồn nước của cộng đồng, khơng
có quỹ cơng để thực hiện phúc lợi.
- Cần có đủ cơ sở pháp lý cho cộng đồng dân cư thôn có tư cách pháp
nhân quản lý, sử dụng lâm sản thương mại, nhất là rừng tự nhiên được giao
cho cộng đồng quản lý. Những quy định về kỹ thuật trong phương án kinh
doanh rừng của cộng đồng cũng cần được sửa đổi sao cho phù hợp với điều
kiện của cộng đồng.

Kết quả hội thảo là những khuyến cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước
về lâm nghiệp Việt Nam trong q trình hoạch định cơ chế và chính sách và
quản lý phương thức quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam.
1.2.1. Cơ sở pháp lý tác động đến quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam
Hiện nay, cộng đồng quản lý rừng là một thực tiễn, thực tiễn này đang
chỉ ra nhiều hình thái và cách thức cộng đồng tham gia quản lý rừng, trong
khi các khía cạnh về mặt pháp lý và chính sách về cơ chế hưởng lợi cho đối
tượng cộng đồng dân cư thôn quản lý rừng đang được từng bước cải thiện
nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Khn khổ luật pháp và chính sách
của Chính phủ dần được hình thành và tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc phát triển.
- Luật Dân sự được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành năm 2005,
quy định: “Cộng đồng dân cư thơn có quyền sở hữu đối với tài sản được hình thành
theo tập quán, tài sản do các thành viên trong cộng đồng đóng góp nhằm mục đích
thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng. Các thành viên của cộng đồng
cùng quản lý, sử dụng theo thỏa thuận vì lợi ích của cộng đồng”.


21

- Luật Đất đai được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành tháng
11 năm 2003 (Gọi tắt là Luật Đất đai 2003). Luật quy định một số điều liên
quan đến rừng cộng đồng như sau:
Trong điều 9 khoản 2 của Luật Đất đai có ghi: “Cộng đồng dân cư gồm
cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thơn, làng, ấp, bản,
bn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc
có chung dịng họ được Nhà nước giao đất, hoặc được Nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất”; Điều 33 khoản 7 có quy định: “Cộng đồng dân cư sử dụng
đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất”; Điều 66
khoản 2 “Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng được sử dụng đất ổn

định lâu dài”; Điều 71 khoản 4 “Đất nông nghiệp do Nhà nước giao cho cộng
đồng dân cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với phong tục, tập quán
của các dân tộc thiểu số; Các cộng đồng dân cư được giao đất nơng nghiệp có
trách nhiệm bảo vệ diện tích đất được giao, được sử dụng kết hợp với mục đích
sản xuất nơng nghiệp và nuôi trồng thủy sản, không được chuyển sang sử dụng
vào mục đích khác” và theo Điều 117 khoản 2 “Cộng đồng dân cư sử dụng đất
không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng quyền sử dụng đất;
không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”... Tuy vậy
những hướng dẫn cụ thể về việc lập quy hoạch kế hoạch quản lý rừng cộng
đồng dân cư thôn chưa được đề cập đến trong luật này.
- Luật Bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam ban hành tháng 12 năm 2004 (Gọi tắt là Luật Bảo vệ và phát triển rừng
2004) quy định:
“Nhà nước giao rừng phịng hộ, rừng sản xuất khơng thu tiền sử dụng đất
cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài với tư cách là chủ rừng”. Việc
cộng đồng dân cư thôn được công nhận là một chủ thể hợp pháp trong việc
quản lý rừng và đất rừng đã tạo ra một hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt
động quản lý và bảo vệ rừng.


22

Tại điều 29 quy định: “Cộng đồng được giao rừng là cộng đồng dân cư
thơn có truyền thống gắn bó với rừng trong sản xuất, đời sống, văn hóa, tín
ngưỡng; có khả năng quản lý rừng, có nhu cầu và đơn xin giao rừng và việc
giao rừng cho cộng đồng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ phát triển
rừng đã được phê duyệt; phù hợp với khả năng quỹ rừng của địa phương”.
Khu rừng giao cho cộng đồng dân cư là những khu rừng hiện cộng đồng
dân cư đang quản lý, sử dụng có hiệu quả; những khu rừng giữ nguồn nước
phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, phục vụ lợi ích chung khác của cộng đồng

mà khơng thể giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà cần giao cho cộng
đồng để phục vụ lợi ích của cộng đồng.
Điều 30 quy định: “Cộng đồng dân cư thơn được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giao rừng được công nhận quyền công nhận quyền sử dụng rừng
ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng; được khai thác sử dụng lâm
sản và các lợi ích khác của rừng vào mục đích cơng cộng và gia dụng cho các
thành viên trong cộng đồng; được sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp kết hợp
theo quy định; được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích
rừng được giao; được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn và được bồi thường
thành quả lao động, kết quả đầu tư khi Nhà nước có quyết định thu hồi”.
- Các quyết định, nghị định và thơng tư của Chính phủ có liên quan:
+ Nghị định số 29/CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ đã quy định: Thôn
là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp nhằm giải quyết các công việc nội
bộ trong cộng đồng.
+ Quyết định số 13/2002/QĐ - BNV ngày 06/12/2002 của Bộ Nội vụ
ban hành về quy chế tổ chức và hoạt động của cộng đồng.
- Các Quyết định, Nghị định và Thông tư của Bộ NN&PTNT:
+ Quyết định số 106/2006/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về việc ban hành bản hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư


23

thơn. Trong đó có hướng dẫn cụ thể về các căn cứ, điều kiện và trình tự thủ
tục giao rừng cho cộng đồng (chương II), quyền lợi và nghĩa vụ của cộng
đồng được Nhà nước giao rừng (chương V), việc lập kế hoạch quản lý rừng
cộng đồng, xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng, xây dựng
quỹ bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng, tổ chức quản lý và giám sát đánh giá
việc thực hiện (Chương III,IV,VI,VII).
+ Thông tư số 38/2007/TT - BNN ngày 24/5/2007 của Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng,
cho thuê rừng, thu hồi rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng
đồng dân cư thơn. Cụ thể là ở mục II phần 5 có hướng dẫn trình tự, thủ tục
giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Cộng đồng dân cư thôn tiến hành họp
thôn để thông qua và thống nhất đơn đề nghị Nhà nước giao rừng cho cộng
đồng, thông qua kế hoạch quản lý khu rừng sau khi được Nhà nước giao rừng.
Cộng đồng dân cư thôn nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân xã, Ủy ban nhân dân
xã sau khi nhận được hồ sơ của cộng đồng dân cư thơn có trách nhiệm thẩm
tra điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn, kiểm tra thực địa khu rừng
dự kiện giao, xác nhận đơn của cộng đồng dân cư thôn và chuyển lên cơ quan
chức năng cấp huyện. Cơ quan cấp huyện sau khi nhận được hồ sơ từ xã
chuyển lên có trách nhiệm xác định đặc điểm khu rừng, lập tờ trình trình Ủy
ban nhân dân huyện về việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Ủy ban
nhân dân cấp huyện xem xét và quyết định giao rừng cho cộng đồng dân cư
thôn. Ủy ban nhân dân cấp xã và cộng đồng dân cư thơn có trách nhiệm thực
hiện quyết định giao rừng.
+ Công văn số 2324/ BNN - LN ngày 21/8/2007 của Cục Lâm nghiệp
về hướng dẫn các chỉ tiêu kỹ thuật và thủ tục khai thác rừng cộng đồng.
+ Quyết định số 434/QĐ - QLR ngày 11/4/2007 của Cục trưởng Cục
Lâm nghiệp ban hành bản hướng dẫn xây dựng quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng cấp xã và Hướng dẫn giao rừng gắn với giao đất lâm nghiệp cho


24

cộng đồng dân cư thơn. Trong đó nêu rõ ngun tắc giao rừng cho cộng đồng;
căn cứ và điều kiện giao rừng cho cộng đồng; Khu rừng và loại rừng giao cho
cộng đồng, trình tự và thủ tục giao rừng cho cộng đồng.
Nhìn chung các cơ sở pháp lý trên đây đã thể hiện sự quan tâm của Nhà
nước đối với việc quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Các cơ sở pháp lý

trên đã góp phần rất tích cực trong việc hỗ trợ và tạo ra một hành lang pháp lý
đảm bảo cho các hoạt động quản lý rừng cộng đồng.
Cho đến nay các văn bản pháp luật về đầu tư và tín dụng khơng quy định
cộng đồng dân cư thơn và nhóm hộ là đối tượng được vay vốn đầu tư và
hưởng ưu đãi theo luật khuyến khích đầu tư trong nước khi tham gia vào các
hoạt động lâm nghiệp.
Các chính sách về hưởng lợi đã được đề cập ít nhiều trong các văn bản
liên quan đến giao đất giao rừng trước đây như Nghị định 02/CP ra ngày
15/01/1994, Nghị định 01/CP ra ngày 04/1/1995, Nghị định 163/1999 NĐCP ra ngày 16/11/1999, Quyết định ngày 08/2001 QĐ - TTg ra ngày
11/1/2001. Tuy nhiên, các văn bản chính sách này không quy định các quyền
hưởng lợi cho cộng đồng quản lý rừng.
Hai văn bản quan trọng quy định chi tiết quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ
gia đình, cá nhân được giao được thuê và được nhận khoán rừng và đất lâm
nghiệp là quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 178/2001/QĐ - TTg ra ngày
12/11/2001 về quyền hưởng lợi nghĩa vụ của hộ gia đình cá nhân được giao,
được thuê, nhận khoán rừng và lâm nghiệp (sau đây gọi là quyết định 178) và
thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT/BNN - BTC của Bộ NN&PTNT và Bộ tài
chính ra ngày 03/9/2003 về hướng dẫn thực hiện quyết định 178/2001/QĐ - TTg
(sau đây gọi là Thông tư 80). Gia đình, cá nhân được giao, được th nhận
khốn rừng và đất lâm nghiệp cộng đồng dân cư nhóm hộ và các tổ chức trong
cộng đồng không thuộc phạm vi điều chỉnh của hai văn bản trên.


25

Từ các văn bản trên cho thấy, mặc dù cộng đồng được coi là một chủ thể
với trách nhiệm rõ ràng trong quản lý rừng, tuy nhiên các văn bản dưới Luật
lại chưa quy định rõ việc hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng. Ở thực tế
hầu hết các cộng đồng thơn bản đều có quy chế/hoặc luật tục quy định việc sử
dụng và chia sẻ lợi ích từ việc khai thác tài nguyên từ các khu rừng cộng

đồng. Các quy chế này thường tự do cộng đồng đề ra (có thể khơng tham
khảo các văn bản pháp quy) hoặc được xây dựng dưới sự hướng dẫn của
chính quyền địa phương, kiểm lâm hoặc cán bộ lâm nghiệp thuộc các chương
trình 661 hay dự án hỗ trợ của nước ngồi. Trong đó thường quy định loại tài
ngun (gỗ, tre nứa, LSNG) và hạn mức khai thác của mỗi loại. Ví dụ ở các
thơn thuộc xã Yang Mao (Dak Lak) mỗi hộ được phép khai thác không quá
10 m3/năm và cộng đồng được hưởng 100 % sản phảm từ rừng trồng. Cịn ở
một số nhóm cộng đồng thuộc Thừa Thiên Huế lại quy định lượng khai thác
không được vượt quá 50 % lượng tăng trưởng. Đối với tre nứa và LSNG hầu
như người dân thường được khai thác tự do.
1.2.2. Những chương trình, dự án về quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam
Năm 1998 Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) đã biên dịch tài liệu về Lâm nghiệp cộng đồng cùng Sổ tay cẩm nang
Lâm nghiệp cộng đồng do tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO-UNDP)
xuất bản về các vấn đề có liên quan đến Lâm nghiệp cộng đồng, như:
“Khái niệm, phương pháp, công cụ phục vụ luận chứng, kiểm tra, đánh
giá có sự tham gia của người dân trong LNCĐ”; “Thẩm định nhanh quyền
hưởng dụng đất và cây rừng của cộng đồng”… rất hữu ích cho việc nghiên cứu
phát triển LNCĐ ở Việt Nam trong giai đoạn tiền phát triển. Theo các tài liệu
này thì Lâm nghiệp cộng đồng là mọi hoạt động lâm nghiệp được những cá
nhân trong cộng đồng thực hiện nhằm tăng các lợi ích mà họ cho là có giá trị.
Trong hoạt động lâm nghiệp cộng đồng, người trong cuộc được hiểu là
những người cùng được xác định nằm trong cộng đồng và có mối quan hệ phụ


×