Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm giả cua với công nghệ hiện đại trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.38 KB, 130 trang )

-1-

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1- ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.1- Lý do hình thành dự án
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, thu nhập của người dân ngày càng
cao, đời sống vật chất ngày càng được cải thiện, nhu cầu thực phẩm không chỉ
để no mà còn phải ngon, đủ dinh dưỡng, hợp vệ sinh, đồng thời thực phẩm chế
biến sẵn cũng phải đáp ứng sự tiện lợi cho người tiêu dùng, phù hợp với lối sống
công nghiệp là điều chắc chắn phải tiến tới. Ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm trong cả nước nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ngày càng
phát triển mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thực phẩm chế biến có chất
lượng ngày càng cao. Sự ra đời và phát triển liên tục của các công ty, xí nghiệp
chế biến thực phẩm như Vissan, Cầu Tre, Hạ Long, Hiến Thành, Tuyền Ký,
Thủy Đặc Sản, Agrex Sài Gòn, Super Chef, Le Gourmet … đã minh chứng điều
đó.
Qua khảo sát thị trường thực phẩm ở một số nước Châu Á như Thái Lan, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, công ty Vissan nhận thấy một sản phẩm mang tên
“giả cua” (imitation crab stick) được sản xuất từ nguyên liệu Surimi (cá xay
nhuyễn, tách xương, da, tách các thành phần chất béo), sản phẩm này được tiêu
thụ rất lớn trên thị trường các nước trên. Đặc biệt là người Thái Lan và Trung
Quốc có cách ăn uống và khẩu vị giống người Việt Nam. Do đó, công ty Vissan


-2-

nhận định đây là mặt hàng có thể phát triển mạnh trong nước, nếu thành công
trong đầu tư, sản phẩm này sẽ củng cố thêm cho công ty một thế đứng dẫn đầu
trong ngành chế biến thực phẩm (Trước đây công ty cũng đã thành công với sản
phẩm xúc xích tiệt trùng và hiện nay công ty đang dẫn đầu thị trường về sản
phẩm này), tạo lợi thế cạnh tranh mới và không ngừng tăng hiệu quả sản xuất


kinh doanh của công ty. Đó là ý tưởng ban đầu của việc hình thành dự án xây
dựng một phân xưởng sản xuất loại sản phẩm “giả cua” tại Việt nam.
Sản phẩm “giả cua” là một loại thực phẩm chế biến sẵn có dinh dưỡng cao, hàm
lượng đạm (protein) cao, cholesteron thấp, rất tốt cho người có nguy cơ về bệnh
tim mạch, tránh tình trạng béo phì. Do đó khuynh hướng tiêu dùng của người dân
có thể chuyển sang sử dụng loại thực phẩm tốt cho sức khoẻ và đủ dinh dưỡng,
đặc biệt là người cao tuổi.
Như vậy, dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm “giả cua” của
công ty Vissan phù hợp với chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của công
ty như sau:
 Phù hợp với định hướng phát triển của ngành chế biến thực phẩm.
 Đa dạng hoá sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh.
 Sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có của công ty.
 Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Với những lý do nêu trên, dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm
giả cua với công nghệ hiện đại trên địa bàn thành phố Hồ chí Minh là cần thiết.


-3-

1.1.2- Mục tiêu dự án
Mục tiêu chính của dự án là xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm “giả cua”.
Ngoài ra dự án còn khảo sát thêm nhận thức của người tiêu dùng về khuynh
hướng chuyển đổi thực phẩm chế biến từ thịt sang thực phẩm chế biến từ cá - là
loại thực phẩm dinh dưỡng và tốt cho sức khoẻ con người-.

1.1.3- Lý do hình thành đề tài
Dự án xây dựng phân xưởng chế biến sản phẩm giả cua là dự án thực tế của
công
quả,


ty Vissan. Nhằm đảm bảo việc đầu tư của công ty vào dự án thu được hiệu
cần thiết phải tiến hành phân tích tính khả thi của dự án. Hơn nữa, nội dung

của dự án có những vấn đề mới cần nghiên cứu như: nhu cầu thị trường, giá cả
sản phẩm, khả năng chấp nhận sản phẩm mới của người tiêu dùng. Do đó dự án
này được đề nghị để làm đề tài tốt nghiệp.

1.2- MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Mục tiêu của đề tài là:
 Khảo sát mối quan tâm của người tiêu dùng đối với loại sản phẩm tránh nguy
cơ về bệnh béo phì và tim mạch cho con người, từ đó xác định chiến lược
trong việc phát triển sản phẩm mới của công ty Vissan.
 Phân tích tính khả thi của dự án đầu tư xây dựng phân xưởng chế biến sản
phẩm giả cua nhằm trả lời các vấn đề cụ thể sau:


-4-

-

Nhu cầu tiềm năng của thị trường, giá bán sản phẩm, chất lượng yêu cầu
của sản phẩm, qui mô sản xuất của dự án.

-

Dự án có đáng giá về mặt tài chính và kinh tế không.

-


Các nguồn rủi ro của dự án và ảnh hưởng của nó đến kết quả.

-

Tác động của lạm phát đến kết quả của dự án.

1.3- PHẠM VI ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu được giới hạn ở phạm vi như sau:
 Khảo sát nhận thức và đánh giá chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng
thông qua việc phỏng vấn người dân từ độ tuổi 15 đến 60 sau khi ăn thử sản
phẩm giả cua.
 Phân tích nhu cầu tiềm năng theo thời gian của thị trường Việt Nam đối với
sản phẩm giả cua thông qua nhu cầu tiêu thụ của thị trường tương đương là
Thái Lan.
 Phân tích dự án ở mức độ tiền khả thi.
 Phân tích tài chính và kinh tế bằng việc xác định NPV và IRR của dòng ngân
lưu tài chánh và kinh tế của dự án.
 Xem xét ảnh hưởng của lạm phát và phân tích rủi ro theo một số biến nhạy
cảm lên NPV và IRR.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho việc ra quyết định nghiên cứu khả thi
của công ty Vissan và định hướng về sản phẩm mới trong tương lai.


-5-

1.4- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu bao gồm các phần:
 Nghiên cứu chất lượng sản phẩm về mặt cảm quan (màu sắc, mùi vị, cầu trúc
sản phẩm…), giá bán sản phẩm thông qua việc thu thập thông tin sơ cấp từ thị
trường thực nghiệm (cho người tiêu dùng ăn thử sản phẩm giả cua)

 Dự báo nhu cầu sản phẩm giả cua tại Việt Nam theo nhu cầu thực tế tại thị
trường Thái Lan trong quá khứ, trong đó có xem xét sự chênh lệch dân số
giữa hai quốc gia.
 Dự báo giá các yếu tố đầu vào theo mô hình hồi qui tuyến tính theo thời gian,
đồng thời dựa vào số liệu dự báo có sẵn của các ban ngành chức năng.
 Phân tích tài chánh theo chỉ tiêu NPV và IRR trên quan điểm tổng đầu tư và
chủ đầu tư có xét ảnh hưởng của lạm phát lên dòng ngân lưu của dự án.
 Phân tích rủi ro được thực hiện qua phân tích độ nhạy, phân tích tình huống
và phân tích rủi ro bằng mô phỏng.
 Phân tích kinh tế được thực hiện qua tính toán các hệ số chuyển đổi giá cho
các nhập lượng và xuất lượng của dự án để tính chi phí và lợi ích kinh tế
nhằm xác định giá trị kinh tế của dự án.

1.5- THU THẬP DỮ LIỆU
 Dữ liệu sơ cấp được thu thập từ người tiêu dùng thành phố Hồ Chí Minh có
độ tuổi từ 15 đến 60 tuổi với cỡ mẫu là 500 phần tử.


-6-

 Dữ liệu thứ cấp về sản lượng tiêu thụ sản phẩm giả cua tại Thái Lan từ công
ty Thai Luxury Foods.
 Dữ liệu thứ cấp về giá nguyên liệu được thu thập từ công ty Vissan, PEJA
Việt Nam, công ty Prima Sea - Hàn Quốc, công ty Young Nam - Hàn Quốc
 Dữ liệu thứ cấp về dân số từ Niên Giám Thống Kê 2002, Kết quả dự báo dân
số Việt Nam năm 1999 đến 2024, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam.
 Số liệu có liên quan đến việc định giá thiết bị, xác định công suất thiết bị,
định suất tiêu thụ năng lượng được thu thập từ công ty BEHN MEYER - Việt
Nam, công ty YANAGIYA - Nhật Baûn.



-7-

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Phần đầu của chương này trình bày các phương pháp tạo sản phẩm mới thường
áp dụng tại công ty Vissan. Phần hai là cơ sở lý thuyết gồm các nội dung: giới
thiệu phương pháp dự báo, các phương pháp phân tích tài chính dự án, các
phương pháp phân tích rủi ro và phương pháp phân tích kinh tế.

2.1- CÁC PHƯƠNG PHÁP TẠO SẢN PHẨM MỚI ĐƯC ÁP DỤNG
TẠI CÔNG TY VISSAN


-8-

Vissan là một công ty chuyên sản xuất và kinh doanh thực phẩm chế biến, do đó
công tác phát triển sản phẩm mới luôn luôn là một yêu cầu bức thiết để tạo năng
lực chủ đạo và vị thế cạnh tranh tốt trên thị trường. Thật vậy, khuynh hướng thay
đổi cách ăn uống cũng như việc đòi hỏi luôn có sản phẩm mới trong ngành thực
phẩm của người tiêu dùng diễn ra tương đối nhanh, ngành chế biến thực phẩm
cần đáp ứng được các yêu cầu thiết thực này, đó chính là yếu tố để tồn tại và
phát triển của một công ty chế biến thực phẩm, Vissan cũng vậy.
Sản phẩm mới có thể là một sản phẩm hoàn toàn mới, sản phẩm cải tiến, sản
phẩm sửa đổi cho thích hợp hơn và sản phẩm có nhãn hàng mới. Trong quá trình
phát triển, công ty Vissan cũng đã trải qua con đường tạo sản phẩm mới như vậy.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sản phẩm mới cũng thành công, các nguyên nhân
chính dẫn đến sự thất bại như sau:
 Các tổ chức có thẩm quyền cấp cao có thể loại bỏ những ý tưởng tốt thay vì
các ý tưởng xấu.
 Ý tưởng tốt nhưng qui mô thị trường nhỏ, nằm ngoài dự báo ban đầu.

 Sản phẩm thực không được thiết kế cẩn thận.
 Định vị trí sản phẩm không đúng, quảng cáo không hiệu quả hoặc giá bán
quá cao.
 Chi phí để phát triển sản phẩm cao hơn nhiều so với dự định.
Do đó, việc phát triển sản phẩm mới phải được cân nhắc cẩn trọng, phải phù hợp
với chiến lược phát triển của công ty, xem xét đến vòng đời sản phẩm hiện có


-9-

để xác định thời điểm thích hợp cho việc phát triển sản phẩm mới, phải xác định
mối quan hệ giữa sản phảm mới và sản phẩm hiện có nhằm tránh trường hợp các
sản phẩm có tính thay thế lẫn nhau.
Qui trình tạo sản phẩm mới tại công ty Vissan có thể tóm lược theo các bước như
sau:

Phát triển ý tưởng

Chọn lọc ý tưởng

Xây dựng và thử nghiệm

Phát triển chiến lược
tiếp thị

Phân tích kinh doanh
Phân tích đầu tư
Phát triển sản phẩm

Tiếp thị thử nghiệm


Thương mại hoá


- 10 -

Hình 2.1: Qui trình tạo sản phẩm mới tại công ty Vissan
Các bước thực hiện cụ thể trong qui trình được trình bày trang sau:

a- Phát triển ý tưởng
Đây là bước đầu tiên trong quá trình phát triển sản phẩm mới, ý tưởng có thể
xuất phát từ khách hàng, các nhà khoa học, từ sản phẩm của đối thủ cạnh tranh,
lực lượng bán hàng của công ty, từ phòng thí nghiệm, từ nhà cung ứng hoặc từ thị
trường ở các nước khác trên thế giới…
Lãnh đạo công ty xác định cẩn thận mục tiêu và chiến lược kinh doanh cho việc
phát triển sản phẩm mới trong mỗi thời đoạn là một năm. Đồng thời huấn luyện
cho các nhà điều hành những kỹ thuật để tìm ra những ý tưởng mới như:
 Phân tích các vấn đề của khách hàng, phỏng vấn khách hàng và yêu cầu họ
nêu ra những vấn đề gặp phải khi sử dụng sản phẩm.
 Phân tích sự thay đổi sản phẩm cho phù hợp hơn, xem xét các đặc tính của
sản phẩm và suy nghó xem có thể thay đổi, thay thế, sắp xếp lại hoặc kết nối
một hai hay nhiều đặc tính với nhau.
 Xem xét ý kiến của khách hàng thông qua các chương trình đại hội khách
hàng.
 Khảo sát sự vận hành của thị trường tương tự (khu vực Châu Á) để tìm sản
phẩm mới phù hợp thị trường trong nước.


- 11 -


 Động não: 5 đến 10 người có kinh nghiệm làm việc và quản lý trong lónh vực
sản xuất - kinh doanh được giao cho một vấn đề cần giải quyết.
b- Chọn lọc các ý tưởng
Mục đích của bước chọn lọc ý tưởng là xem xét để xếp hạng ưu tiên các ý tưởng,
đồng thời công việc chọn lọc này phải chỉ ra và loại bỏ các ý tưởng xấu càng
sớm càng tốt. Trong giai đoạn chọn lọc, công ty luôn quan tâm đến các câu hỏi
như:
 Có bỏ qua một ý tưởng tốt vì không nhìn thấy tiềm năng của nó hay không.
 Có chọn một ý tưởng tồi để phát triển và thương mại hoá không.
 Yếu tố nào dùng để xếp loại các ý tưởng.
 Từng ý tưởng cho ra các loại sản phẩm nào phù hợp.
c- Xây dựng và thử nghiệm
Mục đích của việc xây dựng và thử nghiệm là tạo sản phẩm mẫu gần nhất với
các yêu cầu thị trường đòi hỏi nhằm giảm thiểu chi phí điều chỉnh sản phẩm khi
đưa ra thị trường thương mại.
Quá trình xây dựng và thử nghiệm bao gồm mô tả các chức năng, đặc tính của
sản phẩm, đối tượng sử dụng sản phẩm là ai, khi nào sử dụng sản phẩm này, sử
dụng cho mục đích gì, các thành phần nguyên liệu cấu thành nên sản phẩm, quy
trình công nghệ chế tạo sản phẩm.


- 12 -

Tiến hành tạo sản phẩm mẫu, sau đó lấy ý kiến chuyên gia nội bộ thông qua
việc dùng thử sản phẩm mẫu. Bước tiếp theo là sửa đổi sản phẩm, lấy ý kiến tập
thể nhân viên của công ty, ý kiến chuyên gia lần hai và sửa đổi cuối cùng.
d- Phát triển chiến lược tiếp thị
Công ty tiến hành mô tả qui mô, cấu trúc và hành vi của thị trường trọng tâm, vị
trí dự định trên thị trường của sản phẩm mới. Dự đoán doanh thu, thị phần và
mục tiêu lợi nhuận mong muốn trong vài năm đầu.

Dự định giá của sản phẩm theo nguyên tắc hớt váng (giá cao ngay từ ban đầu)
hoặc giá thâm nhập (giá thấp) tùy vào tính chất và đặc điểm sản phẩm. Chiến
lược về phân phối và ngân sách tiếp thị cho năm đầu tiên.
Ước tính doanh thu, lợi nhuận, chiến lược tổ hợp tiếp thị 4 P (Product, Price,
Place, Promotion) trong dài hạn.
e- Phân tích kinh doanh, phân tích đầu tư và phát triển sản phẩm
Đối với một sản phẩm là thực phẩm, công việc thiết kế, thay đổi hoặc điều chỉnh
các đặc tính của nó được thực hiện tương đối nhanh chóng và chi phí không cao.
Do đó, việc phân tích kinh doanh, phân tích đầu tư và phát triển sản phẩm chủ
yếu tuỳ thuộc vào vốn đầu tư để tạo sản phẩm mới. Việc phát triển sản phẩm có
thể chia thành hai loại như sau:
 Đối với sản phẩm mới có thể được sản xuất từ dây chuyền thiết bị sẵn có:


- 13 -

Công ty chỉ thực hiện phân tích kinh doanh: ước lượng doanh số bán để xác
định doanh thu của sản phẩm mới có đủ cao để đáp ứng suất thu lợi kỳ vọng
của công ty, kế đến tính chi phí và lợi nhuận. Sản phẩm mới sau khi hoàn
chỉnh mẫu có thể đưa ngay ra thị trường thử nghiệm.
 Đối với sản phẩm mới phải đầu tư lớn cho thiết bị sản xuất:
Công ty phải tiến hành khảo sát thị trường, xác định nhu cầu tiêu dùng. Xác
định qui mô sản xuất và lập dự án phân tích khả thi cho công việc đầu tư vào
sản phẩm mới.

f- Tiếp thị thử nghiệm
Trong giai đoạn này, sản phẩm và các chương trình tiếp thị được giới thiệu với
nhiều khách hàng để xem xét phản ứng của họ trong việc mua bán và sử dụng
sản phẩm, và cũng để đánh giá qui mô của thị trường chính xác hơn.
g- Thương mại hoá

Công ty xác định thời điểm tung sản phẩm mới ra thị trường, chọn đối tượng
khách hàng để xác định sản phẩm được giới thiệu như thế nào và bày bán ở đâu,
phương pháp phân phối và chiến lược tiếp thị tiếp theo.
Hiện tại, hệ thống phân phối của công ty tạo thành mạng lưới phủ khắp nước,
phân phối đến các đại lý chính thức của công ty cũng như phục vụ sản phẩm đến
tận tay người tiêu dùng. Đồng thời quảng bá thương hiệu Vissan đến từng người


- 14 -

dân. Với một chi nhánh Hà Nội phụ trách thị trường miền Bắc, một chi nhánh
Đà Nẵng phụ trách thị trường miền Trung, 12 cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại
thành phố Hồ Chí Minh cùng hàng trăm đại lý trên toàn quốc, công ty Vissan có
lợi thế rất lớn trong việc giới thiệu sản phẩm mới trong giai đoạn bắt đầu thương
mại hoá thông qua hệ thống phân phối của mình.

2.2- CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO
Phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích dự báo là mô hình nhân quả
và mô hình chuỗi thời gian. Mô hình nhân quả cho biết kết quả dự báo của một
biến phụ thuộc vào sự thay đổi của một hay nhiều biến độc lập, mô hình này
thường dùng để xác định mối quan hệ giữa các biến độc lập và phụ thuộc nhằm
hoạch định chính sách. Mô hình chuỗi thời gian thường được dùng để dự báo
ngắn hạn về giá hoặc nhu cầu của một biến theo thời gian. Ngoài ra còn có thể
sử dụng các phương pháp dự báo khác như dự báo theo tốc độ tăng trưởng của
các chỉ tiêu kinh tế vó mô, các phương pháp dự báo dựa vào sự so sánh giữa thị
trường cần nghiên cứu và các thị trường khác có những yếu tố tương đồng nhau.
Các phương pháp cụ thể như sau:

2.2.1- Phương pháp hồi qui đa biến
Phương pháp hồi qui đa biến được sử dụng phổ biến trong kinh tế lượng nhằm

xây dựng mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố kinh tế. Phương pháp này xác
định giá trị của biến cần nghiên cứu (biến phụ thuộc) dựa vào một hay nhiều
biến nguyên nhân (biến độc lập).


- 15 -

Mô hình toán :
0

i

i

Y = A + ΣA X + ε
Trong đó

Y : biến phụ thuộc
X : biến độc lập
0

A : tung độ gốc
i

A : hệ số độ dốc
t

ε : sai số ngẫu nhiên
Trong phương pháp hồi qui đa biến, nếu biết được giá trị của các biến độc lập
trong tương lai thì có thể dự báo được giá trị của biến phụ thuộc. Tuy nhiên trong

luận văn này, do giới hạn qui mô đề tài, phương pháp này không được dùng để
dự báo giá của các yếu tố đầu vào.

2.2.2- Phương pháp chuỗi thời gian
Phương pháp dự báo dựa vào dữ liệu theo chuỗi thời gian trong quá khứ, dùng để
biểu thị những thay đổi của một đại lượng nghiên cứu theo thời gian qua việc
phân tích và dự đoán xu thế của biến trong tương lai dựa trên những dữ liệu theo
thời gian trong quá khứ. Phương pháp này thường dùng để dự báo ngắn hạn.

2.2.3- Phương pháp dự báo theo tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh
tế vó mô
Dự báo này căn cứ vào dữ liệu của năm gốc thường chọn là năm hiện tại và tỷ
lệ tăng trưởng dự báo. Để dự báo tỷ lệ tăng trưởng người ta dựa vào kết quaû


- 16 -

thống kê trong quá khứ, xu hướng phát triển và ý kiến của các chuyên gia trong
ngành về lónh vực cần dự báo. Kết quả dự báo là số liệu của năm gốc cộng với
mức tăng trưởng đến năm cần dự báo.
Tóm lại trong luận văn này, phương pháp dự báo theo theo tốc độ tăng trưởng
của các chỉ tiêu kinh tế vó mô được chọn để dự báo giá của các yếu tố đầu vào
trong suốt thời kỳ phân tích của dự án.

2.2.4- Phương pháp dự báo dựa vào so sánh
Trong thực tế kinh doanh đôi khi không thể thu thập được dữ liệu quá khứ, chẳng
hạn với một sản phẩm hoàn toàn mới, không thể có dữ liệu quá khứ để dự báo
cho tương lai. Tuy nhiên, dự án vẫn phải tiến hành dự báo để đi đến quyết định
trong đầu tư, cho nên người ta thường dùng phương pháp dự báo dựa vào so
sánh. Có hai phương pháp dự báo so sánh: phương pháp dự báo dựa vào sản

phẩm tương đương và phương pháp dự báo dựa vào thị trường tương đương được
trình bày sau đây:

a- Phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương
Phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương sử dụng các dữ liệu về
doanh thu của các sản phẩm tương đương với sản phẩm mới. Phương pháp này
được thực hiện theo các bước sau đây:
 Liệt kê những sản phẩm tương tự với sản phẩm mới, cùng doanh số bán hằng
năm của những sản phẩm đó. Các năm trong đời sống của sản phẩm được
chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn triển khai sản phẩm và giai đoạn hậu
triển khai.


- 17 -

 Tính toán tỷ lệ tăng doanh số hàng năm của mỗi sản phẩm. Tỷ lệ này chỉ
được sử dụng sau khi kết thúc giai đoạn triển khai sản phẩm, bởi trong giai
đoạn này tỷ lệ tăng doanh số khá cao.
 Tính tỷ lệ tăng trung bình hàng năm của tất cả các sản phẩm tương đương và
tỷ lệ này được áp dụng để dự báo nhu cầu của sản phẩm mới.
Mặc dù phương pháp này được áp dụng để dự báo rất phổ biến cho sản phẩm
mới, nhưng đối với sản phẩm giả cua, không thấy có các loại sản phẩm tương
đương trên thị trường Việt Nam để có thể dự báo nhu cầu cho sản phẩm giả cua.
Hơn nữa, phương pháp dự báo dựa vào sản phẩm tương đương chỉ áp dụng dự
báo ngắn hạn. Do đó trong luận văn này không sử dụng phương pháp dự báo dựa
vào sản phẩm tương đương.
b- Phương pháp dự báo dựa vào thị trường tương đương.
Phương pháp dự báo dựa vào thị trường tương đương dùng để dự báo nhu cầu,
giá cả của một loại sản phẩm mới đối với thị trường này nhưng nó lại là sản
phẩm hiện hữu đối với thị trường khác có những điểm tương đồng. Dữ liệu về

nhu cầu thị trường theo thứ tự năm, bắt đầu từ năm thứ nhất đến năm thứ n trong
quá khứ sẽ được dự báo cho nhu cầu của thị trường mới, trong đó có xem xét sự
chênh lệch giữa hai thị trường như dân số, thu nhập…
Do tính đơn giản nhưng đáng tin cậy của phương pháp thị trường tương đương,
luận văn sẽ áp dụng phương pháp nêu trên để dự báo nhu cầu thị trường của sản
phẩm giả cua thông qua thị trường tương đương là Thaùi Lan.


- 18 -

2.2.5- Phương pháp gia tăng luỹ tiến
Mô hình này thể hiện sự gia tăng doanh số của sản phẩm mới tỷ lệ thuận với
mức độ lan truyền thông tin về sản phẩm trong khách hàng tiềm năng.
Mô hình mô tả đường cong chu kỳ doanh số mua lần đầu của sản phẩm mới dựa
trên một số rất ít thông số. Những dữ liệu này được ước tính lần đầu dựa vào
những dữ liệu quá khứ của các sản phẩm tương tự.
Tóm lại, với những hạn chế của mô hình gia tăng tích luỹ (phải có dữ liệu doanh
số lần đầu của sản phẩm tương tự và dữ liệu về mức độ lan truyền thông tin về
sản phẩm), cho nên trong luận văn này phương pháp gia tăng tích luỹ sẽ không
được áp dụng.

2.3- CÁC QUAN ĐIỂM PHÂN TÍCH DỰ ÁN
Phân tích dự án được xây dựng theo những quan điểm khác nhau của các tổ
chức, cá nhân có liên quan đến các dự án nhằm đánh giá dự án có hấp dẫn nhà
đầu tư và những người tham gia thực hiện dự án hay không. Do đó luận văn sẽ
tập trung phân tích tài chính theo quan điểm tổng đầu tư (quan điểm ngân hàng)
và quan điểm chủ đầu tư (quan điểm cổ đông).

2.3.1- Phân tích theo quan điểm tổng đầu tư
Quan điểm tổng đầu tư còn được gọi là quan điểm ngân hàng. Theo quan điểm

này, dự án được xem như một hoạt động có khả năng tạo ra lợi ích tài chính và
thu hút những nguồn tài chính rõ ràng. Các nhà phân tích xem xét toàn bộ dòng


- 19 -

chi phí, lợi ích thu được trong đó có tính đến chi phí cơ hội của những thành phần
tài chính đóng góp vào dự án. Quan điểm tổng đầu tư dùng xem xét nhu cầu vay,
khả năng trả, bỏ vốn đầu tư.
Phân tích theo quan điểm tổng đầu tư được trình bày như sau:
[A] = Lợi ích tài chính trực tiếp – Chi phí tài chính trực tiếp – Chi phí cơ hội của
tài sản đã có.
Suất chiết khấu được sử dụng trong phân tích dự án theo quan điểm tổng đầu tư
là giá sử dụng vốn trung bình WACC của dự án. Trong đó WACC là trung bình
trọng số của giá sử dụng vốn của chủ đầu tư và lãi vay.

2.3.2- Phân tích theo quan điểm chủ đầu tư
Theo quan điểm chủ đầu tư hay quan điểm cổ đông trong phân tích dự án, các
nhà phân tích xem xét dòng tài chính chi cho dự án và các lợi ích thu được, đi
kèm với chi phí cơ hội của vốn cổ đông góp vào dự án, coi vốn vay là khoản thu,
trả vốn vay và lãi là khoản chi.
[B] = [A] + Vốn vay – Trả lãi và nợ vay
Suất chiết khấu đươc sử dụng theo quan điểm này là giá sử dụng vốn của chủ
đầu
tư.

2.4- CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Phân tích tài chính là đánh giá triển vọng tài chính, khả năng thành công và hiệu
quả của dự án dưới góc độ của các tổ chức, cá nhân tham gia vào dự án. Trong
phân tích tính khả thi của dự án người ta thường sử dụng ba nhóm phương pháp



- 20 -

phân tích là: giá trị tương đương, suất thu lợi và tỷ số lợi ích/chi phí. Trong luận
văn này chỉ sử dụng hai nhóm phương pháp phổ biến là giá trị tương đương và
suất thu lợi.

2.4.1- Nhóm phương pháp giá trị tương đương .
Nhóm phương pháp giá trị tương đương gồm ba phương pháp là:
 Giá trị hiện tại ròng NPV (Net Present Value)
 Chuỗi giá trị đều hằng năm AW (Annual Worth)
 Giá trị tương lai FW (Future Worth)
Nội dung của nhóm phương pháp này là quy đổi toàn bộ dòng tiền tệ thu nhập
và dòng tiền tệ chi phí của dự án về một giá trị hiện tại, hoặc thành một chuỗi
giá trị đều hằng năm, hoặc một giá trị tương lai với mức chiết khấu được chọn.
Suất chiết khấu được chọn thường là suất thu lợi tối thiểu chấp nhận được
MARR (Minimum Attrative Rate of Return).
Dự án được xem là đáng giá khi NPV, AW, FW ≥ 0
Trong luận văn này, phương pháp giá trị hiện tại ròng được sử dụng để phân tích
hiệu quả tài chính của dự án, phương pháp này được giới thiệu sau đây:
Giá trị hiện tại ròng là hiệu số giữa giá trị hiện tại của dòng thu nhập và giá trị
hiện tại của dòng chi phí đã được chiết khấu với một lãi suất yêu cầu.
NPV được tính theo công thức sau:


- 21 N

NPV = ∑
t =0


Bt − Ct
t
(1+i )

Trong đó:
Bt : thu nhập ở năm thứ t
Ct : chi phí ở năm thứ t
i : suất chiết khấu yêu cầu
t : thứ tự năm hoạt động của dự án
N : số năm hoạt động của dự án

Đánh giá dự án theo NPV: dự án đáng giá khi NPV ≥ 0
So sánh nhiều dự án theo NPV: nếu có nhiều dự án loại trừ nhau thì dự án có
NPV dương và lớn nhất sẽ được chọn.

2.4.2- Nhóm phương pháp suất thu lợi
Trong nhóm phương pháp suất thu lợi có hai phương pháp thường được sử dụng
là suất thu lợi nội tại IRR (Internal Rate of Return) và suất thu lợi ngoại lai ERR
(External Rate of Return). Trong luận văn này, phương pháp suất thu lợi nội tại
được sử dụng để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.


- 22 -

Phương pháp suất thu lợi nội tại:
Suất thu lợi nội tại là mức chiết khấu mà nếu được sử dụng làm hệ số chiết khấu
để quy đổi dòng tiền tệ của dự án thì giá trị hiện tại của dòng thu nhập sẽ cân
bằng với giá trị hiện tại của dòng chi phí.
Công thức tính IRR:

N

N

Bt

Ct

∑ (1 + i) =∑ (1 + i )
t =0

t

t =0

t

Trong đó:
Bt : thu nhập ở năm thứ t
Ct : chi phí ở năm thứ t
t : thứ tự năm hoạt động của dự án
N : số năm hoạt động của dự án
i : suất chiết khấu IRR
Đánh giá dự án theo IRR: khi dự án có IRR ≥ MARR thì được coi là đáng giá.
MARR là suất thu lợi tối thiểu chấp nhận được của dự án.
So sánh các dự án theo IRR: dựa trên nguyên tắc so sánh gia số vốn đầu tư . Giả
sử chúng ta có hai dự án là A và B, trong đó B có vốn đầu tư lớn hơn A, dự án A
được xem là đáng giá, gia số vốn đầu tư ∆ từ dự án A lên dự án B bằng CF(B)
trừ CF(A). Dự án B được coi là đáng giá khi IRR(∆) ≥ MARR, nếu như IRR(∆)≤
MARR thì việc đầu tư vào dự án B không đáng giá. Do đó trong trường hợp có

nhiều dự án cần thẩm định, dự án có vốn đầu tư lớn hơn sẽ được coi là đáng giá
hơn nếu như suất thu lợi của gia số đầu tư là IRR (∆) ≥ MARR.


- 23 -

2.5- PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
Lạm phát được đo bằng tỷ lệ thay đổi giữa mặt bằng giá hiện tại và mặt bằng
giá năm gốc. Lạm phát tác động trực tiếp lên các hạng mục của dòng tiền và tác
động gián tiếp thông qua thuế làm thay đổi kết quả dòng tiền của dự án. Theo lý
thuyết, lạm phát làm tăng NPV của dòng tiền thông qua các khoản phải trả,
khấu trừ lãi vay và làm giảm NPV của dòng tiền thông qua các khoản phải thu,
khấu hao, số dư tiền mặt, tồn kho. Giá trị năm gốc của dòng tiền không chịu tác
động của lạm phát.
Như vậy, trong luận văn có xem xét tác động của lạm phát đến kết quả phân tích
tài chính và nó cho thấy mức độ rủi ro khi ra quyết định trên cơ sở thay đổi lạm
phát trong tương lai.

2.6- PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH RỦI RO
Rủi ro là sự khác biệt giữa giá trị kỳ vọng hay kế hoạch so với giá trị thực tế.
Trong thực tiễn khả năng xuất hiện sự bất ổn có thể xảy ra hoặc không xảy ra,
dù cho doanh nghiệp có xây dựng kế hoạch và đánh giá sự phát triển trong tương
lai hay không.
Việc phân tích rủi ro nhằm cung cấp thông tin về các khả năng có thể xảy ra làm
ảnh hưởng đến hiệu quả dự án. Nguồn gốc của rủi ro là do sai số dự báo giá,
lượng của các yếu tố đầu vào, cũng như yếu tố đầu ra. Sự bất định này liên quan


- 24 -


đến nhiều yếu tố như tình hình kinh tế chính trị xã hội, sự thay đổi công nghệ,
thiết bị, loại hình đầu tư…Nói chung, tất cả các dự án đều có rủi ro nhất định.
Các công cụ thường được dùng để phân tích rủi ro là phân tích độ nhạy, phân
tích tình huống và phân tích rủi ro bằng mô phỏng.

2.6.1- Phân tích độ nhạy
Phân tích độ nhạy là phân tích ảnh hưởng của sự thay đổi lần lượt của các yếu tố
đầu vào lên kết quả của yếu tố đầu ra, phân tích này cho biết một lượng thay đổi
đầu vào sẽ thay đổi một lượng đầu ra như thế nào. Cụ thể trong luận văn này,
yếu tố đầu vào là giá các nhập lượng, nhu cầu, yếu tố đầu ra chính là NPV và
IRR của dự án. Trước hết chọn các yếu tố đầu vào có khả năng ảnh hưởng đến
kết quả dự án, sau đó tiến hành phân tích các yếu tố nào nhạy cảm, nghóa là một
lượng thay đổi nhỏ cũng dẫn đến một lượng thay đổi lớn lên NPV và IRR. Khi
khảo sát sự thay đổi của một yếu tố đầu vào thì giả định rằng các yếu tố đầu vào
còn lại sẽ không thay đổi.

2.6.2- Phân tích tình huống
Trên cơ sở phân tích độ nhạy, các yếu tố quan trọng ảnh hưởng nhiều đến kết
quả dự án sẽ được xác định. Sau đó chọn ra các tình huống tốt nhất, trung bình,
xấu nhất của các yếu tố đó để xem xét sự tác động của nó lên hiệu quả của dự
án. Phân tích tình huống nhằm giúp cho việc đánh giá tác động đồng thời của
nhiều yếu tố và sự tương tác của chúng lên kết quả cần nghiên cứu.


- 25 -

2.6.3 Phân tích rủi ro bằng mô phỏng
Công cụ mô phỏng Monte Carlo được chọn để phân tích rủi ro của dự án trong
luận văn này. Việc phân tích bằng mô phỏng cho phép nghiên cứu đồng thời ảnh
hưởng của các tham số liên quan đến kết quả dự án trên cơ sở phân phối xác

suất. Đầu tiên xây dựng mô hình dự án, sau đó xác định phân phối xác suất cho
các tham số bất định trong mô hình dựa trên các dữ liệu thu thập được trong quá
khứ và cuối cùng là chọn số lần chạy mô phỏng đủ lớn để kết quả đạt được có
độ tin cậy tốt.
Kết quả mô phỏng cho phép xác định giá trị kỳ vọng và xác suất thành công của
dự án, nghóa là xác suất để NPV ≥ 0 và IRR ≥ MARR. Phần mềm @Risk được
sử dụng để phân tích rủi ro trong luận văn này.

2.7- PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KINH TẾ
Việc phân tích kinh tế xác định dự án có lợi cho quốc gia hay không dựa trên
quan điểm gộp chung lợi ích và chi phí của tất cả các thành phần của quốc gia
như một tổng thể. Phân tích kinh tế dựa trên giá trị kinh tế, phân tích tài chính
dựa trên giá trị tài chính, tuy nhiên giá trị kinh tế thường không nhận thấy, nên
nó được xác định dựa trên giá trị tài chính. Giá trị kinh tế và tài chính khác nhau
là do thuế, trợ cấp, và các yếu tố ngoại lai gọi chung là yếu tố biến dạng của thị
trường. Khi thị trường có những biến dạng do các yếu tố ngoại lai như: các loại
thuế, trợ giá, giá trần, mức lương tối thiểu…thì giá của hàng hoá, giá ngoại tệ,
tiền lương, giá sử dụng vốn có thể bị bóp méo.


×