Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

0 XÂY DỰNG KHỐI đại ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG TÂY NGUYÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.73 KB, 11 trang )

XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
VÙNG TÂY NGUYÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ThS Vũ Thái Dũng1

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết các dân tộc là ngọn cờ tập
hợp các lực lượng cách mạng, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về công tác vận động đồng bào các dân tộc miền núi trong
quá trình đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược đặt ra là đoàn các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống mọi âm mưu chia rẽ dân tộc
của các thế lực thù địch, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng nước
ta.

1

Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1


Tây Nguyên là vùng đất có đặc điểm khác biệt về địa lý, kinh tế, văn
hoá xã hội, với số lượng lớn đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Nơi
đây được coi là vùng trọng điểm về vấn đề dân tộc - an ninh quốc phòng
nên luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất là công tác vận động


đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc, cũng như việc quán triệt tư
tưởng này vào việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc thiểu số vùng
Tây Nguyên trong khối đoàn kết toàn dân có giá trị lý luận và thực tiễn
mang tính cấp bách và lâu dài.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các
dân tộc
Điểm đặc sắc khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc chính
là: Các dân tộc tuy khác nhau nhưng họ là anh em của nhau, đồng bào của
nhau. Nghĩa là các dân tộc với các phong tục, tập quán, văn hoá… khác
nhau, rất đa dạng nhưng các dân tộc không tách biệt nhau, đều có chung
một gốc, một dòng máu, chung một tổ tiên - Đồng bào. Do đó, tình cảm
giữa các dân tộc là tình cảm anh em ruột thịt, tình cảm gia đình, không
phân biệt người Kinh hay người Thượng, từ miền núi đến miền xuôi đều là
anh em một nhà. Tư tưởng đặc sắc về dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện rất
rõ trong các bài nói, bài phân tích và trong hành động của Người. Người
thường đặt chữ đồng bào trước tên riêng của mỗi dân tộc, mỗi nhóm dân
tộc, mỗi cộng đồng có nhiều dân tộc cùng sinh sống.
2


Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku
ngày 19-4-1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là
con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt” 2. Hay trong thư gửi các cháu
học sinh miền núi nhân dịp khai giảng ngày 19-3-1955, Người cùng căn
dặn: “Các cháu thuộc nhiều dân tộc ở nhiều địa phương, nhưng các cháu
đều là con em của đại gia đình chung: Là gia đình Việt Nam” 3.
Quan điểm đặc sắc về dân tộc là anh em ruột thịt, Hồ Chí Minh nêu
lên nguyên tắc rất đặc sắc về vấn đề dân tộc ở Việt Nam: Sự bình đẳng,

đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau như người trong một gia đình. Đây
là quan điểm nhân văn, nhân ái của Người, luôn xuất phát từ tình cảm chân
thành và sâu sắc với đồng bào mình.
Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ
truyền thống tốt đẹp trong mối quan hệ giữa các dân tộc trong trường kỳ
lịch sử, được phản ánh trong các truyền thuyết, nó cũng xuất phát từ quan
điểm lấy dân làm gốc “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu vẫn xong”, Người luôn coi các mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự bình đẳng giữa các dân tộc là sự bình
đẳng toàn diện về kinh tế, văn hoá chính trị xã hội trên tinh thần các dân
tộc là chủ nhân của đất nước, bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm. Tinh
thần đó được thể hiện ngay từ buổi đầu mới giành được độc lập và xuyên
2
3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.217.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.496.

3


suốt trong tư tưởng của Người cũng như trong chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu
số nước nhà. Trước khi diễn ra Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, tại
Hà Nội cũng đã diễn ra Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc
ngày 03-12-1945. Tại hội nghị này trong diễn văn khai mạc, Người nêu rõ:
“Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam
ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc
Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân

biệt nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải
đoàn kết, bây giờ để giữ lấy độc lập càng cần phải đoàn kết hơn nữa”4.
Người còn nhấn mạnh: “Anh em thiểu số chúng ta sẽ được:
1. Dân tộc bình đẳng. Chính phủ sẽ bãi bỏ hết những điều hủ tệ cũ,
bao nhiêu bất bình (đẳng) trước sẽ sửa chữa đi.
2. Chính phủ sẽ gắng sức giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt:
a) Về kinh tế, sẽ mở mang nông nghiệp cho các dân tộc được hưởng;
b) Về văn hóa, Chính phủ sẽ chú ý trình độ học thức cho dân tộc.
Các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố gắng để cùng giành
cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái bình”5...
Có thể nói, trong suy nghĩ và tình cảm của mình, Người luôn coi các
dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em một nhà, là thành
4
5

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.110.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.110.

4


viên không thể chia cắt của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Cũng trong lời phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số
Việt Nam ngày 3-12-1945, Người đã chỉ rõ:
“Anh em thiểu số chúng ta sẽ được:
Các dân tộc sẽ được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố gắng để
cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái bình”6.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn toát lên tình thương yêu vô bờ
bến đối với đồng bào các dân tộc trên đất nước ta. Người nhắc nhở, căn dặn
cán bộ, quân, dân phải luôn thương yêu các dân tộc, luôn chăm lo đến lợi

ích của đồng bào. Người nhắc nhở các dân tộc đa số và thiểu số “phải
thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hành
phúc chung của chúng ta và con cháu chung ta”, “là anh em ruột thịt, chúng
ta sống chế có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”7.
2. Những nguyên tắc và phương pháp xây dựng và củng cố khối
đại đoàn kết các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Tây Nguyên là khu vực địa lý - dân tộc rộng lớn, đóng vai trò
trong yếu trong tiến trình phát triển của đất nước ta. Từ lâu Tây Nguyên
là địa bàn sinh tụ của những dân tộc thiểu số thuộc hai ngữ hệ: Nam Á
(Nhóm Môn Khơme bao gồm các dân tộc như: Ba Na, Xê Đăng, Cơ Ho,
Mơ Nông, Gié Triêng, Mạ, H Rê, BRâu, Rơ Măm) và Nam Đảo (Nhóm
6
7

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.110.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.217-218.

5


Malayo-Polynesia bao gồm: Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Ra Glai).
Việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc thiểu số vùng Tây
Nguyên là một trong những công tác quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta. Vận động đồng bào các dân tộc vùng Tây Nguyên phải gắn với những
nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
2.1. Những nguyên tắc đoàn kết các dân tộc vùng Tây Nguyên theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
Nguyên tắc thứ nhất: Xây dựng khối đoàn kết các dân tộc là bảo
đảm tốt hơn những lợi ích của Tổ quốc, tạo điều kiện phát triển và thực

hiện quyền bình đẳng các dân tộc cho đồng bào các dân tộc vùng Tây
Nguyên. Theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh thì đại đoàn kết phải
xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc và những
quyền lợi của đồng bào các dân tộc. Khối đại đoàn kết sẽ làm tăng sức
mạnh cho tấm lá chắn bảo vệ biên giới phía Tây của Tổ quốc, tạo đà phát
triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện để các dân tộc Tây Nguyên được đóng
gió sức lực và trí tuệ của mình vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Nguyên tắc thứ hai: Tin vào dân, dựa vào dân, vì dân, là một
nguyên tắc cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, cũng
nguyên tác quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc
thiểu số vùng Tây Nguyên. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Nước lấy dân
làm gốc”; “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Nguyên tắc này
được Người khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: “Trong bầu trời
6


không gì quý bằng nhân dân” 8 và “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân” 9. Có thể nói mọi tư tưởng, mọi sáng tạo của
Người đều xuất phát từ lòng thương yêu, kinh trọng, tin tưởng ở nhân
dân.
Nguyên tắc thứ ba: Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có
lãnh đạo; đại đoàn kết lâu dài, bền vững giữa các dân tộc thiểu số vùng
Tây Nguyên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có phạm vi rộng lớn, nhưng không phải tập hợp lỏng lẻo, hỗn độn
mà là một tập hợp có tổ chức. Lực lượng đại đoàn kết bao gồm tất cả các
giai tầng xã hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, các tôn
giáo… hợp thành mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
Nguyên tắc thứ tư: Đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn giữa
các dân tộc vùng Tây Nguyên với nhau. Trong buổi nói chuyện với đoàn

đại biểu các dân tộc ít người dự lễ kỷ niệm ngày 1-5-1959, Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn “Phải hoà thuận, đoàn kết giúp đỡ nhau tận tình, phải
nghĩ đến lợi ích chung mà đừng nghĩ đến lợi ích riêng” 10. Người luôn coi
các dân tộc dù là đa số hay thiểu số, dù là người Mán hay người Mường
cũng đều là anh em một nhà, anh em ruột thịt. Sự khác biệt giữa các dân
tộc chủ yếu là phân biệt bởi yếu tố tinh thân như phong tục, tập quán,
tâm lý, lòng tự tôn dân tộc, ngôn ngữ…
8

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.544.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.79.
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.431.
9

7


2.2. Những phương pháp đoàn kết các dân tộc thiểu số vùng Tây
Nguyên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng: Tuyên
truyền giáo dục là để quần chúng thấm nhuần lý luận cách mạng, khi đã
thấm nhuần lý luận cách mạng, phải tiến hành vận động, lôi kéo quần
chúng, hiệu triệu họ đứng lên làm cách mạng, có như vậy mới chuyển
hoá được sức mạnh tiềm tàng của quần chúng thành lực lượng của cách
mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực trong việc
vận động đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc. Để tuyên truyền, vận động
quần chúng có hiệu quả, Người yêu cầu phải tuyên truyền cụ thể, thiết
thực. Các vấn đề phải rành mạch, ý tứ rõ ràng, không dây cà ra dây
muống, đặc biệt là viết cho đồng bào dân tộc thiểu số. Trong bài nói tại

Hội nghị Tuyên giáo miền núi, Người chỉ ra một phương pháp tuyên
truyền giáo dục rất đặc sắc, phù hợp với trình độ nhận thức của mọi tầng
lớp nhân dân, Người viết: “Mỗi lớp huấn luyện như thế, học một việc cụ
thể, thiết thực. Một là gì, hai là gì, rồi ba bốn năm là gì. Làm như thế
nào. Học mười ngày rồi về đi làm. Họ làm rất tốt. Họ làm khoảng 6
tháng, hết tủ, họ lại về học lần nữa” 11.
Phương pháp tổ chức: Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo, là linh
hồn khối đại đoàn kết, Đảng Cộng sản phải được xây dựng trong sạch,
vững mạnh. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, có một bộ phận hết sức

11

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2000, Tr.129.

8


quan trọng, đó là xây dựng Đảng. Trong tư tưởng về xây dựng Đảng của
Người có rất nhiều nội dung phong phú, nhìn từ góc độ chiến lược đại
đoàn kết, có thể khái quát những luận điểm của Người về xây dựng một
Đảng Cộng sản trí tuệ, cách mạng, thống nhất. Chỉ có một Đảng như thế
mới đủ sức tập hợp và lãnh đạo dân tộc, mới có thể có được một khối đại
đoàn kết toàn dân vững chắc. Bên cạnh tổ chức Đảng lãnh đạo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đến việc tập hợp đoàn kết dân tộc trong
các đoàn thể quần chúng, đây là cơ sở để hình thành Mặt trận dân tộc
thống nhất, là tổ chức quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân.
Phương pháp kết hợp hiệu quả các giải pháp ứng xử nhằm xây
dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc vùng Tây Nguyên: Tây
Nguyên là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng trong hành lang biên
giới phía Tây của Tổ quốc, đây cũng là nơi tập trung đông đảo nhiều dân

tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, kẻ địch luôn lợi
dụng triệt để đồng bào nơi đây nhằm nô dịch, bóc lột nặng nề và tuyên
truyền sai lệch về chủ trương, đường lối của Đảng ta, với những thế lực
này, cần chủ động, kiên quyết tiến công tiêu diệt trên cơ sở phân hoá
chúng. Đối với đồng bào các dân tộc vùng Tây Nguyên, trong quá trình
xây dựng khối đoàn kết các dân tộc, phần lớn các dân tộc Tây Nguyên đã
gắn bó với Đảng, với cách mạng. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi sự lôi
kéo, phá hoại khối đại đoàn kết của các thế lực thù địch với nhiều chiêu
bài khác nhau, gây kích động các phần tử quá khích hoặc mê muội đồng
9


bào do hiểu biết còn hạn chế. Chúng ta cần mềm mỏng, tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục đồng bào yên ổn làm ăn, tạo điều kiện hơn nữa
giúp đồng bào ổn định đời sống vật chất và tinh thần, hướng theo Đảng
và Bác Hồ.

Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, gọi chung là dân tộc Việt
Nam, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số,
còn lại là các dân tộc thiểu số. Phần lớn các dân tộc thiểu số sinh sống ở
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo - đây là những
địa bàn có vị trí chiến lược về an ninh, kinh tế, quốc phòng. Chính vì
vậy, việc đoàn kết các dân tộc thiểu số trong cộng đồng thống nhất các
dân tộc Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng, nhằm
phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần tinh thần, tư tưởng và tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, suốt chiều dài lịch sử đất nước, các đồng bào các dân tộc thiểu số
miền Nam, trong đó có các dân tộc thiểu số Tây Nguyên cùng với đồng

bào các dân tộc cả nước nguyện một lòng son sắt đi theo con đường mà
Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; quyết tâm thực hiện lời dạy của Người:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công"; không ngừng nâng cao cảnh giác, kiên quyết đập tan mọi âm mưu
10


phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc; chung sức, chung lòng
xây dựng quê hương, đất nước phát triển toàn diện, bền vững trong xu
thế hội nhập và phát triển./.

11



×