Tải bản đầy đủ (.pdf) (258 trang)

Vị thế của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở tây nguyên (nghiên cứu trường hợp dân tộc ê đê và gia rai)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 258 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG VIỆT LÂM

VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CĨ UY TÍN
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN
(Nghiên cứu trường hợp dân tộc Ê đê và Gia rai)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG VIỆT LÂM

VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CĨ UY TÍN
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN
(Nghiên cứu trường hợp dân tộc Ê đê và Gia rai)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 9 31 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. BÙI THẾ CƯỜNG



HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung
thực, chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

Lê Hoàng Việt Lâm


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu lý luận về vị thế, vai trị xã hội
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai

15
15

19

1.3. Những cơng trình nghiên cứu về Người có uy tín trong cộng đồng
dân tộc thiểu số Tây Nguyên

27

Chương 2: LUẬN CỨ LÝ THUYẾT VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CĨ UY TÍN VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.1. Các khái niệm cơng cụ có liên quan đến vị thế của người có uy tín

37

trong cộng đồng dân tộc thiểu số
2.2. Lý thuyết áp dụng
2.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích

37
46
51

2.4. Chính sách đối với người có uy tín vùng dân tộc thiểu số trong lịch sử
Việt Nam

53

Chương 3: HIỆN TRẠNG VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CÓ UY TÍN TRONG
CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN: TRƯỜNG HỢP
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ê ĐÊ VÀ GIA RAI
3.1. Tổng quan về Tây Nguyên, người Ê đê và người Gia rai ở Tây

Ngun
3.2. Người có uy tín trong dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai cổ truyền ở
Tây Ngun
3.3. Người có uy tín trong xã hội Ê đê và Gia rai hiện nay
3.4. Vị thế của người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số Ê đê và
Gia rai ở Tây Nguyên
3.5. Nguyên nhân biến đổi vị thế của người có uy tín trong cộng đồng dân
tộc thiểu số Ê đê và Gia rai

100

3.6. Hiện trạng chính sách đối với người có uy tín trong cộng đồng dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay

111

62
62
66
74
82


3.7. Một số nhận xét, đánh giá về hiện trạng vị thế người có uy tín trong
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - trường hợp dân tộc thiểu số Ê đê và Gia rai

119

Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VỀ VỊ THẾ VÀ VAI TRỊ
CỦA NGƯỜI CĨ UY TÍN TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ

Ở TÂY NGUYÊN
4.1. Xu hướng biến đổi vị thế của người có uy tín trong các tộc người
thiểu số ở Tây Nguyên
4.2. Định hướng chính sách đối với người có uy tín trong cộng đồng

122
122

DTTT ở Tây Nguyên
4.3. Giải pháp về vị thế và vai trị của người có uy tín trong dân tộc thiểu

124

số ở Tây Ngun

125

KẾT LUẬN
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

147

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AN - CT


An ninh - chính trị

AN, TT

An ninh, trật tự

ANQG

An ninh quốc gia

AN - QP

An ninh - Quốc phịng

BCA

Bộ Cơng an

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa

DTTS

Dân tộc thiểu số

FULRO

Front Unifié pour la Libération des Races
Opprimées

(Mặt trận Thống nhất giải phóng các sắc tộc
bị áp bức)

GCĐD

Ghi chép điền dã

HĐGL

Hội đồng già làng

HĐPTL

Hội đồng phát triển làng

KTTT

Kinh tế thị trường

KT - XH

Kinh tế - xã hội

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

PVS

Phỏng vấn sâu


TLTĐ

Thế lực thù địch

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

TÊN BẢNG

Bảng 1.1

Mô tả địa bàn điền dã

Bảng 1.2

Đặc điểm nhân khẩu của người trong mẫu nghiên cứu


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các xã hội, đặc biệt là xã hội tiền công nghiệp, người có uy tín có vị thế,
vai trị rất quan trọng đối với sự vận hành và phát triển của cộng đồng. Điều đó càng
thấy rõ ở các dân tộc thiểu số tại chỗ của Tây Nguyên - nơi được coi là một khu vực
lịch sử - dân tộc học "phi Hoa, phi Ấn", tức không bị ảnh hưởng của hai nền văn minh
lớn là Trung Quốc và Ấn Độ, ít chịu sự kiểm soát của các vương triều phong kiến
trong khu vực; và đến trước năm 1975, nhiều nơi còn lưu giữ đậm nét cấu trúc xã hội
tiền công nghiệp. Trong bối cảnh đó, vị thế của người có uy tín càng quan trọng, bởi
họ giữ vai trị tổ chức và vận hành toàn bộ xã hội của các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên.
Về mặt xã hội - nhân văn, Tây Nguyên chính là mảnh đất “khai nguyên” của
cộng đồng các dân tộc tại chỗ - khối người đã tạo ra các cấu trúc xã hội vừa đa dạng,
vừa tương đồng trong chiều dài lịch sử của vùng đất này. Xuất phát từ truyền thống
gắn chặt với buôn làng và luật tục, với những đặc điểm văn hóa, hoạt động tự quản
cổ truyền, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã và đang tồn tại một bộ phận người
có uy tín, có ảnh hưởng sâu sắc và ln được xem là linh hồn trong đời sống tinh
thần của cộng đồng. Họ là những người thực sự được đồng bào tín nhiệm, có vị thế
xã hội hoặc kiến thức nhất định về một hay nhiều lĩnh vực, có khả năng tác động,
chi phối hoặc tập hợp được đồng bào dân tộc thiểu số bằng lời nói, hành động hoặc
bằng những quy ước của phong tục, tập quán dân tộc, đặc biệt là giáo lý của tơn
giáo... Chính họ là những “trụ cột quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển
cuộc sống mới của cộng đồng” [26, tr.83], là “phên dậu” cho sự nghiệp giữ vững
nền độc lập, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của vùng đất Tây Nguyên nói
riêng và cả nước nói chung, nhưng đồng thời là lực lượng có thể gây ra những bất ổn
rất đáng lo ngại tại vùng đất này.
Thực tế đã cho thấy, kể từ năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986 đến nay, dưới tác
động của chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng như tác động của
hiện tượng di dân, sự phát triển của kinh tế thị trường; của sự nghiệp cơng nghiệp hóa
- hiện đại hóa, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch…, song những di sản
truyền thống của vùng đất này vẫn luôn được bảo lưu, trong đó có vị thế của người có
uy tín. Vì vậy, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, kế thừa truyền thống

1


lịch sử, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng vai trị của người có uy tín ở các dân tộc
thiểu số, đặc biệt ở Tây Nguyên - nơi có đặc thù về lịch sử tộc người và có vị trí quan
trọng về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng. Cụ thể hóa nhận thức đúng
đắn trên, năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg,
ngày 01/02/2008 về “Phát huy vai trị người có uy tín trong dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời ban hành và triển khai thực hiện các
quyết định liên quan đến người có uy tín. Những chính sách đó nhằm phát huy vị thế
và vai trị của họ trong đời sống cộng đồng nói chung và trong dân tộc thiểu số Ê đê,
Gia rai nói riêng - hai dân tộc có số dân đơng nhất trong các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, với một nền văn hóa đặc trưng, chiếm vị trí quan trọng trong bức tranh tồn
cảnh về văn hóa ở vùng đất này.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được thì việc nhận diện và phát huy vị
thế của người có uy tín trong dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và dân tộc Ê
đê, Gia rai nói riêng vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót, chưa phát huy hết tầm
quan trọng đặc biệt của người có uy tín trong cộng đồng, chưa xác định rõ xu hướng
biến đổi về vị thế của người có uy tín trước những biến chuyển lớn của đời sống xã
hội. Đặc biệt, chưa có sự thống nhất trong quan điểm, tiêu chí của chính quyền, của
Nhà ước so với nhận thức, quan niệm của cộng đồng về người có uy tín. Bên cạnh
đó, hoạt động lơi kéo người có uy tín, nhất là các chức sắc trong tôn giáo để tiến
hành các hoạt động chống phá, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước tại khu vực này đang ngày càng có
những diễn biến phức tạp. Vì vậy, thực tế đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức bách
cần phải giải quyết trong việc nghiên cứu vị thế của người có uy tín trong cộng đồng
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, từ đó có những định hướng và kiến nghị cụ thể, thiết
thực, góp phần phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa và đảm bảo an ninh, trật tự
trong thời gian tới.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài Vị thế của người có uy tín

trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (Nghiên cứu trường hợp dân tộc
Ê đê và Gia rai) để làm Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Xã hội học.

2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Mục đích của cơng trình là nhận diện những nhóm người có uy tín; làm rõ vị
thế và sự biến đổi vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Ngun
(qua hai trường hợp DTTS Ê đê và Gia rai) trong bối cảnh biến đổi xã hội, từ đó đưa
ra các định hướng chính sách và khuyến nghị nhằm phát huy vị thế của người có uy
tín trong phát triển bền vững, tăng cường đồn kết xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa và
đảm bảo AN, TT ở Tây Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Thứ nhất, phân tích, làm rõ các khái niệm: Dân tộc thiểu số, cộng đồng dân tộc
thiểu số, uy tín, người có uy tín, vị thế của người có uy tín; những luận cứ lý thuyết
và các chính sách đối với người có uy tín trong cộng đồng DTTS.
Thứ hai, khái quát địa bàn nghiên cứu, tập trung tìm hiểu, mơ tả, từ đó đi vào
luận giải hiện trạng vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây
Nguyên, đặc biệt là những yếu tố tác động đến sự biến đổi đó.
Thứ ba, nêu lên các định hướng nhằm củng cố, xây dựng và phát huy vị thế của
người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Ngun, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vị thế của người có uy tín trong cộng
đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi về không gian: Trên địa bàn Tây Nguyên, tập trung ở hai tỉnh Đắk

Lắk và Gia Lai.
- Phạm vi về thời gian: Luận án được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ
tháng 8 năm 2014 đến tháng 12 năm 2017; thời điểm khảo sát thực tiễn: Từ tháng 5
năm 2016 đến tháng 3 năm 2017.
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu vị thế của người có uy tín
trong DTTS Tây Ngun, điển cứu ở hai dân tộc Ê đê và Gia rai, từ đó gợi mở một số

3


khuyến nghị nhằm phát huy vị thế, vai trò của người có uy tín trong phát triển kinh tế,
ổn định xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa và đảm bảo AN - CT tại Tây Nguyên.
4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
4.2. Cách tiếp cận nghiên cứu luận án
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài áp dụng các cách tiếp cận sau:
1. Tiếp cận toàn diện dưới góc độ vùng, nhưng có những trọng tâm của các khu
vực nhằm tìm ra những mối liên hệ, tương tác giữa vị thế - vai trị của người có uy
tín và các lĩnh vực của đời sống xã hội, cộng đồng khu vực nghiên cứu.
2. Tiếp cận lý thuyết về vị thế - vai trò, cấu trúc chức năng, về tiếp biến văn hóa,
biến đổi xã hội nhằm lý giải thực trạng, tính chất và xu hướng vận động, biến đổi vị
thế , vai trị của những người có uy tín ở Tây Nguyên qua các giai đoạn lịch sử.
3. Tiếp cận lý thuyết về nhóm, thể chế, cộng đồng và quản lý cộng đồng nhằm
làm rõ những tương tác xã hội giữa các cá nhân, giữa cá nhân với các nhóm xã hội
cũng như những tác động của các thể chế, phương thức quản lý... đã ảnh hưởng đến
vị thế và sự biến đổi vị thế của người có uy tín trong cộng đồng DTTS Tây Ngun.
Bên cạnh đó, luận án cịn tiếp cận lịch sử và biến đổi xã hội nhằm làm rõ vị thế của

người có uy tín trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
4. Tiếp cận phương pháp nghiên cứu theo hướng Nhân học văn hóa dưới chiều
kích đồng đại và lịch đại; các phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng chủ
yếu, kết hợp với số liệu định lượng thu thập từ các cơ quan nhà nước nhằm đánh giá
một cách toàn diện về vị thế - vai trò của những người có uy tín đối với sự phát triển
bền vững vùng Tây Nguyên.
4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài đã áp dụng 2 phương pháp nghiên cứu chính là Phân tích tài liệu đã có
và điền dã, bao gồm quan sát tham dự và PVS cá nhân.

4


4.3.1. Phân tích tài liệu đã có
Phương pháp này được sử dụng để thu thập tài liệu, thông tin thứ cấp về các
vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Trước hết, đề tài thu thập và tham khảo
các tài liệu là cơng trình nghiên cứu đã xuất bản trong và ngồi nước, bao gồm:
1. Các cơng trình mang tính lý thuyết về vị thế - vai trị, các lý thuyết Dân tộc
học, Xã hội học về quan hệ tộc người, về biến đổi văn hóa, xã hội,… nhằm xác định
các lý thuyết, cách tiếp cận phù hợp, xây dựng các giả thuyết nghiên cứu;
2. Các nghiên cứu (sách, kỉ yếu, tạp chí) về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
của vùng Tây Nguyên và các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên nhằm tổng hợp và phân
tích các biến đổi xã hội Tây Nguyên trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, của các
dân tộc bản địa theo thời gian;
3. Các chính sách của Nhà nước thơng qua các văn bản (Chương trình, Dự án,
Nghị định, Chỉ thị,…) hoặc các tài liệu công khai hoặc không công khai (tài liệu
mật) của công an các tỉnh Tây Nguyên, Cục An ninh Tây Nguyên, Ban Chỉ đạo Tây
Nguyên,… nhằm tìm hiểu sự tác động của các thể chế chính trị và của các cơ quan
chức năng đến Tây Nguyên như thế nào.
Các tài liệu thứ cấp nêu trên, sau khi tiến hành thu thập sẽ được tổng hợp, sắp

xếp theo thời gian, khu vực (buôn, xã, huyện, tỉnh) và dân tộc mà nghiên cứu đề cập
đến. Từ đó, tác giả tiến hành phân tích nhằm làm rõ sự biến đổi vị thế - vai trị của
những người có uy tín ở các tộc người khác nhau theo thời gian, qua các giai đoạn
lịch sử; đồng thời so sánh, đối chiếu vị thế - vai trò của những người có uy tín giữa
hai dân tộc Ê đê và Gia rai nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt
4.3.2. Phương pháp điền dã
Đây là phương pháp được chú trọng trong quá trình thực hiện đề tài với các
phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu cụ thể: Quan sát tham dự, phỏng vấn sâu cá nhân.
- Quan sát tham dự được thực hiện không chỉ qua các cuộc thăm viếng, phỏng
vấn mà cịn thơng qua sự hiện diện của nhà nghiên cứu trong đời sống sinh hoạt hàng
ngày của người dân. Với cách tiếp cận này, chúng tôi cố gắng thực hiện công việc thu
thập thông tin thông qua việc đến các buôn làng vào những khoảng thời gian khác
nhau trong năm: Trung bình mỗi chuyến đi kéo dài từ 10 đến 15 ngày tại các địa bàn
nghiên cứu để thu thập thơng tin phục vụ cho q trình phân tích dữ liệu nghiên cứu
5


liên quan đến đề tài. Trong quá trình điền dã tại buôn làng, chúng tôi tiến hành viết
nhật ký ghi chép điền dã với hai loại sổ: Ghi chép điền dã đầy đủ và Sổ ghi chép về
phương pháp và trải nghiệm bản thân của nhà nghiên cứu tương tác với đối tượng
nghiên cứu. Qua đó có thể thơng qua quan sát tham dự mà thâm nhập sâu vào sự vận
hành hằng ngày của đời sống cộng đồng, từ đó có thể hiểu được tình cảm, ý nghĩ của
những người trong cuộc thơng qua các cuộc trị chuyện phi chính thức và PVS.
- Phỏng vấn sâu: Phương pháp lấy thông tin định tính bằng các cuộc đối thoại
có chủ định với các thành viên trong cộng đồng. Phương pháp này được thực hiện
song song cùng với cuộc điền dã, quan sát tham dự tại các bn làng. Hình thức
phỏng vấn cá nhân phi cấu trúc và bán cấu trúc được sử dụng nhằm thu thập các
thông tin sơ cấp, liên quan trực tiếp đến đề tài, với 03 nhóm đối tượng chính: Nhóm
người có uy tín, nhóm người dân theo các độ tuổi và nhóm cán bộ Đảng, Chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể [xem Phụ lục 2].

Bản PVS được thiết kế dưới dạng nghiên cứu lịch đại hồi cố (Retrospective
longitudinal research) [63, tr.3]. Nội dung câu hỏi nhằm thu thập thơng tin liên quan
đến đời sống văn hóa, xã hội của cộng đồng qua các giai đoạn lịch sử, từ đó tìm hiểu
sự biến đổi về vị thế - vai trị của những người có uy tín trong cộng đồng theo nhịp
thời gian, cũng như nguyên nhân và hệ quả, tác động xã hội của sự biến đổi đó.
4.4. Phương pháp chọn mẫu và địa bàn điền dã
4.4.1. Tiêu chí lựa chọn tộc người và địa bàn khảo sát
Đầu tiên, cơng trình xác định tộc người để khảo sát (khách thể nghiên cứu) và
địa bàn nghiên cứu. Việc xác định tộc người để khảo sát có liên quan đến địa bàn
nghiên cứu và được chọn theo các tiêu chí sau đây:
- Tiêu chí dân số - tộc người:
Về mặt dân số - tộc người, Tây Nguyên có 3 nhóm cộng đồng: (1) các tộc
người thiểu số tại chỗ, (2) người Kinh, và (3) các tộc người thiểu số di dân. Theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/04/2009, dân số 12 tộc người bản địa Tây
Nguyên là 1.359.533 người, trong đó tộc người Gia rai và Ê đê có dân số đơng nhất,
lần lượt là 409.141 người và 304.794 người, chiếm tỷ lệ tương ứng là 30,1% và
22,4%. Do giới hạn của đề tài, tác giả chọn 2 tộc người có số dân đơng nhất là Ê đê
và Gia rai làm khách thể nghiên cứu. Điều đó khơng có nghĩa là người Kinh và các
6


tộc người thiểu số khác không được chú ý, nhưng các nhóm này được khảo sát,
nghiên cứu một cách gián tiếp, trong mối quan hệ tương tác với 2 tộc người nêu trên.
Cũng dựa trên số liệu về hiện trạng phân bố dân số của Tổng điều tra dân số
năm 2009, chọn địa bàn nghiên cứu là 2 tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, vì tộc người Gia
rai sống chủ yếu ở Gia Lai (372.302 người, chiếm tỷ lệ 91,0% dân số Gia rai sống ở
Tây Nguyên) và tộc người Ê đê sống chủ yếu ở Đắk Lắk (298.534 người, chiếm tỷ
lệ 97,9% dân số tộc người Ê đê sống ở Tây Nguyên) [9, tr.4]. Đặc biệt, đây là 2 tộc
người có những phong tục, tập qn, tín ngưỡng đặc sắc nhất vùng... mà ở đó sự
hiện diện của người có uy tín là nổi bật hơn cả so với tất cả các dân tộc khác ở Tây

Nguyên hiện nay.
- Tiêu chí tơn giáo
Việc tiếp nhận hệ thống tơn giáo thế giới, đặc biệt là Công giáo, Tin lành đã tác
động rất mạnh mẽ đến đời sống tinh thần, xã hội cổ truyền của cộng đồng tộc người
tại chỗ Gia rai, Ê đê. Vì vậy, luận án lưu ý đến tiêu chí tơn giáo khi chọn địa bàn
nghiên cứu. Cụ thể là chọn ra các cộng đồng (buôn, làng, xã, huyện) có các tơn giáo
tín ngưỡng khác nhau (khơng tơn giáo - tín ngưỡng cổ truyền, Cơng giáo, Tin
lành...) nhằm tìm hiểu sự khác biệt giữa các cộng đồng này.
4.4.2. Mô tả mẫu và địa bàn nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu
Như đã phân tích ở trên, tác giả lựa chọn 02 tỉnh ở Tây Nguyên để điền dã và
PVS là Đắk Lắk, Gia Lai với hai DTTS Ê đê và Gia rai. Bên cạnh đó, chọn huyện Di
Linh (tỉnh Lâm Đồng). Sở dĩ tác giả chọn huyện Di Linh dù đây không phải là địa
bàn chọn mẫu để nghiên cứu là bởi lẽ, qua tìm hiểu tác giả được biết đây là huyện đầu
tiên ở Tây Nguyên thực hiện thí điểm việc thành lập HĐGL, tác giả đến để thu thập
các thơng tin liên quan đến q trình thành lập, cơ cấu tổ chức và những hoạt động
của HĐGL ở đây.
Sau bốn cuộc điền dã ở Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng, chúng tôi đã qua 3
tỉnh, 2 thành phố (thuộc tỉnh), 5 huyện, 8 xã và 15 buôn/làng.

7


Bảng 1.1. Mô tả địa bàn điền dã
Tỉnh

Thành phố/Huyện




Buôn/làng

Ia Dêr

B’rêng

Ia Grăng

Châm, Ô rê

Ia Bă

Ia Dun De

Pleiku

Ia Grai
Gia
Lai

Ia Ka
Chư Păh

Đắk
Lắk
Lâm
Đồng

Yố 1, Yố 2, Mrong
Ngoă 3, Mrong Ngoă 4


Ia Mơ nông

Kép 1, Kép 2,

Ia Kreng

Duch 1, Duch 2, Díp

Cư Né

Drao

Pơng Drang

Êa Nur

Bn Ma Thuột
Krông Buk

Di Linh

Sau khi đi trên diện rộng để tìm hiểu nhiều địa bàn (ở cuộc điền dã lần thứ
nhất), chúng tơi chọn và tập trung tìm hiểu các xã Ia Ka và Ia Kreng ở huyện Chư
Păh (dân tộc Gia rai) và xã Cư Né, Pơng Drang huyện Krông Buk (dân tộc Ê đê) ở
cuộc điền dã lần hai và ba. Đây là những xã điển hình, đáp ứng các tiêu chí của cuộc
điền dã về dân số - tộc người và tôn giáo. Xã Ia Kreng là một xã vùng sâu vùng xa
nghèo nhất của huyện, xã có 3 làng là Duch 1, Duch 2, Díp, có 481 hộ, 1844 khẩu,
hầu hết dân cư là đồng bào Gia rai. Về thành phần tơn giáo, xã có cả Công giáo
(làng Duch 1), Tin lành (làng Duch 2) và tín ngưỡng cổ truyền (làng Díp). Tương tự,

xã Ia ka cũng đa dạng về thành phần tôn giáo, nhưng đây là một xã nằm trên quốc lộ
14, đang đô thị hóa và đa dạng về thành phần tộc người. Ở huyện Krông Buk (tỉnh
Đắk Lắk) chọn buôn Drao (xã Cư Né) và buôn Êa Nur (xã Pơng Drang) để đi điền
dã. Bn Êa Nur nằm trong lịng xã Pơng Drang đang đơ thị hóa, tỷ lệ đồng bào Ê
đê chiếm gần một nửa, là bn có tỷ lệ đồng bào tại chỗ cao nhất của xã. Khoảng
2/3 người dân trong buôn theo đạo, chủ yếu là đạo Tin lành. Buôn Drao là vùng
nông thôn, đồng bào Ê đê chiếm đa số, 1/2 dân số theo đạo Tin lành. Việc tìm hiểu
8


những bn làng điển hình như vậy giúp nghiên cứu có cái nhìn đồng đại, nhận ra
những điểm tương đồng và dị biệt giữa các vùng.
Xen kẽ các cuộc nghiên cứu đó, chúng tơi đã tiến hành PVS một số chuyên gia
am hiểu về vấn đề nghiên cứu, tập trung chủ yếu tại thành phố Pleiku (Ban Dân tộc
tỉnh, Công an tỉnh Gia Lai) và thành phố Buôn Ma Thuột (Ban Chỉ đạo Tây Nguyên,
Đại học Tây Nguyên, Công an tỉnh Đắk Lắk...) [Xem Phụ lục 2].
- Các cuộc điền dã
+ Cuộc điền dã lần thứ nhất
Kết hợp hai tiêu chí đã nêu là dân số - tộc người và tôn giáo, sau khi chọn được
địa bàn nghiên cứu cấp tỉnh, tiến hành chọn các huyện Ia Grai và huyện Chư Păh ở
Gia Lai; huyện Krông Buk và thành phố Buôn Ma Thuột thuộc tỉnh Đắk Lắk để tiến
hành điền dã, nghiên cứu lần thứ nhất. Đây là những địa bàn có đơng dân số là tộc
người bản địa được chọn là Gia rai và Ê đê, có số tín đồ theo đạo Công giáo và Tin
lành lớn, đồng thời là nơi có các cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực mà tác giả
nghiên cứu. Ở cấp xã và làng là địa bàn nghiên cứu, chúng tôi lưu ý chọn những xã
và làng có đặc điểm khác nhau nhằm có sự đối chiếu, so sánh. Chọn theo các tiêu
chí sau:
1. Về tỷ lệ người nhập cư mới đến, chọn 1 - 2 xã và làng có đơng người dân tộc
tại chỗ và 1 - 2 xã làng có tỷ lệ cao người nhập cư là các dân tộc khác (Kinh, các dân
tộc thiểu số phía Bắc).

2. Về tỷ lệ người dân theo đạo (Công giáo, Tin lành), chọn 1 đến 2 xã/làng có
ít người theo đạo, vẫn cịn giữ tín ngưỡng truyền thống và 1 đến 2 xã/làng có tỷ lệ
người theo đạo cao.
Với các tiêu chí chọn khách thể và địa bàn nghiên cứu như trên, nhóm nghiên
cứu đã đi điền dã lần thứ nhất trong 16 ngày, từ 26/07/2016 đến 10/08/2016, qua 3
xã Ia Dêr, Ia Bă và Ia Grăng của huyện Ia Grai; Ia Ka, Ia Mơ nông và Ia Kreng của
huyện Chư Păh và thành phố Pleiku, Gia Lai; các xã Cư Né, Pơng Drang huyện
Krông Buk và thành phố Buôn Ma Thuột thuộc tỉnh Đắk Lắk để gặp gỡ và PVS 26
người. Đó là các già làng, Trưởng thôn, Trưởng ban Mặt trận, người có uy tín, chức
sắc tơn giáo và 2 Chủ tịch xã. Đồng thời đi tham quan và tìm hiểu nhà rông, nước
giọt và khu nhà mồ của làng Yố xã Ia Ka, làng Kép xã Ia Mnong và 3 làng Duch 1,
9


Duch 2 và Díp của xã Ia Kreng. Trong đợt điền dã này chúng tôi cũng tiến hành
PVS các chuyên gia có am hiểu chuyên sâu về vấn đề nghiên cứu [xem Phụ lục 2].
Kết quả cuộc cuộc điền dã lần thứ nhất này là Ghi chép Nhật kí điền dã, các
Biên bản PVS. Các thông tin thu được từ cuộc điền dã lần thứ nhất giúp đề tài củng
cố các lập luận đã có, đồng thời mở ra thêm nhiều vấn đề sâu rộng hơn cần tiếp tục
nghiên cứu làm rõ. Từ các địa bàn nghiên cứu đã đi qua, đề tài chọn ra 1 - 2 xã điển
hình để tiếp tục thực hiện cuộc điền dã lần thứ hai và lần thứ ba.
+ Cuộc điền dã lần thứ hai và thứ ba
Sau khi trở về từ cuộc điền dã lần thứ nhất, tiến hành phân tích các thơng tin
thu được, chọn ra các địa bàn đáp ứng hai tiêu chí đã đặt ra về mặt dân số - tộc
người và tôn giáo để tiến hành các công tác chuẩn bị, liên hệ với địa phương.
Cuộc điền dã lần thứ hai bắt đầu từ ngày 12/01/2017 đến 22/1/2017 (11 ngày).
Nhằm tìm hiểu sâu về địa bàn, chúng tơi chọn làng Yố xã Ia Ka và tiếp tục đến với 3
làng của xã Ia Kreng, gặp gỡ và phỏng vấn sâu 20 người, gồm các già làng, Trưởng
thôn, Trưởng ban Mặt trận, Công an xã, chức sắc tôn giáo người dân có đạo và
người dân khơng có đạo, những người dân được mọi người nhìn nhận là có uy tín

trong cộng đồng. Chúng tôi tham gia vào các hoạt động chung của cộng đồng như
Tết của đồng bào Gia rai ở làng Kép, đám cưới, tiệc mừng nhà mới, buổi sinh hoạt
của con chiên Công giáo ở giáo xứ Yali, xã Ia Ka...
Cuộc điền dã lần thứ ba bắt đầu từ ngày 14/02/2017 đến 22/2/2017 (8 ngày).
Tương tự như cuộc điền dã lần thứ hai, chúng tôi đi điền dã ở buôn Ea Nur và buôn
Drao. Xã Pơng Drang sắp lên thị trấn, và các thông tin thu thập được từ cuộc điền dã
lần thứ nhất cho thấy đây là xã phát triển nhất của huyện nhưng về an ninh cũng rất
phức tạp. Bn Ea Nur là bn có đồng bào Ê đê chiếm tỷ lệ cao, thành phần tôn
giáo đa dạng (có Phật giáo, Cơng giáo và Tin lành). Xã Cư Né là “điểm nóng” của
huyện, trong đó bn Drao là bn có thành phần dân tộc, tơn giáo đa dạng, đồng
thời nổi bật bởi các vụ việc như vượt biên, chặt phá rừng cây thông ven quốc lộ 14,
tham gia Tin lành Đề ga. Chúng tôi đã gặp gỡ và phỏng vấn sâu 30 người, gồm các
già làng, Trưởng thôn, Trưởng ban Mặt trận, Công an xã, chức sắc chức việc tơn
giáo, người dân có đạo và người dân khơng có đạo, những người dân được mọi
người nhìn nhận là những người có uy tín trong cộng đồng, những người vượt biên
10


trở về và những người từng đi theo Tin lành Đê ga. Chúng tôi tham gia buổi Đại hội
bầu nhân sự Ban Hướng dẫn điểm nhóm thường niên Tin lành buôn Êa nur, đám
cưới, buổi sinh hoạt vào chủ nhật của tín đồ Tin lành ở bn Drao...
+ Cuộc điền dã thứ tư
Để có được luận cứ thuyết phục trong việc đưa ra những kiến nghị, đề xuất,
đặc biệt là những kiến nghị, đề xuất liên quan trực tiếp đến HĐGL, từ ngày 02/03
đến 05/03/2017, tác giả luận án đã tìm về huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng và được
Ban Dân tộc huyện Di Linh cung cấp các tài liệu về quá trình thành lập Tổ/Hội Già
làng, đặc biệt là các báo cáo công tác của các Hội Già làng ở các xã. Kết quả thu thập
tài liệu cho thấy, sau 10 tháng triển khai (từ tháng 2/2003 đến tháng 12/2003), huyện
Di Linh đã thành lập được Tổ già làng ở 72 thôn/làng, với 14 Hội già làng ở 14 xã,
hoạt động tương đối hiệu quả và tồn tại trong một thời gian nhất định.

- Thống kê người tham gia PVS: Một số đặc điểm nhân khẩu
Như vậy, sau bốn cuộc điền dã chúng tôi đã gặp gỡ và phỏng vấn sâu 87 người.
Trong đó, đồng bào Gia rai chiếm 48,3%, Ê đê chiếm 36,8% và người Việt (Kinh)
chiếm 14,9% (có 13 người, gồm 1 linh mục Cơng giáo, 1 Bí thư thơn, 10 Cơng an
xã/huyện và 1 chun gia). Về giới tính, do các già làng, Trưởng thơn, chức sắc,
chức việc tôn giáo thường là nam giới nên hầu hết người chúng tôi gặp gỡ là nam
(chiếm 89,7%), chỉ có 9 người là nữ (chiếm 10,3%) gồm 1 chuyên gia, 5 cán bộ cấp
tỉnh, chị Hội trưởng hội Phụ nữ xã và 2 người dân.
Về tuổi tác, người trẻ nhất tham gia PVS là 22 tuổi và cao nhất là 97 tuổi. Một
nửa số người tham gia PVS dưới 47 tuổi và một nửa còn lại trên 47 tuổi. Những
người tham gia PVS tập trung ở trung niên từ 35 đến 50 tuổi (chiếm 2/5 số mẫu), số
còn lại rải đều ở 3 nhóm thanh niên (dưới 35 tuổi), cao niên (51 đến 65 tuổi) và lão
niên (trên 65 tuổi).
Về chức vụ/nghề nghiệp, trong số 87 người tham gia PVS có 21 người (chiếm
24,1%) là cán bộ thơn/bn/làng, trong đó gồm 14 già làng, 5 Bí thư, Trưởng thơn, 2
Trưởng ban Mặt trận. Số người là cán bộ cấp tỉnh chiếm 11,5% dung lượng mẫu
(gồm Vụ trưởng và Phó Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, cán bộ Ban Dân tộc tỉnh Gia Lai,
Đắk Lắk, công an tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk), cán bộ xã/huyện (Chủ tịch xã, Công an
xã/huyện, Hội trưởng Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi,...) chiếm 26,4%, số người
11


dân chiếm 28,7% (gồm 25 người, trong đó 15 người có đạo Tin lành hoặc Cơng
giáo, 10 người khơng theo đạo nào) và Chức sắc, chức việc Tôn giáo chiếm 9,2% (1
linh mục Công giáo, 2 giáo phu Công giáo, 2 mục sư Tin Lành, 2 truyền đạo Tin
lành, chấp sự đạo Tin lành).
Bảng 1.2: Đặc điểm nhân khẩu của người trong mẫu nghiên cứu
Số người

Tỷ lệ (%)


Người dân

25

28.7

Chức sắc, chức việc tôn giáo

8

9.2

21

24.1

23

26.4

Cán bộ cấp tỉnh (chuyên gia)

10

11.5

Tổng

87


100.0

Gia Rai

32

36.8

Ê đê

42

48.3

Kinh (Việt)

13

14.9

Tổng

87

100.0

Nam

78


89.7

Nữ

9

10.3

Tổng

87

100.0

Dưới 35 tuổi

13

14.9

35 đến 50 tuổi

37

42.5

51 đến 65 tuổi

21


24.1

trên 65 tuổi

16

18.4

Tổng

87

100.0

vụ, Cán bộ thôn/buôn/làng
nghề nghiệp Cán bộ xã/huyện
Chức

Dân tộc

Giới tính

Nhóm tuổi

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Những nghiên cứu trong luận án có những đóng góp mới về khoa học, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, luận án đưa ra một khái niệm mang tính tổng quát về người có uy tín
và các tiêu chí xác định người có uy tín trong xã hội Tây Ngun hiện nay.

12


Thứ hai, luận án làm rõ hiện trạng vị thế của người có uy tín trong cộng đồng
DTTS ở Tây Nguyên (qua điển cứu hai dân tộc Ê đê và Gia rai) trên các phương
diện: Cơ cấu, thành phần, nguyên nhân biến đổi... Đặc biệt, luận án chỉ rõ những bất
cập về chính sách đối với người có uy tín trong các văn bản hiện hành.
Thứ ba, luận án chỉ ra xu hướng biến đổi vị thế của người có uy tín trong cộng
đồng DTTS trên cơ sở phân tích tình hình thực tế tại xã hội Tây Nguyên. Đặc biệt,
luận án đưa ra những định hướng chính sách và khuyến nghị để các cơ quan chức
năng nghiên cứu, tham khảo, từ đó có thể bổ sung, hồn thiện tiêu chí người có uy
tín nhằm phát huy vai trị, vị thế của người có uy tín vùng DTTS Tây Ngun trong
bối cảnh có nhiều biến chuyển mới, góp phần phát triển KT - XH và giữ vững AN CT vùng Tây Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Một là, luận án cung cấp cho người đọc, các nhà nghiên cứu lý luận về các tiêu
chí xác định, sự biến đổi về thành phần, cơ cấu… của người có uy tín trong bối cảnh
biến đổi mạnh mẽ của cơ cấu xã hội vùng Tây Nguyên.
Hai là, những nghiên cứu trong luận án cung cấp một cách nhìn tổng quan về
hiện trạng người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên nói chung và trong
DTTS Ê đê, Gia rai nói riêng. Đây là một trong những căn cứ cần thiết để các ngành
khoa học làm cơ sở khi đi vào nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vùng dân
tộc học Tây Nguyên, đặc biệt là hai dân tộc Ê đê và Gia rai.
Ba là, tác giả luận án đã chỉ ra những bất cập, hạn chế, sự chồng chéo... trong
các chính sách liên quan đến người có uy tín của các cơ quan chức năng, đặc biệt là
các cơ quan có liên quan trực tiếp đến người có uy tín.
Bốn là, luận án đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm phát huy vị thế của
người có uy tín trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên. Đây là cơ sở để các cơ quan
quản lý nhà nước tham khảo trong hoạch định, soạn thảo và ban hành chính sách dân
tộc nói chung và chính sách đối với người có uy tín nói riêng, nhằm phát huy một
cách hiệu quả vị thế, vai trò của người có uy tín trong phát triển kinh tế, giữ gìn bản

sắc văn hóa, ổn định AN - CT, giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên.

13


7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục cơng trình cơng bố của tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành bốn chương, với kết
cấu cụ thể như sau:
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chương 2: LUẬN CỨ LÝ THUYẾT VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CĨ UY TÍN VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
Chương 3: HIỆN TRẠNG VỊ THẾ CỦA NGƯỜI CĨ UY TÍN TRONG
CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN: TRƯỜNG HỢP DÂN
TỘC THIỂU SỐ Ê ĐÊ VÀ GIA RAI
Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VỀ VỊ THẾ VÀ VAI TRỊ CỦA
NGƯỜI CĨ UY TÍN TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY
NGUYÊN

14


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của tổng quan này là nghiên cứu ba nội dung chủ yếu liên quan trực
tiếp đến luận án: 1. Các nghiên cứu lý luận vị thế, vai trò xã hội; 2. Những cơng
trình nghiên cứu về DTTS Ê đê và Gia rai; 3. Những cơng trình nghiên cứu về người
có uy tín trong cộng đồng DTTS Ê đê và Gia rai.
1.1. Các nghiên cứu lý luận về vị thế, vai trò xã hội
Nghiên cứu cấu trúc xã hội nói chung và cấu trúc xã hội trong chuyên ngành

Xã hội học nói riêng có ý nghĩa quan trọng. Trong sự vận hành và phát triển xã hội,
cấu trúc xã hội không những được xem như là một tổng thể, một tập hợp các bộ
phận (các cộng đồng, tầng lớp, giai cấp…), mà còn được xem xét về mặt kết cấu và
hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội. Mặt khác, việc coi cấu trúc xã
hội là một “bộ khung” để xem xét xã hội cho phép chúng ta biết được một xã hội cụ
thể nào đó được cấu thành từ những nhóm xã hội nào. Cũng thơng qua “bộ khung”
này mà chúng ta biết được “vị thế” - tức là chỗ đứng của từng cá nhân, từng nhóm
xã hội trong xã hội, vai trò xã hội của các cá nhân, sự đan kết những liên hệ và
tương tác cá nhân, nhóm, cộng đồng, từ đó mà áp dụng những phương thức ứng xử
và quản lý thích hợp, góp phần vào sự tồn tại, ổn định và phát triển của một xã hội
cụ thể.
Như vậy, vị thế và vai trò xã hội là hai bộ phận cấu thành rất quan trọng trong
cấu trúc xã hội. Từ trước đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về vị thế và
vai trị xã hội của cá nhân.
Trong cơng trình nghiên cứu Enduring Issues in Sociology (tạm dịch: Những
vấn đề cơ bản của Xã hội học), Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân học văn hóa
người Mỹ là người đầu tiên sử dụng khái niệm “vai trò” và “vị thế” để nghiên cứu
cấu trúc bên trong của hệ thống xã hội, của mối quan hệ giữa nhân cách và xã hội,
và kết hợp chủ nghĩa chức năng với tiếp cận lịch sử để nghiên cứu văn hóa. Ơng cho
rằng, vị thế là vị trí trong khn mẫu nhất định của các hành vi tương tác giữa các cá
nhân hoặc nhóm người, còn vai trò là mặt động thái của vị thế. Linton phân biệt vị
thế gán cho cá nhân không liên quan gì tới năng lực hay những khác biệt bên trong
của họ và vị thế giành được nhờ những năng lực, phẩm chất đặc biệt.
15


Nhập môn lịch sử Xã hội học (nguyên bản tiếng Đức: Einfuhrung in die
Geschichte der oziologie) là cơng trình của tác giả người Đức Herman Korte, xuất
bản năm 1993. Trong cơng trình này, khi nghiên cứu quan niệm của Max Weber về
quyền lực, tác giả cho rằng “Weber chủ yếu xem xét ba loại hình tiêu biểu của thống

trị hợp pháp (chính thống) được phân biệt như sau: 1. Loại mang tính hợp lý: trên cơ
sở niềm tin vào tính hợp pháp các trật tự và quyền cai trị của những người được giao
việc thực hiện sự thống trị (thống trị hợp pháp), hoặc 2. Loại mang tính truyền
thống: trên cơ sở sự sùng bái khác thường vào sự linh thiêng hoặc sự hùng mạnh
hoặc sự tiêu biểu của một người hoặc trật tự do người đó lập ra hoặc đề xuất (thống
trị bằng uy tín)...” [45, tr.162 - 163]. Đây là một nhận định quan trọng khi chúng ta
nghiên cứu, phân tích về vị thế xã hội hay uy tín cá nhân trong một xã hội cụ thể.
Social Structure (Cấu trúc xã hội) là một cơng trình nghiên cứu của Lopez J. và
Scott John (2000). Từ việc đi vào luận giải khái niệm cấu trúc xã hội, các thể chế
hay các mối quan hệ cơ bản trong cấu trúc xã hội, cơng trình đã đi vào phân tích
những luận điểm cơ bản của một số nhà xã hội học tiêu biểu về cấu trúc xã hội và
những thành tố cơ bản của nó. Khi phân tích quan điểm của Linton, tác giả nhận
định rằng theo Linton thì các định chế xã hội quy định những vị thế xã hội mà con
người có thể có và những hành vi cư xử của anh ta gắn liền với những vị thế đó [3,
tr.29]. Cũng theo tác giả, trong quan điểm của mình, Warner (1952) và Popitz
(1967) quan niệm vị thế xã hội chính là “một vị trí” hoặc “một địa điểm” cố định
trong hệ thống xã hội [3, tr.29]. Tác giả cho rằng, "vị thế xã hội là nhân tố cấu thành
nên mạng lưới của những vị thế lớn hơn. Nói cách khác, chúng là những đơn vị của
bản đồ tri nhận được mọi người sử dụng để sắp xếp các hành vi xã hội của mình.
Chính từ bản đồ tri nhận này, mỗi người nhận ra được vị thế của mình" [3, tr.29].
Năm 2003, Nxb. Chính trị quốc gia đã xuất bản cuốn Một số nội dung cơ bản
của Xã hội học. Theo quan niệm trong nghiên cứu này, “vị thế là một vị trí xã hội.
Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân nào đó trong xã hội và mối quan hệ
của cá nhân đó với những người khác, do đó vị thế xã hội cũng là một dạng biểu hiện
địa vị xã hội của con người” [65, tr.79 - 80]. Như vậy, dưới góc nhìn của nhóm tác
giả, nội hàm của khái niệm “địa vị xã hội” rộng hơn khái niệm “vị thế xã hội”. Cơng
trình này cũng cho rằng, “trong xã hội học, khái niệm vai trò xã hội dùng để chỉ chức
16



năng xã hội, mơ hình hành vi được xác lập một cách khách quan bởi vị thế xã hội của
cá nhân trong hệ thống các quan hệ xã hội hoặc hệ thống các quan hệ cá nhân” [60,
tr.78]. Hay nói một cách khác, “vai trò xã hội là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi,
nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định” [65, tr.78].
Social Structure (Cấu trúc xã hội) là một nghiên cứu của tác giả Charles
Crothers, được công bố vào năm 2003. Một trong những nội dung cơ bản mà cơng
trình này đề cập là đi vào phân tích những quan điểm cơ bản của Parsons và Shils
trong tác phẩm Toward a General Theory of Action1 (1951). Theo Parsons và Shils,
"một trong những bức tường kiên cố nhất, ngăn cản việc xây dựng cấu trúc xã hội
chính là sự phân định giữa vị thế và vai trò. Hai yếu tố này giống như hai mặt của
một đồng xu, có quan hệ khăng khít, gắn bó và rất khó tách rời, cũng như phân biệt
nhau. Vị thế xã hội, hiểu theo cách đơn giản nhất, đó chính là một phần trong tổng
thể của bức tranh về vị thế, mà theo đó từng vị thế sẽ gắn liền với nghĩa vụ phải tuân
theo các quy tắc ứng xử và hành động nhất định. Thuật ngữ “vị trí xã hội” vừa mang
nghĩa sở chỉ vừa mang nghĩa hàm chỉ, vừa thể hiện sự trang trọng, vừa gần gũi" [1,
tr.84]. Tác giả dẫn chứng ví dụ: Với vị thế xã hội là thầy giáo, người thầy vừa được
yêu cầu phải thực hiện tốt công tác giảng dạy trong lớp, vừa phải cư xử chuẩn mực
trong cộng đồng. Thực hiện tốt công tác giảng dạy trong lớp là nghĩa sở chỉ của vị
thế xã hội, còn cư xử chuẩn mực trong công đồng là nghĩa hàm chỉ [1, tr.84]. Ngoài
ra, tác giả nhận định rằng một cá nhân với một vị thế xã hội phải tiếp xúc với nhiều
đối tượng khác nhau nên phải thực hiện rất nhiều vai trị xã hội khác nhau.
Trong cơng trình Lịch sử và lý thuyết Xã hội học (2008), tác giả Lê Ngọc Hùng
đã đi vào luận giải những quan điểm cơ bản của các nhà xã hội học tiêu biểu và một
số chủ thuyết xã hội học hiện đại. Khi nghiên cứu về lý thuyết hệ thống xã hội của
Talcott Parsons, tác giả đã phân tích các đơn vị của hệ thống xã hội, trong đó có “vị
thế - vai trị với tư cách là một tiểu hệ thống có tổ chức của một người hay nhiều
người chiếm giữ những vị thế đã cho và hành động hướng vào nhau theo các xu
hướng tương tác nhất định” [52, tr.235]. Còn khi nghiên cứu về lý thuyết trung gian
về vai trò - tập hợp của Robert Merton, tác giả cũng đã đi vào nghiên cứu quan niệm
về hệ vai trò của Merton. Theo tác giả, “Merton đưa ra khái niệm “hệ vai trò” để chỉ

1

Tạm dịch: Hướng đến một lý thuyết tổng quát về hành động.

17


một cấu trúc gồm các vai trò và các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi
nắm giữ một vị thế xã hội nhất định” [52, tr.248]. Tác giả khẳng định, quan niệm về
hệ vai trò của Merton đặt ra một loạt vấn đề nghiên cứu quan trọng trong xã hội học.
Đó là việc tìm hiểu sự tác động của cấu trúc xã hội đối với việc hình thành hệ vai
trị; đó là xem xét cách thực hiện hệ vai trị để đảm bảo tính cân bằng, ổn định cũng
như để giải quyết những mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra giữa các vai trị.
Nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và đào tạo xã hội học ở nước ta được tiến
hành một cách khoa học, bám sát những quan niệm, khái niệm xã hội học cơ bản,
chính thống, năm 2010, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội đã cho xuất bản cuốn Từ điển
Xã hội học Oxford (được nhóm dịch giả do Bùi Thế Cường làm Trưởng nhóm biên
dịch từ cuốn Oxford Dictionary of Sociology, do Gordon Marchall chủ biên, Nxb.
Oxford University ấn hành năm 1998). Tác giả cho rằng “có hai cách tiếp cận khái
niệm vị thế trong xã hội học. Định nghĩa một cách lỏng lẻo, vị thế đơn giản chỉ có
nghĩa là vị trí mà một người chiếm giữ trong cấu trúc xã hội, như giáo viên hay tu sĩ.
Nó thường kết hợp với quan niệm về vai trò xã hội để đưa ra ý tưởng về vị thế - vai
trò. Theo nghĩa chặt chẽ hơn, vị thế nói đến một hình thức phân tầng xã hội, trong đó
các nhóm vị thế hay tầng lớp được xếp hạng và được tổ chức theo các tiêu chí luật
pháp, chính trị và văn hóa” [92, tr.605]. Tác giả nhận định: “Người ta đã dành nhiều
công sức để nhằm cứu vãn khái niệm vị thế, bằng cách cho rằng nó bao gồm một sự tổ
chức có tính khách quan các quyền và các đặc quyền đặc lợi, mà trong nhiều trường
hợp được hỗ trợ bằng luật pháp và nhà nước, chứ không phải đơn giản chỉ là ý thức
chủ quan về sự kính trọng cá nhân” [92, tr.606].
Năm 2013, Nxb. Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn Xã hội học do tác giả Bùi

Quang Dũng chủ biên, với sự tham gia của nhiều tác giả xã hội học ở Việt Nam. Mặc
dù phần dành cho nội dung vị thế xã hội không nhiều, song những quan điểm của các
tác giả về vấn đề này có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng cho các nhà nghiên
cứu. Khi bàn về vị thế xã hội, tác giả Nguyễn Hữu Minh cho rằng, “vị thế xã hội phản
ánh mức độ uy tín và sự kính trọng từ người khác. Cơ sở cho sự kính trọng đó tùy
thuộc vào phẩm chất cá nhân được người khác coi là quan trọng trong xã hội. Nghề
nghiệp là một trong những chỉ báo quan trọng nhất của vị thế, vì nó thể hiện cách thức
chủ yếu để có quyền lực và tài sản” [28, tr.47]. Phân tích cách tiếp cận của Weber về
18


×