Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

THOI CO TRONG TONG TIEN CONG NOI DAY XUAN 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.06 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ của Đảng trong cuộc tiến công và nổi dậy </b>
<b>mùa xn năm 1975 </b>


<b>Kỷ niệm 36 năm Giải phóng hồn toàn miền Nam </b>
<b>(30-4-1975 - 30-4-2011) :</b>


<b>Thời cơ và chớp thời cơ có </b>
<b>vai trị hết sức quan trọng </b>
<b>trong mọi cuộc cách mạng, </b>
<b>đặc biệt là trong cuộc tổng </b>
<b>tiến công và nổi dậy mùa </b>
<b>xuân năm 1975 mà đỉnh cao </b>
<b>là chiến dịch Hồ Chí Minh </b>
<b>lịch sử. </b>


Thời cơ là thời điểm lịch sử
thuận lợi nhất, khi những điều kiện khách quan và chủ quan
đã phát triển chín muồi, bảo đảm cho cách mạng nổ ra và
thắng lợi. Vì vậy, nó địi hỏi người cách mạng phải biết xác
định đúng thời cơ, nắm bắt, tận dụng một cách triệt để và
có hiệu quả.


Thời cơ xuất hiện nhanh hay chậm, sớm hay muộn còn tuỳ
thuộc vào tạo thế và lực mới: Nếu khơng có sẵn thực lực
cách mạng đến mức đủ mạnh thì khơng thể tạo ra thời cơ
và khi thời cơ đến sẽ không kịp thời lợi dụng nó. Nếu “Để
mất thời điểm thuận lợi, khơng sử dụng thời gian để tung
vào kẻ địch những lực lượng ưu thế có nghĩa là phạm một
sai lầm to lớn nhất có thể có trong chiến tranh”[1]. Chớp
thời cơ chính là sự nắm bắt, tận dụng những điều kiện



khách quan và chủ quan đã chín muồi một cách triệt để, có
hiệu quả. Ph.Ăngghen nói: “Trong thương mại thời gian là
tiền, thì trong chiến tranh, thời gian là chiến thắng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

V.I.Lênin chỉ rõ trong cách mạng Tháng Mười Nga: “đêm
nay và chỉ trong đêm nay” - đêm 24-10-1917, “Lịch sử sẽ
không tha thứ cho những người cách mạng có thể thắng lợi
hơm nay (và chắc chắn sẽ thắng lợi hôm nay) mà lại để
chậm trễ… Những người cách mạng sẽ phạm tội ác vô
cùng lớn nếu họ bỏ mất thời cơ. Chậm trễ trong khởi nghĩa
là chết”[2].


Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh: Thời cơ
là thời thế, là thời gian, thời điểm có lợi nhất để tấn công
đối phương. Người yêu cầu phải biết tạo và nắm thời cơ,
tức là phải nắm chắc quy luật vận động, xu thế phát triển
của tình hình, vì “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời
một tốt cũng thành công”[3].


Nắm chắc quy luật này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng sáng tạo những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của
cách mạng thế giới, truyền thống lịch sử dân tộc vào quá
trình lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Như vậy, thời cơ và chớp thời cơ có vai trị hết sức
quan trọng trong mọi cuộc cách mạng, đặc biệt là trong
cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đảng ta đã thể
hiện tài nghệ của mình trong tạo và chớp thời cơ và đã nâng
lên tầm nghệ thuật chỉ đạo kết thúc cuộc chiến tranh nhân
dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của


dân tộc Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cũng như trên bàn đàm phán, buộc Mỹ phải ký Hiệp định
Pa-ri rút hết quân về nước ngày 21-7-1973. Dân tộc ta đã
hoàn thành nhiệm vụ lịch sử “đánh cho Mỹ cút” và mở ra
tình thế thuận lợi “ngàn năm có một” tiến lên hồn thành
tiếp nhiệm vụ “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hồn tồn
miền Nam, thống nhất đất nước: “Chúng ta buộc địch ký
hiệp định Pa-ri có nghĩa là ta đã mạnh hơn địch, đủ sức
thắng cả Mỹ lẫn ngụy”[4].


Đến năm 1974, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và
địch có những biến đổi căn bản, tình hình có lợi cho ta, Bộ
Chính trị (BCT) nhận định thời cơ giải phóng hồn tồn
miền Nam đã đến và quyết định giải phóng miền Nam
trong hai năm 1975 và năm 1976. Năm 1975 tạo tiền đề để
năm 1976 tiến tới tổng cơng kích, tổng khởi nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bn Ma Thuột, “địn điểm trúng huyệt” này đã tác động
đến toàn bộ binh lực ngụy quyền, tới cả nước Mỹ, khiến thế
bố trí lực lượng và tồn bộ hệ thống phịng thủ của quân
ngụy ở Tây Nguyên bị đảo lộn hoàn toàn.


Chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi, quân ta đã ở thế uy
hiếp trực tiếp tuyến phòng ngự ven biển miền Trung của
địch. BCT nhận định: Ta có khả năng giành thắng lợi


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Đầu tháng 4-1975, ta đã hội tụ đầy đủ các yếu tố “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa”, cả dân tộc ta sống trong giờ phút
sôi động và hào hùng, ra quân trong mùa xuân lịch sử với


tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng”, với khí thế
“thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng”. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chỉ đạo: “Một ngày bằng 20 năm, thần tốc,
thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng
giờ, từng phút, xốc tới giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước”[9].


Ngày 14-4-1975, BCT đã thơng qua kế hoạch giải phóng
Sài Gịn mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh. Sài Gịn - Gia
Định là hướng tiến cơng chiến lược chủ yếu và cũng là mục
tiêu chiến lược cuối cùng của ta. Chiều ngày 26-4, trận
quyết chiến cuối cùng bắt đầu. Đến 11h30 phút ngày
30-4-1975, lá cờ chiến thắng của ta đã tung bay trên nóc dinh
Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh tồn thắng. Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã giành được
thắng lợi hoàn toàn.


Như vậy, với sự nỗ lực vượt bậc trong tạo thế, tạo lực, tạo
thời cơ, dự kiến đúng xu thế phát triển của tình thế, nắm và
chớp thời cơ kịp thời, chọn hướng đúng, hạ quyết tâm chiến
lược chính xác, chúng ta đã thực hiện cuộc tổng tiến công
và nổi dậy mùa xuân 1975 chỉ trong 55 ngày đêm, thay vì 2
năm như kế hoạch đã đề ra, thu non sông về một mối, đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Trên toàn mặt trận Tây Nguyên, so với lực lượng QLVNCH, lực lượng bộ binh


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

5:1, thiết giáp 2:1, pháo lớn 2:1[14]<sub>. Ưu thế này bảo đảm cho QĐNDVN khả năng thắng </sub>


lợi nhanh chóng do đối phương khó có khả năng cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng


cứu.


Tại Bn Ma Thuột chỉ có trung đồn 53, liên đoàn 21 biệt động quân, trung đoàn pháo
binh 232, thiết đoàn 8 (thiếu) và một chi đội thiết giáp, 3 liên đoàn bảo an, hậu cứ trung
đoàn 45 (khu B50), các đơn vị hậu cứ và Bộ chỉ huy nhẹ của sư đoàn 23. Tổng số quân
8.350 người, trong đó có 5.920 quân đóng tại các căn cứ trong thị xã, 2.430 quân đóng tại
các cứ điểm ngoại vi thị xã. Lực lượng này được trang bị 19 pháo 105 mm, 4 pháo 155
mm, 16 xe tăng M-41 và M48, 50 xe bọc thép M-113, phi đội trinh sát có 6 máy bay trinh
sát L-19 và trực thăng UH-1 tại sân bay Hịa Bình (Phụng Dực).[11][12]


Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đưa ra hai phương án tác chiến để lựa chọn:


<i><b>Phương án thứ nhất</b></i>: Tấn cơng khi đối phương chưa điều tồn bộ sư đồn 23 và các đơn


vị tăng cường khác về phòng thủ Buôn Ma Thuột. Đây là phương án lý tưởng nhất, đảm
bảo tháng nhanh gọn và ít gây thiệt hại cho các mục tiêu dân sự trong thị xã. Điều này
phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện nghi binh chiến lược trên hướng Pleiku-Kon Tum bảo
đảm giam chân 4 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn xe tăng-thiết giáp và 5 liên đoàn biệt
động quân đang bố trí tại đây


<i><b>Phương án thứ hai</b></i>: Tấn cơng khi đối phương đã tăng cường phịng thủ thị xã Bn Ma


Thuột. Đây là phương án đánh chắc tiến chắc và cuộc chiến sẽ giằng co ác liệt gay go.


Bộ Tư lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị dưới quyền tổ chức chuẩn bị tấn công theo
phương án 2; trong khi thực hiện phải tạo thời cơ và nhanh chóng chuyển sang phương án
1 khi điều kiện thời cơ xuất hiện.[15][16][17]


</div>

<!--links-->

<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /> Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975
  • 19
  • 2
  • 38
  • ×