GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 33 -
CHƯƠNG 4
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẨU TƯ XÂY DỰNG NHÀ MÁY CHẾ
BIẾN PHẾ LIỆU, PHẾ THẢI NGÀNH THỦY SẢN CỦA CÔNG TY
TNHH XUẤT NHẬP KHẨU THIÊN MÃ.
4.1 GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY TNHH XUẤT NHẬP KHẨU THỦY SẢN
THIÊN MÃ
4.1.1 Năng lực pháp lý.
Tên doanh nghiệp: Công Ty TNHH Xuất Nhập Khẩu Thủy Hải Sản
Thiên Mã.
Tên giao dịch: THIEN MA Co.,Ltd
Mã số thuế: 1800594668
Trụ sở chính: 75/35 Trần Phú, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều,
T.P Cần Thơ.
Đại diện công ty: Ông Phan Bá Tòng; Chức vụ: chủ tịch hội đồng thành
viên kiêm Giám đốc.
Điện thoại: 0713.761664
Fax: 0713.765915
Website: www.thimaco.com.
Mail:
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 5702000872 do Sở kế hoạch và đầu
tư thành phố Cần Thơ cấp ngày 27 tháng 6 năm 2005.
Ngành nghề kinh doanh: Kinh doanh trong lĩnh vực nuôi trồng, sản xuất, chế
biến và xuất khẩu các mặt hàng nông, thủy sản.
4.1.2 Năng lực tài chính của công ty.
Năng lực tài chính của công ty được xem xét qua kết quả hoạt động kinh
doanh và một số chỉ tiêu tài chính trong năm 2006, 2007 và chín tháng đầu năm
2008.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 34 -
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty TNHH XNK Thiên Mã
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm
Chêch lệch
2007/2006
Chỉ tiêu
2006 2007
9 tháng đầu
năm 2008
Số tiền %
1
Doanh thu bán hàng
và c.cấp d.vụ
191.053,80 393.748,38 597.251,67 202.694,58 106,09
2
Các khoảng giảm trừ
doanh thu
2.300,93 6.836,66 5.743,90 4.535,73 197,13
3
D.thu thuần bán hàng
và c.cấp d.vụ
188.752,87 386.911,72 591.507,77 198.158,85 104,98
4 Giá vốn hàng bán 159.124,52 300.785,40 460.842,35 141.660,88 89.03
5
Lãi gộp bán hàng và
c.cấp d.vụ
29.628,35 86.126,32 130.665,42 56.497,97 190,69
6
Doanh thu hoạt động
tài chính
205,04 851,73 19.485,79 646,69 315,40
Chi phí tài chính 746,36 4.993,54 18.865,15 4.247,18 569,05
7
Trong đó chi phí
lãi vay
659,25 3.290,74 14.199,83
8 Chi phí bán hàng 12.356,83 39.839,33 68.864,62 27.482,5 222,41
9 Chi phí q.lý d.nghiệp 1.208,14 3.111,74 4.226,26 1.903,6 157,56
10
Lợi nhuận thuần từ
hoạt động kinh doanh
15.522,06 39.033,44 58.195,18 23.511,38 151,47
11 Thu nhập khác - - 174,12
12 Chi phí khác 0.007 20,06 76.41 20.053 286.471,4
13 Lợi nhuận khác (0.007) (20,06) 97,77 20.053 286.471,4
14
Tổng lợi nhuận
trước thuế
15.522,05 39.013,38 58.292,95 23.491,33 151,34
15 Lợi nhuận sau thuế 15.522,05 39.013,38 58.292,95 23.491,33 151,34
( Nguồn: Phòng quản lý rủi ro)
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 35 -
Qua bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006, 2007 và chính
tháng đầu năm 2008 ta thấy tình hình hoạt động của công ty TNHH Thiên Mã
trong 3 năm qua đang chuyển biến theo chiều hướng tốt. Được thành lập năm
2005 nhưng đến năm 2006 thì nhìn chung tình hình hoạt động của công ty đã đi
vào ổn định, cụ thể trong năm 2006 doanh thu bán hàng và cung cấp dịch cụ của
công ty đạt 191.053,80 triệu đồng, tổng lợi nhuận trước thuế đạt 15.522,05 triệu
đồng, đây là những con số khả quan về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
trong năm 2006. Trên đà phát triển, trong năm 2007 doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ của công ty là 393.748,38 triệu đồng tăng 202.694,58 triệu đồng so
với năm 2006, tức tăng 106,09%, qua đó lợi nhuận trước thuế của công ty trong
năm 2007 cũng tăng lên đáng kể với tỷ lệ 151,34% so với năm 2006, cụ thể tăng
23.491,33 triệu đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2008 tổng doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ của công ty là 597.251,67 triệu đồng, lãi gộp bán hàng và cung
cấp dịch vụ đạt 130.665,42 triệu đồng, tổng lợi nhuận trước thuế đạt 58.292,95
triệu đồng, tuy chỉ mới 9 tháng đầu năm nhưng tất cả các con số thể hiện trên
bảng báo cáo kết quả kinh doanh đều hơn cá chỉ tiêu đã đạt được trong năm 2007
đã khẳng định đây là một năm kinh doanh thành công nữa của công ty TNHH
Thiên Mã. Bên cạnh việc xem xét kết quả hoạt động kinh doanh của công ty thì
việc đánh giá các tỷ số tài chính của công ty cũng có ý nghĩa quan trọng vì thông
qua việc phân tích các tỷ số tài chính cá thể đánh giá chính xác tính hình tài
chính của công ty ở tại thời điểm xem xét. Sau đây là một số chỉ tiêu tài chính cơ
bản đánh giá tình hình tài chính của công ty qua các năm 2006, 2007 và chín
tháng đầu năm 2008.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 36 -
Bảng 3: Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính của công ty XNH Thiên Mã
(Nguồn: phòng quản lý rủi ro)
Qua bảng 3 ta thấy các tỷ số thể hiện khả năng thanh khoản của công ty là khá
tốt. Tỷ số khả năng thanh toán hiện thời các năm đều lớn hơn 1 chứng tỏ sự bình
thường trong hoạt động kinh doanh của công ty. Ta thấy trong năm 2007 thì tỷ số
này là 1,70 còn trong năm 2006 là 1,47 điều này thể hiện mức độ trang trải nợ
ngắn hạn bằng tài sản lưu động năm 2007 cao hơn 2006, riêng trong 9 tháng đầu
năm tỷ số này là 1,12. Bên cạnh đó tỷ số khả năng thanh toán nhanh trong năm
2006 và 2007 tỷ số này hơi cao phản ánh tình hình vốn bằng tiền quá nhiều làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn. Tuy nhiên, trong chín tháng đầu năm 2008 là 0,73
thể hiện khả năng trang trải nợ ngắn hạn là khá tốt.
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho đánh giá hiệu quả quản lý hàng tồn kho của
công ty. Năm 2007 số vòng quay hang tồn kho của công ty là 7,04 vòng giảm
5,70 vòng so với năm 2006, còn trong chín tháng đầu năm 2008 thì số vòng quay
hàng tồn kho của công ty chỉ đạt 2,66 vòng. Nguyên nhân là do mặc dù giá vốn
hàng bán năm 2007 là 300.785.404.774 đồng tăng 141.660.881.701 đồng so với
năm 2006 là 159.124.523.073 đồng nhưng vẫn không bù đắp được sự tăng lên
của hàng tồn kho, trong năm 2007 tổng giá trị hàng tồn kho là 42.721.419.729
đồng tăng 30.233.228.939 đồng so với năm 2006 là 12.488.190.790 đồng. Trong
năm 2007 hiệu quả sử dụng tài sản của công ty là 2,20 tức bình quân trong năm
Năm Chênh lệch
Chỉ tiêu
2006 2007
9 tháng
đầu năm 2008
2007/2006
1
Các tỷ số thanh khoản
Tỷ số thanh toán hiện thời 1,47 1,70 1,12 0,23
Tỷ số thanh toán nhanh 1,10 1,25 0,73 0,14
2
Các tỷ số hiệu quả hoạt động
Vòng quay hàng tồn kho 12,74 7,04 2,66 (5,70)
Vòng quay tổng tài sản 3,58 2,20 0,99 (1,38)
3
Tỷ số về đòn cân nợ
Tỷ số nợ trên Tài sản 0,65 0,67 0,81 0,01
Tỷ số nợ trên Vốn CSH 1,86 1,99 4,16 0,13
4
Tỷ số khả năng sinh lời
ROS 8,22 10,08 9,85 1,86
ROA 29,46 22,16 9,78 (7,30)
ROE 84,39 66,33 50,44 (18,06)
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 37 -
2007 thì 1 đồng tài sản sẽ tạo được 2,20 đồng doanh thu, giảm 1,38 đồng so với
năm 2006. Nguyên nhân là do trong năm 2007 tuy doanh thu của công ty đạt
386.911.713,079 đồng tăng giá trị tài sản của công ty có tăng 123.364.684,304
đồng so với năm 2006 nhưng không bù đắp được sự gia tăng của doanh nghiệp.
Trong các năm qua thì tỷ số về đòn cân nợ của công ty không ngừng tăng lên,
điều này cũng dễ hiều vì qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
chúng ta thấy lợi nhuận qua cá năm của công ty cũng liên tục tăng lên nên việc
đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh là điều tất yếu nhất là đối với
công ty mới thành lập như công ty TNHH Thiên Mã.
Các chỉ tiêu sinh lời của công ty ROS, ROA, ROE đều khá tốt. ROS năm 2007
đạt 10,08 tức là 1 đồng doanh thu tạo được 0,1 đồng lợi nhuận tăng 1,86 so với
năm 2006 là 8,22. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2008 tỷ số này là 9,85. Các tỷ số
ROA, ROE tuy thể hiện tình hình kinh doanh khả quan của công ty qua các năm
tuy nhiên có xu hường giảm dần qua các năm, điều này cho thấy hiệu quả sử
dụng tài sản cố định và vốn chủ sở hữu của công ty để tạo được lợi nhuận đang
có xu hướng giảm.
4.2 THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ MÁY CHẾ BIẾN
PHẾ LIỆU, PHẾ THẢI NGÀNH THỦY SẢN.
4.2.1 Giới thiệu dự án đầu tư xây dựng nhà máy chế biến phế liệu, phế
thải ngành thủy sản.
4.2.1.1 Mục tiêu của dự án.
Đầu tư xây mới nhà xưởng và mua sắm thiết bị máy móc hiện đại sản xuất,
chế biến, sản xuất bột cá, mỡ cá từ cá biển, phế phẩm, phế liệu thủy sản như đầu,
xương các loại cá tra, cá basa.
Nâng tỷ lệ sử dụng để tăng giá trị cho con cá tra, các basa. Chế biến các phụ
phẩm cá, cá basa thành các sản phẩm hữu ích như bột cá, mỡ cá dùng làm thức
ăn và nguyên liệu dùng đế sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản; mỡ
cá có thể được chiết xuất tinh dầu dùng trong công nghiệp chế biến Mỹ phẩm,
thực phẩm, sản xuất dầu biodiezel, Glycerol, chiết xuất từ mỡ cá basa, cá tra,
muối kali làm phân bón và mỡ bôi trơn…
Giải quyết lượng phế liệu, phế thải rất lớn cho các nhà máy chế biến thủy sản.
Giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 38 -
Góp phần giải quyết việc làm ổn định cho 100 lao động. Số lao động sẽ được
tăng lên khi công ty phát triển và mở rộng hoạt động.
Thúc đẩy ngành nuôi trồng và chế biến thủy sản phát triển, tăng thu nhập và
tạo đầu vào ổn định cho các hộ nông dân nuôi cá.
Thúc đẩy ngành chế biến thủy sản xuất khẩu bền vững, ổn định nguồn nguyên
liệu đầu vào.
Tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước thông qua việc đóng các loại thuế.
4.2.1.2 Sự cần thiết hình thành dự án.
Mỗi năm Đồng Bằng sông Cửu Long tiêu thụ khoảng 400.000 tấn cá tra, cá
basa nguyên liệu, số lượng này càng ngày càng nhiều theo từng năm. Trong đó,
phế liệu, phế thải sau khi chế biến phần philê chiếm khoảng 70% khối lượng cá
nguyên liệu. Những năm trước đây các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu
không bán được phế liệu, phế thải này phải xả xuống sông gây ô nhiễm nặng nề.
Việc phân hủy các chất thải này tuy không gây độc nhưng cũng tạo ra sự thay đổi
lớn cho môi trường sống của những ngươi lao động tại các cơ sở chế biến thủy
sản cũng như dân cư sống ở vùng lân cận.
Với mục đích vừa nâng cao giá trị phế liệu, phế thải thủy sản sau khi chế
biến philê cá tra, cá basa xuất khẩu và tạo thêm sản phẩm cho xã hội tiêu dùng và
cũng vừa góp phần giảm thiểu vấn nạn ô nhiễm môi trường.
Được thành lập năm 2005 và hiện nay Công ty đang tiến hành đầu tư nhà
máy chế biến thủy sản số 2 với công suất 400 tấn nguyên liệu/ngày, nâng công
suất chế biến của công ty từ 55 tấn nguyên liệu/ngày lên 455 tấn nguyên
liệu/ngày. Do đó lượng phế liệu đầu cá, xương cá, mỡ cá thải ra trong ngày sau
quá trình chế biến philê của nhà máy là rất lớn. Trước tình hình đó, Công ty dự
kiến xây dựng nhà máy sản xuất bột cá, mỡ cá phế liệu, phế phẩm của nhà máy
của Công ty theo công nghệ tiên tiến, hiện đại được nhập từ Trung Quốc hoặc
Thái Lan công suất 100 tấn nguyên liệu phế phẩm/ngày phát huy tối đa việc sử
dụng nguồn lực của Công ty và những chính sách ưu đãi của địa phương.
4.2.1.3 Dự kiến thời gian xây dựng dự án.
Dự án dự kiến khởi công thực hiện vào tháng 4/2007 và dự kiến hoàn thành
và đưa vào hoạt động vào tháng 1/2009.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 39 -
Bảng 4 : Tiến độ hoàn thành dự án
Năm 2007 Năm 2008 Năm2009
TT Công việc
4-8 9-12 1-6 7-9 10-11 12 1
1
Lập dự án khả thi và hợp đồng
thuê đất.
2 Lập thiết kế kỹ thuật công trình.
3 Thi công xây dựng.
4 Mua sắm máy móc thiết bị.
5 Vận chuyển, lắp đạt thiết bị
6 Chạy thử, nghiệm thu.
7 Hoạt động chính thức.
( Nguồn: phòng quản lý rủi ro )
4.2.2 Đánh giá nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào của dự án.
Công ty sẽ tận dụng nguồn phế phẩm cá tra, basa sau khi philê để làm nguồn
nguyên vật liệu đầu vào cho dự án. Được thành lập năm 2005, công ty TNHH
Thiên Mã tổ chức sản xuất sản phẩm tại nhà máy thủy sản số 1 với công suất
máy thiết kế là 55 tấn nguyên liệu cá tra, basa/ngày. Do mới thành lập nên trong
năm 2006 công ty chỉ hoạt động với 80% công suất thiết kế máy, năm 2007 hoạt
động với 90% công suất máy, và từ năm 2008 công ty hoạt động với 100% công
suất máy.
Bảng 5: Sản lượng cá nguyên liệu đưa vào sản xuất hàng ngày từ 2006-2008
Đơn vị tính: Tấn
Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Công suất hoạt động 80% 90% 100%
Sản lượng cá nguyên liệu đưa vào philê 44 49,5 55
(Nguồn: Phòng quản lý rủi ro)
Với định mức một tấn cá tra, basa nguyên liệu sau khi philê sẽ cho ra khoảng
700kg phụ phẩm, qua đó có thể tính toán được sản lượng phụ phẩm cá tra, basa
công ty tạo ra hàng ngày từ năm 2006-2008.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 40 -
Bảng 6:Sản lượng phụ phẩm cá tra, basa tạo ra hàng ngày từ năm 2006-2008
Đơn vị tính: Tấn
Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Công suất hoạt động 80% 90% 100%
Sản lượng cá nguyên liệu đưa vào philê 44 49,5 55
Sản lượng phụ phẩm tạo ra 30,8 34,65 38,5
Qua bảng trên cho thấy từ năm 2008 trở đi thì hàng ngày công ty sẽ tạo ra
lượng phụ phẩm là 38,5 tấn/ngày, đây là nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định cho
dự án. Bên cạnh đó công ty còn dự kiến mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư xây
dựng nhà máy chế biến thủy sản số 2 với công suất 400 tấn nguyên liệu cá tra, cá
basa/ngày cùng lúc thực hiện dự án này, nâng công suất chế biến của công ty lên
455 tấn nguyên liệu/ngày. Như vậy, khi nhà máy thủy sản số 2 được thành lập thì
lượng phụ phẩm tạo ra hàng ngày từ các nhà máy chế biến của công ty là 318,5
tấn phụ phẩm/ngày. Với lượng phụ phẩm tạo ra này đủ sức đáp ứng nguồn
nguyên liệu đầu vào cho dự án “xây dựng nhà máy chế biến phế liệu, phế thảy
ngành thủy sản” có công suất thiết kế 100 tấn nguyên liệu/ngày của công ty.
Ngoài ra, công ty có thể thu mua nguyên liệu từ cá nhà máy chế biến thủy
sản trong khu vực ĐBSCL. Theo Hiệp Hội chế biến và xuất khẩu thủy sản
(VASEP), nguồn cung dồi dào cùng với việc chinh phục được hàng tỷ người tiêu
dùng tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đưa cá tra, cá basa thành mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của thủy sản Việt Nam.
Bảng 7: Sản lượng xuất khẩu cá da trơn của Việt Nam 2006-2008
Năm
Chỉ tiêu
2006 2007 2008
Sản lượng (nghìn tấn) 292,5 383,2 657
Giá trị ( triệu USD) 727,7 974,12 1.480
(Nguồn: Website Bộ Ngoại Giao)
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 41 -
Năm 2007 sản lượng xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam đạt 383,2 nghìn
tấn với kim ngạch 974,12 triệu USD, tăng 31% về lượng và 20,07% so với năm
2006. Năm 2008 đạt tổng sản lượng 657.000 tấn với kim ngạch 1,48 tỷ USD,
tăng 69% về sản lượng và 51% về giá trị so với năm 2007; đồng thời chiếm
32,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản.
Với định mức 3 kg nguyên liệu cho ra 1 kg thành phẩm, như vậy, lượng phụ
phẩm tạo ra từ việc philê cá tra, cá basa chiếm khoảng 70% khối lượng cá
nguyên liệu cá đưa vào chế biến. Với sản lượng xuất khẩu tăng dần qua các năm
thì lượng phế phẩm tạo ra thật khổng lồ. Trước đây, thứ phế phẩm này một số ít
nhà máy vẫn sử dụng để sản xuất mỡ; phần lớn còn lại bán cho tư nhân; chỉ một
số ít được dùng làm thức ăn chăn nuôi, còn lại đều được “luyện” mỡ cá. Nhưng
khoảng 5 năm trở lại đây, con cá tra, cá basa mất philê được tận dụng tối đa: đầu,
xương sống, ruột, kỳ vi chế biến thành thức ăn công nghiệp phục vụ chăn nuôi
sau khi đã nấu lấy mỡ bán với giá 3.000đ/kg. Bong bóng cá bán cho những đại lý
chuyên thu mua sấy khô cung cấp cho các nhà hàng nấu xúp với giá gần
20.000đ/kg. Bao tử cá làm sạch bán cho các quán ăn đặc sản với giá 10.000đ/kg.
Da cá xuất khẩu sang châu Âu với giá 5.000đ/kg phục vụ công nghiệp dược
phẩm, mỹ phẩm. Riêng mỡ cá - chiếm từ 15 - 20% trọng lượng - được các cơ sở
chế biến nấu thành mỡ nước cung ứng cho thị trường, giải pháp tận thu những
phụ phẩm của cá (đầu,vi, bụng, xương) thải ra trong quá trình chế biến cá tra, cá
basa để tách chiết ra mỡ sạch làm dầu biodiesel đã giải quyết được bài toán môi
trường, tạo thêm một nguồn nhiên liệu giá rẽ phụ vụ sản xuất, đời sống dân cư
trong vùng và đem lại nguồn lợi lớn cho cá vùng sản xuất cá tra, cá basa. Tại thời
điểm giữa năm 2008, với mỗi 1kg phụ phẩm (giá 3.500 – 4.000đ/kg) có thể cho
ra 0,2kg mỡ cá (với giá bán 13.000 – 14.000đ/kg) và 0,3kg bột cá (9.000 –
10.000đ/kg). Sau khi trừ các chi phí, việc chế biến phụ phẩm có thể đem lại lợi
nhuận từ 500 – 1.000đ/kg . Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân,
động lực chính làm xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở chế biến phụ phẩm cá
tra với quy mô vừa và nhỏ. Năm 2006 cả ĐBSCL có 50 nhà máy chế biến phụ
phẩm cá tra, cá basa, sang năm 2007 tăng lên 70 nhà máy và đến năm 2008 thì có
khoảng 80 nhà máy chế biến phụ phẩm cá tra, cá basa đang hoạt động.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 42 -
Với nhu cầu hiện tại của thị trường đã làm cho giá trị phụ phẩm cá tra, cá basa
gia tăng và có xu hướng tiếp tục tăng trong những năm tới, vì vậy việc thu mua
mua nguyên vật liệu từ thị trường bên ngoài có thể sẽ gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên, việc tận dụng được nguồn phụ phẩm tạo ra từ nhà máy chế biến thủy sản
số 1 đang hoạt động của công ty sẽ là nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định cho
dự án. Bên cạnh đó công ty còn dự tính mở rộng quy mô sản xuất, nếu nhà máy
chế biến thủy sản số 2 của công ty được thành lập thì sản lượng phụ phẩm tạo ra
hàng ngày của công ty không những đủ khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu
đầu vào cho dự án mà còn có thể tạo thêm thu nhập cho công ty khi bán lượng
phụ phẩm tiêu dùng không hết ra thị trường bên ngoài.
4.2.3 Phân tích thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra của dự
án.
Mỡ cá: được chế biến từ phụ phẩm đầu và thân cá tra, cá basa đã chế biến
philê, được dùng làm nguyên liệu thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy hải sản,
hoặc được chiết xuất tinh dầu trong công nghiệp chế biến mỹ phẩm, thực phẩm,
sản xuất dầu biodizel, Glycerol chiết xuất từ mỡ cá tra, cá basa, muối kali làm
phân bón và mỡ bôi trơn.
Khi nghề nuôi cá Tra của ĐBSCL chưa phát triển thì mỡ cá tra, basa xem như
phế phẩm bỏ đi. Theo nhịp thời gian, nghề nuôi cá tra của ĐBSCL phát triển,
nông dân cùng doanh nghiệp đua nhau nuôi cá tra, basa. Các nhà máy chế biến cá
tra xuất khẩu cũng đua nhau mọc lên. Phế phẩm mỡ cá tra ngày càng nhiều, các
cơ sở sản xuất dầu bôi trơn nghĩ đến việc tận dụng mỡ cá tra để chế biến mỡ bôi
trơn động cơ tung ra thị trường. Sản phẩm này được người tiêu dùng rất ưa
chuộng. Nhưng các cơ sở chế biến mỡ bôi trơn từ mỡ cá tra cả khu vực ĐBSCL
cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Năm 2004, giá nhiên liệu bắt đầu tăng lên nhất
là dầu diesel, một số doanh nghiệp bước vào nghiên cứu thử nghiệm lấy mỡ cá
tra chế biến dầu sinh học. Giữa năm 2006 toàn vùng ĐBSCL có 3 cơ sở sản xuất
thành công dầu biodiesel từ mỡ cá tra, cá basa là Công ty Agifish ở An Giang,
công ty TNHH Minh Tú ở T.p Cần Thơ và công ty TNHH thương mại thủy sản
Vĩnh Long tỉnh Vĩnh Long, việc sử dụng dầu biodiesel từ mỡ cá sẽ khắc phục
được tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt góp phần nâng cao giá trị cho con
cá tra, cá basa. Theo báo điện tử Cần Thơ số ra ngày 24/07/2008 thì từ đầu năm
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 43 -
2007 thì thị trường mỡ cá đã có sự biến động khi có sự thu mua một lượng lớn
mỡ cá từ Trung Quốc, HongKong, Đài Loan và Campuchia nên mặc dù sản
lượng mỡ cá hàng năm tạo ra có tăng nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ, dẫn đến giá mỡ cá không ngừng tăng cao. Nhưng tăng mạnh nhất là từ đầu
năm 2008 mỡ cá tra, basa đang được nhiều nước đặt hàng khối lượng lớn, nhiều
nhà máy chế biến mỡ cá Tra tại ĐBSCL không đủ hàng cung ứng. Các doanh
nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh tranh nhau đến ĐBSCL mua mỡ cá tra để xuất
khẩu. Các nhà máy chế biến mỡ cá Tra tại ĐBSCL cho rằng, nhu cầu mỡ cá tra,
basa để các doanh nghiệp trong nước dùng chế biến thức ăn gia súc và khách
hàng nước ngoài (Trung Quốc, Hongkong, Đài Loan, Campuchia) nhập khẩu để
chế biến thực phẩm và dầu biodiesel tăng mạnh, đáp ứng không đủ. Khoảng giữ
tháng 8/2008 theo tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP), giá mỡ cá tra đang ở mức 14.500 - 15.000 đồng/kg, nhưng nhiều
doanh nghiệp chế biến thức ăn giá súc, chế biến thực phẩm, dầu biodiesel... vẫn
rất “khát” hàng, tại Cần Thơ
mỡ cá tra đã qua sơ chế đang được nhiều nhà máy
chế biến cá tra xuất khẩu tại TP Cần Thơ bán ra với giá 14.000 đồng/kg. Theo
Hiệp hội Thủy sản TP Cần Thơ, mỗi tháng các nhà máy chế biến thủy sản ở Cần
Thơ chế biến được trên 4.000 tấn mỡ cá, chưa kể các cơ sở chuyên thu gom phụ
phẩm của các nhà máy chế biến thủy sản để chế biến mỡ cá xuất khẩu, nhưng
đều có đầu ra ổn định.
Việc sản xuất mỡ cá từ phế phẩm cá tra, cá basa theo phương pháp công
nghiệp thì lượng mỡ cá sẽ thu được khoảng 20-22% nguyên liệu ban đầu. Sau khi
philê thì một tấn cá tra, basa cho ra 700kg phụ phẩm. Như vậy, cứ một tấn cá tra,
basa sẽ có thể chế tạo ra khoảng 140 kg mỡ cá. Với sản lượng cá tra, cá basa từ
năm 2006-2008 tại khu vực ĐBSCL và với tình hình tiêu thụ mỡ cá tra, basa thì
có thể ước lượng được sản lượng mỡ cá được tạo ra và tiêu thụ qua các năm như
sau.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 44 -
Bảng 8: Sản lượng mỡ cá tiêu thụ qua cá năm 2006-2008
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Năm
Chỉ tiêu
2006 2007 2008
Sản lượng cá da trơn tại ĐBSCL 830 1.200 1.300
Sản lượng mỡ cá tạo ra tại ĐBSCL 116,2 168 182
Từ bảng 8 cho biết sản lượng mỡ cá được tạo ra và tiêu thụ hàng năm tương
được với sản lượng cá tra, cá basa được nuôi trong toàn khu vực ĐBSCL. Qua
đó, chúng ta có thể dự trù được nhu cầu của thị trường mỡ cá trong những năm
sau khi dự án được thực hiện.
Bảng 9: Sản lượng thực tế và sản lượng dự trù trong quá khứ
Năm Y x
2006 116,2 -1
2007 168 0
2008 182 1
Tổng 522,2 0
Căn cứ vào số liệu ở bảng 6 ta có thể tính được cá tham số a và b từ đó thế
vào phương trình Y = aX + b
a =
222
10)1(
182*1168*02,116*)1(
++−
++−
=
101
1820)2,116(
++
++−
= 32,29
b =
3
2,522
= 174
Qua đó, chúng ta có thể xác định được nhu cầu tương lai về sản phẩm mỡ cá
trong 10 năm tiếp theo khi dự án được thực hiện:
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 45 -
Bảng 10: Dự báo nhu cầu mỡ cá từ 2009-2018
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Năm Nhu cầu sản lượng mỡ cá
2009 238,58
2010 270,87
2011 303,16
2012 335,45
2013 367,74
2014 400,03
2015 432,32
2016 464,61
2017 496,9
2018 529,19
Qua phân tích trên cho thấy, mỡ cá đang có nhu cầu tiêu thụ mạnh không chỉ ở
khu vực ĐBSCL mà còn ở một số nước như Trung Quốc, HongKong, Đài
Loan… sản lượng mỡ cá tạo ra hàng năm tại ĐBSCL chưa đủ để đáp ứng nhu
cầu thị trường. Nhiều doanh nghiệp tại ĐBSCL đã bỏ ra hàng chục tỉ đồng đầu tư
nhà xưởng, nhập dây chuyền công nghệ chế biến mỡ cá tra từ Trung Quốc, Thái
Lan để nâng chất lượng sản xuất, thay thế phương pháp thắng mỡ thủ công trước
đây. Nhiều doanh nghiệp chế biến mỡ cá tra cho rằng, với đà nguồn nhiên liệu
dầu hỏa cạn kiệt và tăng giá sẽ là cơ hội vàng cho mỡ cá tra, basa ĐBSCL. Giá
mỡ cá tra đang “sốt”, đang hút hàng nhưng theo các nhà kinh doanh mỡ cá tra,
viễn cảnh sẽ còn sáng sủa hơn nhiều. Đó là giá dầu thế giới tăng cao hơn, nhu
cầu sử dụng dầu biodiesel nhiều hơn. Hơn nữa, mỡ cá tra, basa có hàm lượng
omega3, hàm lượng cholesterol thấp hơn mỡ heo và cá biển, tiềm năng chế biến
mỡ cá tra để làm thực phẩm, dược phẩm sẽ có nhiều cơ hội khai thác hơn. Qua
đó cho thấy thị trường mỡ cá tại ĐBSCL đang có khoảng trống lớn, sản phẩm
của dự án đang có thị trường tiêu thụ ổn định, và nhu cầu đều tăng qua các năm,
đó là cơ sở vũng chắc cho việc thực hiện dự án.
Bột cá: Bột cá khô được xấy mịn từ phụ phẩm thịt và xương cá tra, cá basa
sau khi được thắng lấy mỡ và sấy khô. Bột cá Basa, cá tra cung cấp dinh dưỡng
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 46 -
cho động vật như nguồn đạm tối ưu dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thuỷ
sản... Bột cá được sử dụng chủ yếu như là nguồn protein dễ tiêu hoá, cung cấp
các acid béo cần thiết, ít cholesterol, giàu chất khoáng, phospholipis…và các
chất thu hút vị ngon, giúp tiêu hoá tốt, đảm bảo mức độ dinh dưỡng, năng lượng
cho vật nuôi nặng cân, chóng lớn…vì vậy, nhu cầu bột cá như một dạng protein
trong thức ăn chăn nuôi ngày càng trở nên cấp thiết.
Tại Việt Nam bột cá được sử dụng như thành phần chủ yếu trong thức ăn chăn
nuôi, trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng của việc nuôi trông thủy sản
và chăn nuôi gia súc thì kèm theo đó là việc tăng lượng bột cá dùng để sản xuất.
Tuy nhiên, sản lượng bột cá sản xuất trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ cả về chất lượng lẫn số lượng, vì vậy hàng năm Việt Nam phải bỏ ra một
lượng ngoại tệ không nhỏ để nhập khẩu hàng trăm tấn bột cá từ các nước Pêru,
ChiLê, Thái Lan, Malaysia…Theo báo cáo của Cục chăn nuôi – Bộ NN-PTNT
thì năm 2006 sản lượng thức ăn chăn nuôi trong nước sản xuất được đạt 5.118
triệu tấn. Để sản xuất được 5.118 triệu tấn thức ăn chăn nuôi nói trên chúng ta
không đủ nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài như ngô, khô dầu, cám mì, bột
mì, bột cá…trong đó lượng bột cá nhập khẩu là 55 ngàn tấn chiếm khoảng 60%
nhu cầu bột cá, năm 2007 Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 100 ngàn tấn bột cá,
theo số liệu thống kê ước tính kim ngạch nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên
liệu thức ăn chăn nuôi về Việt Nam đạt 1,66 tỷ USD tăng 35,4% so với năm
2007. Qua đó ta có thể tính toán được nhu cầu sản lượng bột cá cần phải nhập
khẩu của nước ta 2006-2008 như sau.
Bảng 11: Nhu cầu sản lượng bột cá của Việt Nam 2006-2008
Đơn vị tính: Ngàn tấn
Năm
Chỉ Tiêu
2006 2007 2008
Nhu cầu bột cá cần nhập khẩu 55 100 135,4
(Nguồn: Website )
Từ bảng trên cho thấy nhu cầu bột cá cần phải nhập khẩu của Việt Nam qua
các năm 2006-2008, qua đó có thể dự báo được nhu cầu bột cá cần cung cấp cho
thị trường Việt Nam trong những năm tới.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 47 -
Bảng 12: Sản lượng thực tế và sản lượng dự trù trong quá khứ
Năm Y x
2006 55 -1
2007 100 0
2008 135,4 1
Tổng 290,4 0
Căn cứ vào số liệu ở bảng 12 ta có thể tính được cá tham số a và b từ đó thế
vào phương trình Y = aX + b
a =
222
10)1(
4,135*1100*055*)1(
++−
++−
=
101
4,1350)55(
++
++−
= 40,2
b =
3
4,290
= 96,8
Qua đó, chúng ta có thể xác định được nhu cầu tương lai về sản phẩm bột cá
trong 10 năm tiếp theo khi dự án được thực hiện:
Bảng 13: Dự báo nhu cầu bột cá từ 2009-2018
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Năm Nhu cầu sản lượng bột cá
2009 177,2
2010 217,4
2011 257,6
2012 297,8
2013 297,8
2014 338,0
2015 378,2
2016 458,6
2017 498,8
2018 539,0
Việc đầu tư sản xuất bột cá làm từ phụ phẩm cá tra, basa là một hướng đi mới
cho ngành chế biến thức ăn của Việt Nam góp phần giải quyết nhu cầu bột cá
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 48 -
trong nước. Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ bột cá trong nước thì bột cá
làm từ phụ phẩm cá tra, basa còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Theo báo cáo từ
Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (Jetro), xuất khẩu bột cá làm từ phụ
phẩm cá tra, basa của Việt Nam sang Nhật năm 2007 tăng khoảng 39%, đạt
15.538 tấn. Hàng năm, Nhật nhập khẩu khoảng 340.000 tấn bột cá, trong đó,
nhập khẩu từ Pêru chiếm khoảng 44%. Hiện nay, Việt Nam là nhà cung cấp bột
cá lớn thứ tư cho thị trường Nhật Bản.
Qua phân tích cho thấy, thị trường bột cá trong nước đang thiếu hụt một lượng
lớn, sản lượng tạo ra không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Việc đầu
tư nhà máy với máy móc hiện đại để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt sẽ góp
phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, ngoài khả năng tiêu thụ trong nước thì
một số nước khác cũng đang có nhu cầu nhập khẩu bột cá. Do đó, sản phẩm bột
cá của dự án làm ra sẽ có thị trường tiệu thụ.
4.2.4 Đánh giá, nhận xét các nội dung về phương diện kỹ thuật.
4.2.4.1 Địa điểm thực hiện dự án.
Để thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh cũng như tiêu thụ sản phẩm. Dự án
được thực hiện tại Lô số 2.11B khu công nghiệp Trà Nốc II, phường Trà Nốc,
quận Ô Môn, Thành phố Cần Thơ. Với vị trí này thì nhà máy rất thuận lợi cho
việc vận chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, chế biến. Có
các tuyến quốc lộ giao thông thuận lợi chuyển hàng hóa đến cảng Cần Thơ, Cảng
Sài Gòn, sân bay Trà Nóc. Hệ thống ngân hàng, bưu điện đặt tại khu công nghiệp
rất thuận lợi cho việc thông tin liên lạc và thanh toán, chuyển tiền….Các dịch vụ
khác phục vụ công nhân như hệ thống chợ, các dịch vụ cá nhân gần nhà máy đều
có bảo đảm nhu cầu sinh hoạt cần thiết của công nhân.
Đây cũng là nơi xây dựng phù hợp với quy hoạch khu công nghiệp của thành
phố, được hưởng chế độ ưu đãi về thuế nên chi phí cũng giảm.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì có một điều bất lợi là điều kiện giao thông chủ yếu
là đường bộ, trong khi hiện nay đường thủy cũng được vận chuyển khá nhiều làm
cho doanh nghiệp mất thêm một khoản chi phí vận chuyển
4.2.4.2 Thiết bị công nghệ của dự án.
Để đảm bảo an toàn cho môi trường (không gây mùi hôi, ô nhiễm môi trường)
và chất lượng sản phẩm; công ty quyết định nhập khẩu dây chuyền máy móc,
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 49 -
thiết bị sản xuất bột cá, mỡ cá mới 100% từ công ty TNHH A&S Thai Work của
Thái Lan. Dây chuyền sản xuất bột cá, mỡ cá mà công ty dự kiến nhập khẩu từ
Thái Lan bao gồm các máy móc, thiết bị chính như sau:
Máy chặt cá thành từng miếng nhỏ với motor 30 Kw, gồm vít tả và phuễ.
Bộ phận nhập liệu, phuễ nối với vít tải đảm bảo nạp liệu chính xác vào nồi
hấp, hộp số cơ cấu đa tốc độ 3.7 Kw có xích và đĩa.
Nồi hấp nguyên liệu loại PH-9, công suất 3.5 tấn/giờ. Nồi hơi hấp gián tiếp
trong rotor và bao nhiệt. Nồi hấp quay rất chậm để tránh nguyên liệu bị quánh lại
như cháo trước khi ép.
Hộp số động cơ đa tốc 5.5 Kw, cửa kiểm soát, thiết bị hơi và bảo ôn.
Vít trộn và nghiền từ máy ép ra máy sấy, máy bằng thếp không gỉ và vít bằng
thếp mềm. Vít tải bẻ vỡ các mảng bột cá, trộn cặn từ máy ly tâm và nước cốt cá
hoặc cô đặt trước khi đến máy sấy.
Máy sấy Rotadisc TST 10.0C. Máy sấy hơi gián tiếp dựa trên đĩa quay được
thiết kế với diện tích sấy lớn có tác dụng tự làm sạch bảo đảm vận hành liên tục
và hữu hiệu.
Thiết bị sàn quay để tách đá, mảng ghép, dây nhợ và nhựa.
Bộ phận nập bột. Nối phễu và vít tải nơi tạm trữ để tiếp liệu chính xác cho
máy nghiền. Động cơ hộp số 2.2 Kw.
Máy nghiền loại M21, nghiền bột cá trước khi cho vào bao. Máy được hoàn
chỉnh với tấm lưới thay thế được, búa nghiền cứng, nam châm và motor 22.0kw.
Bộ phận làm sạch khư mùi đông tụ hơi nước và làm giảm mùi hôi hơi ga từ
máy sấy, bộ phận này được làm bằng thép không gỉ. lường đầu vào 9.200 m
3
/giờ.
Lượng nước làm nguội 150 m
3
/giờ. Máy bơm 15.0 Kw, quạt bằng thép không gỉ
11 Kw, lắp sau bộ phận khủ mùi và ống dẫn tối đa là 30 m, ống khói cao 10m.
Hệ thống của A&STW được đánh giá tiết kiệm 10-12% lượng hơi nước tiêu
thụ. Bơm đặt biệt chuyển lượng nước nóng được nén trực tiếp trở lại nồi hơi.
Bình ly tâm 3 pha hiệu Westfalia 450-05-00 hoặc G-tech để tách cặn, dầu và
nước cốt từ nước ép. Motor điện 30 Kw, bảng điều khiển, dụng cụ thông thường,
phụ tùng và 1 thùng chứa công suất 6-8m
3
/giờ.
Bộ lọc dầu tự động để làm sạch dầu thô từ bình ly tâm. Motor điện 3.0 Kw.
Lọc nước và cặn tự động công suất 1.500 lít/giờ.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 50 -
Nhà máy cung cấp cá thiết bị dụng cụ thông thường, thùng 4x15 kg. Mobilith
SHC 1.500 mỡ chịu nhiệt cao, 2 bộ dây đai chữ V, 18 kính thủy tinh chịu nhiệt,
128 lưỡi búa nghiền, 10 lưới (2.5, 3, 4.5mm) cho máy nghiền, 2 bộ bơm trục vít,
2 bộ vòng carbon, 36 thành gạt máy sấy.
Và các thiết bị phụ trợ khác.
4.2.4.3 Quy trình sản xuất bột cá, mỡ cá từ phế liệu, phế thải ngành thủy
sản.
Năng lực sản xuất.
Công ty dự kiến lắp 1 dây chuyền sản xuất bột cá, mỡ cá từ phế liệu, phế
thải ngành thủy sản nhập từ Thái Lan công suất 100 tấn nguyên liệu/ngày. Tỷ lệ
sản xuất thu được là khoảng 22% bột cá và 20% mỡ cá . Như vậy, nhà máy có
thể sản xuất được 550 tấn bột cá và 500 tấn mỡ cá trong 1 tháng.
Giải pháp xây dựng
Công ty dự kiến xây dựng nhà máy với tổng diện tích 5.000 m
2
bao gồm:
Nhà xưởng, nhà kho có diện tích chung là 3.500 m
2
Diện tích sân đường nội bộ, cây xanh... 1.500 m2
Cổng hàng rào 2.000 m
2
Nguyên liệu chính là phế liệu, phế phẩm ngành thủy sản, chủ yếu là phần đầu
và thân đã lấy phần thịt philê của cá tra, cá basa của công ty và được công ty thu
mua về từ các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu.
Đầu và thân cá tra, cá basa phụ phẩm này được đưa vào máy nghiền sau đó
được truyền bằng vít tải qua máy hấp để hấp chín nguyên liệu.
Hổn hợp cá nghiền sau khi được hấp được truyền qua máy sấy để sấy khô.
Còn phần dung dịch được đưa qua hệ thống ly tâm nhằm để tách phần xác cá
và dung dịch còn lại là mỡ cá, nước và một phần xác cá còn lẫn lại. Phần xác cá
được tách ra ở giai đoạn này được đưa vào máy sấy để sấy khô.
Phần dung dịch ở giai đoạn này được tiếp chuyển qua máy quay ly tâm đứng
để tách phần mỡ và nước. Ở giai đoạn này nước được tách ra vẫn còn lẫn một
phần xác cá còn sót lại.
Phần nước được tách ra vẫn còn lẫn một phần xác cá còn sót lại sẽ chuyển qua
máy cô đặc để làm bốc hơi nước và thu phần xác cá. Phần xác cá ở giai đoạn này
sẽ được đưa qua máy sấy khô.
www.kinhtehoc.net
GVHD: Huỳnh Thị Cẩm Lý SVTH: Phạm Thị Yến
Thẩm định dự án đầu tư Trang - 51 -
Phần mỡ cá sau khi được tách nước sẽ chuyển qua hệ thống gia nhiệt để làm
bốc hơi nước còn sót lại. Sau khi tách triệt để hơi nước, mỡ cá sẽ được chuyển
qua bồn chứa và xuất kho giao cho khách hàng
Phần xác cá được tách và sấy khô ở các giai đoạn trên được chuyển qua máy
nghiền đạt độ mịn 1,5mm. Sau khi được nghiền mịn và đồng thời bột cá này có
thể trộn thêm một số thành phần khác như bắp, tấm, cám, sắn, đậu nành, bột đá
vôi, bột cá, bột sò, bột thịt, bột xương và chất khoáng, Premix…Độ mịn và tỷ lệ
trộn thêm phụ gia tùy thuộc vào yêu cầu của quy trình chế biến thức ăn gia súc
và của khách hàng. Sau đó vô bao và xuất bán cho khách hàng.
4.2.4.4 Cơ sở vật chất của dự án.
Nguồn cung cấp điện
Nguồn cung cấp điện cho nhà máy được lấy từ mạng trung thế chạy dọc theo
các trục lộ đường nội bộ khu công nghiệp Trà Nóc II, cách nhà máy không quá
100 m. Dự án sẽ xây dựng một trạm hạ thế 750 KVA để cung cấp điện cho toàn
bộ hoạt động của nhà máy.
Nguồn cung cấp nước
Hiện tại dự án có thể sử dụng giếng nước ngầm công suất 60 m
3
/giờ. Hệ thống
xử lý nước thải và nước cấp được sử dụng chung của dự án nhà máy chế biến
thủy sản số 2 của công ty.
Nguồn cung cấp lao động
Dự kiến khi đi vào hoạt động. Dự án thu hút trên 100 lao động, trong đó số lao
động gián tiếp khoảng 10 người được trả mức lương ổn định theo công việc được
giao, còn lại là lao động trực tiếp sẽ nhận mức lương khoán sản phẩm hoặc khối
lượng công việc hoàn thành. Lực lượng lao động chủ yếu là lao động địa phương
và sẽ được tăng thêm khi doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động. Lao
động luôn được khám, kiểm tra sức khảo định kỳ, khi làm việc được trang bị
ủng, găng tay, tạp dề, quần áo bảo hộ lao động phù hợp từng công đoạn sản xuất.
Nhà xưởng được trang bị hệ thống quạt hút, quạt đẩy luân chuyển không khí
tránh gây ngạt, tạo sự thông thái, thoải mái khi sản xuất. Hệ thống điện thắp sáng
phục vụ sản xuất luôn được đảm bảo.
Phương tiện vận chuyển.
www.kinhtehoc.net