Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Phân tích cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra tiền đề lý luận giữ vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.64 KB, 42 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI:

Phân tích cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
và chỉ ra tiền đề lý luận giữ vai trò quyết định trong việc hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Giảng viên hướng dẫn : Vũ Thị Thu Hà
Lớp học phần: 2113HCMI0111
Nhóm: 1

Hà Nội, 4/202


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại ngày nay, luôn ln có sự thay đổi và biến động, nhưng có
một giá trị cao cả vẫn cịn sống mãi đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. Để nhận thức sâu sắc
về tầm quan trọng vô cùng to lớn của di sản tư tưởng Hồ Chí Minh là cả q trình lâu
dài, ngày càng đi đến hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Đặc biệt với bối cảnh thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta,
nhân dân ta nhận thức về những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập
dân tộc , phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo tự do và hạnh phúc của con người, tiến tới
xã hội xã hội chủ nghĩa.
Việc học tập, nghiên cứu và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí


Minh đã góp phần tác động tích cực đến nhận thức của sinh viên trong học tập và cuộc
sống hằng ngày. Những giá trị này không bao giờ lỗi thời mà nó gắn liền với thời đại,
trường tồn bất diệt với sự phát triển vững mạnh của dân tộc Việt Nam
(A) GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, được Người kế thừa và phát triển, kết hợp với những tinh hoa văn hoá, đạo
đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong
quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vơ cùng phong phú của
mình. Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng mà tư tưởng Hồ Chí Minh mang lại đối
với cách mạng, đời sống và dân tộc Việt Nam, cùng với mong muốn giúp các bạn sinh
viên nhận thức rõ được về quá trình hình thành và phát triển giá trị tư tưởng của
Người, nhóm quyết định nghiên cứu đề tài:
“Phân tích cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra tiền đề lý luận
giữ vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.”

3


2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



Đối tượng NC: Tư tưởng Hồ Chính Minh



Phạm vi NC: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tiền đề lý luận giữ vai trị

quyết định trong việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh



Phương pháp NC:
o Phương pháp logic, phương pháp lịch sử và sự kết hợp hai phương pháp

này
o Phương pháp nghiên cứu văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực

tiễn của Hồ Chí Minh
o Phương pháp chuyên ngành, liên ngành
o Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...

3. Mục tiêu nghiên cứu


Mục tiêu chung: Phân tích cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh và chỉ ra tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.



Mục tiêu cụ thể:
o Nêu được ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh
o Chỉ ra được nhân tố chủ quan và khách quan trong việc hình thành tư

tưởng Hồ Chí Minh
o Khẳng định và chứng minh Chủ nghĩa Mác là nguồn gốc lý luận trực tiếp,


quyết định đến bản chất Tư Tưởng Hồ Chí Minh
o Đưa các kết luận và nhận xét về giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đem lại

4


5


(B) NỘI DUNG
I. Khái niệm TTHCM và Cơ sở hình thành
1.1. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2. Nhân tố khách quan
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
a. Gia đình
- Cha: Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) là một nhà Nho cấp tiến, yêu nước thương dân,
gần dân; là một vị quan thanh liêm mẫu mực; là một tấm gương về lao động.
- Mẹ: Hoàng Thị Loan (1868-1901) là người phụ nữ hết mực yêu thương chồng con,
sớm hôm tảo tần, hy sinh hết mình vì sự nghiệp của chồng và tương lai con cái; là
người khai tâm chữ hán cho cậu bé Nguyễn Sinh Cung.
- Chị gái Nguyễn Thị Thanh và anh trai Nguyễn Sinh Khiêm.
=> Giàu lòng yêu nước, tham gia nhiệt tình vào các phong trào Cách mạng; đều hy
sinh hạnh phúc cá nhân vì lo cho độc lập dân tộc.
b. Đất nước, dân tộc



Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỷ XX:
+ 1858: Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sự xâm lược của thực dân Pháp đã

gây ra nhiều hậu quả cho xã hội Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn đã từng bước khuất
phục đầu hàng Pháp.
+ Sau các hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), Giáp Tuất (15/3/1874), cùng với
hiệp ước Hác - măng (25/8/1883), và cuối cùng năm 1884 với Hòa ước Patonot, triều
6


đình nhà Nguyễn đã chính thức cơng nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt
Nam. Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta nổ ra, dâng
cao, lan rộng trong cả nước và lần lượt bị thất bại do các phong trào chủ yếu tự phát,
thiếu đường lối tổ chức và phương hướng hoạt động.
Đầu thế kỉ XX:



+ Cơng cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam
có sự chuyển biến về cơ cấu giai cấp và tầng lớp trong xã hội (xã hội phong kiến
chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến, xuất hiện nhiều giai cấp tầng lớp xã hội
mới: công nhân, tư sản, tiểu tư sản). Công cuộc khai thác thuộc địa là sự bóc lột về
kinh tế, áp bức về chính trị và nơ dịch về văn hóa ngày càng gay gắt.
+ Dưới sự áp bức, bóc lột nặng nề, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh
giành chủ quyền. Cùng với các phong trào theo khuynh hướng phong kiến (Bãi Sậy,
Hương Khê,...) là sự ảnh hưởng của các “tân văn”, “tân thư” và ảnh hưởng của các
trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam làm cho các phong trào
yêu nước ở nước ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.
=> Tất cả các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều không
tránh khỏi sự đàn áp, khủng bố dã man của thực dân Pháp và thiếu đường lối, kinh

nghiệm nên dẫn đến thất bại, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước. Bối cảnh đó đặt ra một yêu cầu bức thiết về việc phải tìm ra con đường cứu
nước.
c. Thế giới


Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và xác lập sự

thống trị của chúng trên phạm vi thế giới, trở thành kẻ thù chung của nhân dân các dân
tộc thuộc địa, khiến cho các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra ngày càng
mạnh mẽ.
- Ở các nước tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Ở
các nước thuộc địa, ngoài mâu thuẫn vốn có là giai cấp nơng dân và địa chủ cịn xuất
7


hiện mâu thuẫn mới: giữa nhân dân các thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc. Xã hội phân
hóa: xuất hiện giai cấp, tầng lớp xã hội mới là công nhân và tư sản.
- Chủ nghĩa Mác ra đời và cách mạng tháng 10 Nga thành công đã mở ra thời
đại mới trong lịch sử lồi người. Chính cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm “thức tỉnh
các dân tộc châu Á”. Chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan cách mạng và phương pháp luận biện chứng.
- Sự ra đời của Quốc tế cộng sản (03/1919) đã đề cập tới vấn đề thuộc địa, bênh
vực các dân tộc thuộc địa, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giúp đỡ
đào tạo cách mạng, vạch ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa.
=> Hồ Chí Minh sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác và trở thành một Đảng viên trong
Quốc tế cộng sản đã tìm thấy vũ khí tư tưởng của giai cấp và con đường đấu tranh cho
dân tộc mình. Trong bối cánh lịch sử chung của dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh và tư
tưởng Hồ Chí Minh đã xuất hiện, đáp ứng địi hỏi bức thiết của dân tộc và thời đại.

d. Tiền đề tư tưởng - lý luận


Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo

lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống
tốt đẹp và cao quý.
- Thứ nhất, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch
sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt Nam.
Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp
nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó. Chính chủ nghĩa u nước là
nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu dân.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hồn cảnh và
nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ

8


21, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội,
nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh
của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong
bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh). Trong tư tưởng của Bác,
con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo,
ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Trong truyền
thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn

hóa, ngơn ngữ, phong tục tập qn và những giá trị tốt đẹp khác của dân tộc. Trên cơ
sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những
cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, u đời, có
ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ
niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính
nghĩa.


Tinh hoa văn hoá nhân loại
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn hố

phương Đơng. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân
văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và
cách mạng Trung Quốc.


Tư tưởng văn hóa phương Đơng
+ Nho giáo: Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo cũng

có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là triết lý
hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; (lý tưởng về một xã hội bình trị;
triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần
hiếu học.) Nho giáo mang tư tưởng “thế giới đại đồng”, triết lý nhân sinh-đạo đức: tu
thân dưỡng tính; đề cao tinh thần hiếu học, việc học, người có học - tư tưởng tiến bộ
vượt bậc so với quan điểm ngu dân. Tuy nhiên Nho giáo vẫn mang nặng tư tưởng đẳng
cấp, coi khinh lao động chân tay, coi thường phụ nữ.
9



=> Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù
hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những
người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các
đời trước để lại”
+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá
sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy,
hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con
người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của con
người và châm lý; khun con người sống hịa đồng, gắn bó với đất nước của Đạo
Phật.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã hình
thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương khơng xa đời mà sống gắn bó với
nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân
chống kẻ thù dân tộc. Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân
dân lao động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư tưởng
phương Đông như Lão tử (thuyết vô vi), thuyết pháp trị (Hàn Phi Tử), Mặc tử, Quản
tử... Khi đã trở thành người Mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư
tưởng và văn hóa phương Đơng để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.
Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lịng tham muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm
liêm chính, chí cơng vơ tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với
quy luật tự nhiên, xã hội.


Tư tưởng và văn hóa phương Tây:
Khi nói về văn hóa phương Tây thường có ba thái độ về vấn đề này: Thứ nhất là

cự tuyệt hồn tồn văn hóa phương Tây; Thứ hai là vong bản (quá đề cao nó, đánh mất

bản sắc văn hóa dân tộc); Thứ ba chính là thái độ của Hồ Chí Minh về văn hóa phương
Tây - dung hòa (lựa chọn những thứ tốt đẹp, bỏ qua những điều xấu xí).
10


+ Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đơng Ba rồi vào Trường Quốc học
Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham mê mơn
lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
+ Trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước, Người đã từng sang Mỹ, đến
sống ở New York, làm thuê ở Brooklyn và thường đến thăm khu Harlem của người da
đen. Người thường suy nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được ghi
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ.
+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư
tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ước xã hội của Rútxơ,
tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn, Trung Quốc… Tư tưởng dân chủ của
các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực
tiễn. Nhờ sự thơng minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện trong phong trào
cơng nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của
mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đơng, Tây, từ tầm cao của tri thức
nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển. (Hồ
Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng tự do - bình đẳng - bác ái, tư tưởng và phong cách dân
chủ, đánh giá về các cuộc cách mạng phương Tây, cách làm việc khoa học và hợp lý,
tư duy duy lý, tư tưởng đề cao con người, lòng yêu thương con người của Thiên Chúa
giáo, trân trọng các giá trị văn hóa phương Tây).


Chủ nghĩa Mác- Lênin
Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại đã


đưa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu nước trở thành người
cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền
thống dân tộc cũng như của tư tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng
của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, những phạm
trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận
Mác – Lênin.

11


Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước
thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh
được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do,
Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm
1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã
hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia
Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
+ Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo, từ đó người
xác định được con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam là con đường
Cách mạng vô sản.
+ Tháng 12/1920, tại đại hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp tại thành phố
Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập
Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa
cộng sản.
+ Ngày 30/6/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học
tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất
nước Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu

vào Đồn Chủ tịch Quốc tế Nơng dân.
+ Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm
cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đồn chủ tịch
Quốc tế Nơng dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách
mạng ở một số nước Châu Á.
+ Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên - tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin về trong nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng
Việt Nam.

12


+ Năm 1930, phong trào cách mạng Việt Nam nổ ra mạnh mẽ tuy nhiên đều thất
bại do bị khủng hoảng về đường lối và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Dưới
tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản (Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng và Đông Dương
cộng sản liên đoàn) thành một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam tại Cửu Long,
Hương Cảng, Trung Quốc.
=> Chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng, phương pháp luận biện chứng cho Nguyễn Ái Quốc. Từ đó tạo ra bước ngoặt
trong lịng chàng trai trẻ mong muốn giải phóng dân tộc: từ người yêu nước trở thành
người cộng sản chân chính, tìm ra con đường cứu nước; chấm dứt thời kỳ bế tắc,
khủng hoảng cách mạng Việt Nam. Nhờ chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế, từ cách mạng dân tộc đến cách mạng
vơ sản cũng như chuyển hóa và nâng cao những yếu tố tích cực của văn hóa dân tộc,
nhân loại.
Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn
chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích, tổng

kết một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều, rập
khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chính Người đã
viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”. Nhờ Lênin, người đã tìm thấy “Con đường
giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
=> Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành
người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của
Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn
nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách

13


mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra
con đường cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn.
=> Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.3. Nhân tố chủ quan
1.3.1. Phẩm chất của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hồi bão lớn cứu dân, cứu nước thốt khỏi
cảnh lầm than, cơ cực để đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người có ý chí, nghị
lực to lớn, một mình dám đi ra nước ngồi khảo sát thực tế các nước đế quốc giàu có
cũng như các dân tộc thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, mà chỉ với hai bàn tay trắng.
Người đã làm nhiều nghề nghiệp khác nhau để kiếm sống, biết rất nhiều ngoại ngữ, tự
học hỏi và hoạt động cách mạng. Kết hợp học ở nhà trường, học trong sách vở, học
trong thực tế hoạt động cách mạng, học ở nhân dân khắp những nơi Người đã đến, và
đã có vốn học thức văn hố sâu rộng Đơng Tây kim cổ để vận dụng vào hoạt động

cách mạng.
- Đặc biệt là Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng, đã vận dụng đúng quy luật chung của xã
hội loài người, của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ thể của Việt Nam, đề
xuất tư tưởng, đường lối cách mạng mới đáp ứng đúng đòi hỏi thực tiễn; có năng lực
tổ chức biến tư tưởng, đường lối thành hiện thực.
- Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách
mạng Việt Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là người
có năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác và kỳ diệu
để dẫn dắt tồn Đảng, tồn quân, toàn dân ta đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang.
- Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, Lệ người
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam và của cách
mạng thế giới. Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố quyết định những thành
cơng sáng tạo của Hồ Chí Minh trong hoạt động lý luận và thực tiễn khơng vì cho sự
nghiệp riêng mình mà vì cả dân tộc Việt Nam và nhân loại.
14


1.3.2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
- Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phủ, phi
thường. Trước khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt động
công tác ở khoảng 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân và chế độ thực dân không chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách,
báo, radio mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua cuộc sống và hoạt động thực tiễn tại
các cường quốc đế quốc. Người đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa
đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
- Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã
hội, về xây dựng đảng cộng sản, v,v, không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua
việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, qua hoạt động trong Đảng Cộng sản

Trung Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu
đời sống xã hội ở Liên Xô – nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, v.v.
- Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện
thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh động, đồng thời tổng kết
thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng với việc
tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo chủ nghĩa
Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập Quân đội nhân dân
Việt Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Những phẩm chất cả nhân cùng
những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở trong nước và
trên thế giới là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. Ý NGHĨA VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO TÌNH HÌNH
HIỆN NAY
2.1. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
- Từ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, thấy được nội dung cốt lõi về nội dung, vị trí,
vai trị, sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh:
15


+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm lý luận, phản ánh những
vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong
điều kiện mới, kết hợp với các giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng
và cách mạng Việt Nam.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt
Nam; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc trong thực
hiện nhiệm vụ đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc, và ngày nay là xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh cần được nghiên cứu, quán triệt trong hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tất cả mỗi giai đoạn phát triển của
cách mạng.
2.2. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, hết sức tránh giáo
điều, rập khn, máy móc, làm mất đi tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trong sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phải tuân theo thế giới
quan, phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tuyệt đối
trung thành với những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn,
ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"
- Là nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh cần được nghiên cứu, quán triệt trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính

16


sách của Đảng và Nhà nước ở các giai đoạn phát triển của cách mạng. Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ của tất cả các
cấp, các ngành trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước hiện nay.
- Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời từ yêu cầu của
thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân
tộc bị áp bức. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn luôn vận động và phát triển,
phải vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, hết sức tránh giáo điều,
rập khn, máy móc, làm mất đi tính sáng tạo của tư tưởng của Người.

- Trong sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, phải tuân theo thế giới
quan, phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tuyệt đối
trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; đề phịng những tư tưởng cơ hội, xét lại, thực chất là phản bội lại chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN ĐĨNG VAI TRỊ QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH
THÀNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc
lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin ở
nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhất là lý luận về giai cấp - dân tộc và lý luận về chủ
nghĩa xã hội.
3.1. Hoàn cảnh đất nước và quá trình đến với chủ nghĩa Mác Lênin của Hồ Chí
Minh theo từng giai đoạn
a. Giai đoạn trước tháng 7/1920
Sau Điều ước Pa-tơ-nốt (1884), thực dân Pháp đã hoàn thành về cơ bản q trình bình
định và chính thức xác lập ách thống trị trên đất nước Việt Nam. Nước ta trở thành
“một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù
17


hung ác”. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và
chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên
cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm
hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Chỉ có giải quyết thành cơng những mâu thuẫn
trên đây - đồng nghĩa tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, thì xã hội Việt Nam mới
tiếp tục phát triển.
Các nhà yêu nước đương thời đã dự lập nhiều con đường, cách thức hành động khác
nhau để cứu nước và giải phóng dân tộc. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam

Quốc dân Đảng tiến hành thất bại, đã đánh dấu sự kết thúc cho những nỗ lực kiểu cũ
của phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đó địi hỏi phải có sự tìm tịi mới và một trong
những hướng tìm đường cứu nước mới chính là vận động thanh niên xuất dương ra các
nước. Đương thời, Nhật Bản dưới triều đại Minh Trị thiên hoàng, cùng với tiếng vang
của cách mạng Tân Hợi (Trung Hoa dân quốc) có sức hút lớn đối với các chí sĩ Việt
Nam yêu nước. Nhà cách mạng Phan Bội Châu chủ trương dựa vào viện trợ từ bên
ngoài để mong thực hiện cuộc cải cách ở trong nước và đã chủ xướng phong trào
Đơng Du. Nhà chí sĩ Phan Chu Trinh thì chủ trương dựa vào Pháp, tiến hành đấu tranh
nghị trường theo phương châm “Pháp - Việt đề huề” để cải thiện dân sinh, tiến tới đòi
lại quyền tự chủ cho dân tộc… Tất cả các cuộc khảo nghiệm tìm con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc của các nhà yêu nước tiền bối đều không thành công. Cách mạng
Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Yêu cầu
khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam là phải tìm được con đường giải phóng
dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại để mở đường cho dân tộc
Việt Nam phát triển đi lên.

18


Mặc dù rất khâm phục lòng yêu nước và đánh giá cao những cống hiến của các bậc
cách mạng tiền bối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng bằng dự cảm chính trị
thiên tài, Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy những hạn chế và bế tắc về mục tiêu và
phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời nên khó đi đến thành cơng.
Người quyết định đi tìm con đường cứu nước mới. Nhưng đi đâu, làm gì để cứu nước,
cứu dân thốt khỏi ách nơ lệ, lầm than của chủ nghĩa thực dân, đế quốc? Khác hẳn với
các nhà yêu nước tiền bối, Người đã chọn hướng con đường cứu nước của mình sang
phương Tây với bến đỗ đầu tiên trong hành trình là nước Pháp. Đây không phải là
hành động ngẫu nhiên, tự phát của Người, mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm
lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche

Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn), người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành
trình lịch sử đi tìm đường cứu nước.
Vì sao trong hành trình đầu tiên đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành lại chọn
hướng sang phương Tây mà không chọn sang Nhật Bản hay Trung Hoa dân quốc như
một chí sĩ yêu nước đương thời? Chính từ những nhận thức về bối cảnh đất nước, về
văn minh phương Tây, văn hóa Pháp khi Người còn ở độ tuổi niên thiếu và thời gian
học ở Trường Quốc học Huế, đã thơi thúc Người muốn tìm hiểu về nước Pháp để xem
đằng sau những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” là cái gì. Người cho rằng: “Muốn
đánh hổ thì phải vào hang hổ!”. Mặt khác, chính chủ nghĩa thực dân Pháp đang thống
trị Việt Nam, cho nên Người quyết chí đến Pháp để trực tiếp xem xét, nghiên cứu.
Năm 1923, Người kể lại cho một nhà báo Nga Xô-viết: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần
19


đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Và từ thuở ấy, tơi rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu sau những chữ
ấy”. Lần khác, Người trả lời một nhà văn Mỹ: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ơng cụ
thân sinh ra tơi, lúc này thường hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thốt khỏi ách thống
trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước
ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Như vậy, việc chọn hướng đi đúng trong hành trình tìm đường cứu nước là sự đột phá
mới trong tư duy chính trị, thể hiện bản lĩnh độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, mở ra cơ hội lớn cho dân tộc Việt Nam với việc tích hợp tinh hoa văn hóa nhân
loại, mở đường cho dân tộc phát triển đi lên.
Mục đích sang phương Tây của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện tầm nhìn vượt
trội so với các nhà yêu nước đương thời. Trong khoảng 10 năm (1911 - 1920), Người
đã đi qua hàng chục quốc gia, từ các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở
châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập,
tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội của nước sở tại và các nước tư bản chủ nghĩa khác

và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Đến đâu Người cũng quan sát kỹ lưỡng,
so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân
dân lao động, để tìm hiểu sâu về nền văn hóa của các nước tư bản phát triển thời đó và
thực chất của nền văn minh dựa trên chế độ người bóc lột người, chứ không phải đi
cầu ngoại viện theo con đường “ỷ Pháp cầu tiến” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu
Trinh... Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận
xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu
20


cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Người viết:
“Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái
vơ sản”. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm đúng đắn của Người về
bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
vơ sản, về sự đồn kết cách mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Trong những năm ở nước Mỹ và nước Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu về
các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn
Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và dân
quyền”. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không
thể đi theo con đường của họ được. Bởi vì, như Người đã nói: “Kách mệnh Mỹ cũng
như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa”. Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt trên hẳn tư duy
tìm đường cứu nước của các nhà cách mạng tiền bối. Người đã kiên quyết không lựa
chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng
“khơng đến nơi”, khơng triệt để vì nó khơng hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng
lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất cơng.
Phương thức để đạt được mục đích cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với các nhà

cách mạng tiền bối và đương thời cũng có sự khác biệt và độc đáo. Cụ Phan Chu Trinh
sang nước Pháp nhờ cậy vào Hội nhân quyền của Pháp. Cụ Phan Bội Châu sang Nhật
Bản mưu cầu vào lòng “hằng tâm hằng sản” của nhiều người trợ giúp. Những Người ra
đi tìm đường cứu nước bằng chính bàn tay lao động và trí tuệ của mình; thơng qua con
đường “vơ sản hóa” đi đến nhiều nước, Người vừa tích cực học tập, nghiên cứu, vừa
21


tìm cách đấu tranh với những kẻ xâm lược đất nước mình ở ngay chính quốc. Tháng 6
năm 1919, khi các nước đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp
Hội nghị ở Vécxây (Versailles) nước Pháp để mục đích phân chia lại thế giới, Người
đã chớp lấy cơ hội đó để cùng với một số nhà yêu nước khác tại Pháp, gửi tới Hội nghị
bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 tám điểm, tố cáo chính sách của thực dân
Pháp và địi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam. Sự kiện trên đã gây tiếng vang lớn trong thế giới thuộc
địa. Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam nhưng
không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc
với những lời tuyên bố về quyền tự do của các dân tộc chỉ là trò lừa bịp; và Người đã
rút ra bài học vô cùng giá trị là: Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình chủ yếu phải do
dân tộc mình quyết định, phải trơng cậy vào lực lượng của chính mình, chứ khơng phải
dựa chủ yếu vào bên ngồi… Qua sự kiện đó càng khẳng định sự nhạy cảm về chính
trị, tính chủ động, khơn khéo, sắc bén trong đấu tranh cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vượt lên trên tầm nhìn của các nhà chí sĩ yêu nước đương thời; đồng thời,
đánh dấu sự tiếp cận gần hơn chủ nghĩa Mác - Lênin của Người.
Tuy nhiên, không phải là vào ngày năm 1911 khi sang nước ngồi, Hồ Chí Minh đã
đến hồn tồn với chủ nghĩa Mác Lênin, mà phải mất một thời gian rất lâu sau đó thì
người mới tiếp cận chủ nghĩa Mác Lênin một cách tự giác. Việc tiếp cận với chủ nghĩa
Mác Lênin đã được Hồ Chí Minh cắt nghĩa trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ
nghĩa Mác Lênin”: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ cách mạng tháng 10 chỉ là theo cảm tính
tự nhiên, tơi kính u Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng cho

đồng bào mình. Tơi tham gia Đảng xã hội Pháp là vì các ơng bà ấy đã tỏ ra đồng tình
với tơi, với cuộc đấu tranh của dân tộc bị áp bức. Cịn Đảng là gì, cơng đồn là gì, chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tơi chưa hiểu.”
b. Giai đoạn từ tháng 7/1920 - tháng 12/1920
Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp được
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo
(L'Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về

22


vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Bản Luận cương của V.I. Lênin như luồng
ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,
đem đến cho Người một nhãn quan chính trị mới. Hồi tưởng giây phút trọng đại đó,
trong tác phẩm “Con đường dẫn tơi đến chủ nghĩa Lênin”, Người viết: “Trong Luận
cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối
cùng tơi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: "Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta!". Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Nguyên Cố Tổng bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Luận cương về những vấn đề
dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả
những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”. Trong bài thơ
Người đi tìm hình đi cứu nước của Chế Lan Viên đã cho ta thấy rõ được quá trình Bác
đến với Chủ Nghĩa Mác:
“Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin.
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước.
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”
Việc Bác Hồ khóc ở đây khơng phải vì đau khổ mà là vì sung sướng khi đã tìm thấy
con đường cho cách mạng Việt Nam. Người đã tìm thấy một lý luận, một học thuyết
mà người chờ đợi bấy lâu nay.
23


Sự kiện được đọc bản bản Luận cương của V.I. Lênin, cùng với những hoạt động sát
cánh với các tầng lớp cơng nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, cùng đồng
bào mình trên đất Pháp trước đó, là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán
thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại
Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở thành phố Tua (Tours), tháng
12/1920. Người đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và
cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vơ cùng
quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong
lịch sử cách mạng Việt Nam.
Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là
phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp,
thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh dấu một bước
chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và
lập trường chính trị từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự lựa chọn
và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó hồn tồn phù hợp với trào lưu tiến
hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả
một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó,
chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây đã có một phương hướng mới. Người đã
rút ra một luận điểm hết sức khoa học và cách mạng triệt để: “Muốn cứu nước và giải

phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây
chính là điểm khác biệt căn bản giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với những người
Việt Nam yêu nước tiền bối.
c. Sau tháng 12/1920


Phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam từng bước được cụ thể
hóa, thể hiện rõ trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt
Nam:



Hồ Chí Minh đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị, tổ chức, chuẩn bị cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông
24


qua báo chí và các hoạt động thực tiễn Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác
- Lênin vào phong trào cơng nhân và phong trào u nước Việt Nam.


Phương hướng của cách mạng giải phóng dân tộc trong các nước thuộc địa,
trong đó có Việt Nam được Hồ Chí Minh cụ thể hóa một bước trên cơ sở phân
tích sâu sắc bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân Pháp. Những nội dung
đó được thể hiện rõ trong nhiều bài báo của Người đăng trên các báo của Đảng
Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Liên Xô, của Quốc tế Cộng sản và trong tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiếng Pháp của Người được xuất
bản ở Pari năm 1925.




Hồ Chí Minh sáng lập tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản: Hội Việt Nam
Thanh niên Cách mạng (tháng 6-1925), ra báo Thanh niên bằng tiếng Việt, từng
bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận cách mạng trong những người
yêu nước và cơng nhân.



Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ và nhất là từ
kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh vạch rõ cách mạng
Việt Nam phải có Đảng cộng sản với chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt để lãnh
đạo; lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là tồn thể nhân dân Việt Nam
trong đó nịng cốt là liên minh cơng nơng. Những nội dung cốt lõi đó và nhiều
vấn đề trong đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam được hình thành
trong tác phẩm Đường Kách mệnh của Người. Tác phẩm này là sự chuẩn bị mọi
mặt về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.



Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện do Người khởi thảo (vào đầu
năm 1930). Các văn kiện này là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam, trong đó chính thức khẳng định rõ những quan điểm cơ bản về
đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam, việc tổ chức, xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

25



×