Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đề cương ôn tập môn chính trị học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.19 KB, 34 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ&TUN
TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
VẤN ĐỀ ƠN TẬP
Mơn: Chính trị học đại cương
Dành cho các lớp Đại học
I.

Khái niệm, đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của
chính trị học
1. Khái niệm:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp; các dân tộc và
các quốc gia với vấn đề giành, giữ,tổ chức và sử dụng các quyền lực nhà nước;
là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động
thực tiễn của các giai cấp, đảng phái,, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng
thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Chính trị học là khoa học nghiên cứu lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng tỏ
những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị- xã hội, cùng
những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó
trong xã hội có giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.
CTH được hiểu ở hai góc độ:
CTH đại cương
CTH chuyên biệt
2. Đối tượng:
Đối tượng nghiên cứu của Chính trị học là những quy luật, tính quy luật
chung nhất của đời sống chính trị xã hội; những cơ chế tác động , cơ chế
vận dụng: những phương thức, thủ thuật, cơng nghệ chính trị để hiện thực
hóa những quy luật, tính quy luật đó. Đặc biệt là quy luật về giành, giữ và
thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước- trong đời sống xã hội.
- Chính trị học nghiên cứu:
+ Mục tiêu chính trị trước mắt và những mục tiêu triển vọng mang tính hiện


thực, cũng như con đường giải quyết những nghĩa vụ để đạt được mục tiêu đó.
+ Những phương pháp, phương tiện, thủ thuật cộng hình thức tổ chức để đạt
được mục tiêu đề ra.
+ Việc lựa chọn và sắp xếp cán bộ thích hợp để giải quyết những nghĩa vụ đó.
- Một hệ thống những quan hệ xã hội đặc biệt liên quan đến vấn đề nhà


nước: chính học nghiên cứu:
+ Mối quan hệ giữa các giai cấp ( thực chất là quan hệ về lợi ích chính trị mà
các giai cấp theo đuổi).
+ Hệ thống Đảng chính trị, mối quan hệ qua lại giữa chúng dẫn đến hình thành:
lý luận chung chính trị cộng kinh nghiệm hoạt động và biệc vận dụng những
kinh nghiệm đó vào việc xác định.
+ Nhà nước và tính chất nhà nước; cơ cấu và cơ chế sử dụng quyền lực nhà
nước.
+ Nhà nước quan hệ dân tộc và các tầng lớp xã hội khác nhau ( hình thành lý
luận dân tộc và vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc ).
+ Việc lựa chọn và sử dụng con người thích hợp để giải quyết những nghĩa vụ
chính trị cụ thể.
+ Quan hệ giữa các quốc gia ( hình thành học thuyết chính trị quốc tế ).
3. Chức năng của Chính trị học :
- Phát hiện, dự báo những quy luật, tính quy luật cơ bản nhất của đời sống chính
trị trong phạm vi mỗi quốc gia và quốc tế.
- Hình thành hệ thống tri thức có tính lý luận, có căn cứ khoa học và thực tiễn :
lý luận về tổ chức chính trị và cơ chế vận dụng những quy luật, tính quy luật
của đời sống chính trị, lý luận về cơng nghệ chính trị, nghệ thuật tổ chức và
thực thi quyền lực chính trị, phục vụ sự nghiệp xây dựng chế độ chính trị tiến
bộ.
4. Nhiệm vụ của Chính trị học :
- Trang bị cho đội ngũ lãnh đạo chính trị những tri thức, kinh nghiệm cần thiết,

giúp cho hoạt động của họ phù hợp với quy luật khách quan, tránh được những
sai lầm : giáo điều, chủ quan, duy ý chí…
- Trang bị cho mỗi công dân những cơ sở khoa học để họ có thể nhận thức về
các sự kiện chính trị, trên cơ sở đó xây dựng thái độ, động cơ đúng đắn phù hợp
với khả năng trong sự phát triển chung mà mỗi cơng dân tham gia như một chủ
thể.
- Góp phần hình thành cơ sở khoa học cho các chương trình chính trị, cho việc
hoạch địch chiến lược với những mục tiêu đối nội, đối ngoại, cùng các phương
pháp, phương tiện, những thủ thuật chính trị nhằm đạt mục tiêu chính trị.
- Phân tích các thể chế chính trị vầ mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng,
xây dựng học thuyết, lý luận chính trị, làm rõ sự phát triển của nền dân chủ.
5. Phương pháp nghiên cứu của Chính trị học.
Hệ thống phương pháp của Chính trị học bao gồm ba cấp độ : phương pháp
luận, hệ phương pháp riêng và những phương pháp cụ thể.
-Phương pháp luận : Chính trị học lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu lĩnh vực chính


trị của đời sống xã hội.
- Phương pháp riêng : Chính trị học sử dụng triệt để phương pháp thống nhất
giữa loogic vầ lịch sử, phân tích và hệ thống.
- Phương pháp cụ thể : phương pháp so sánh ( chính trị học so sánh) , phương
pháp thực nghiệm chính trị và hàng loạt phương pháp công cụ : thống kê, mơ
hình hóa, miêu tả…
II. Tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại.
Trả lời
Điều kiện kinh tế chính trị của Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc :

- Xã hội Trung Quốc chuyển từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến
- Đồ sắt xuất hiện, năng xuất lao động cao, mâu thuẫn xã hội gay gắt

- Nhà Chu thống trị thiên hạ chỉ về hình thức, các nước chư hầu khơng phục
tùng nhà Chu nữa mà mang qn thơn tính lẫn nhau, xã hội đại loạn
-Nhiều học thuyết chính trị đã ra đời để đáp ứng sự đòi hỏi của lịch sử.
TƯ TƯỞNG CỦA PHÁI NHO GIA :
- Khổng Tử là nhà tư tưởng nổi bật nhất của phái Nho gia. Tư tưởng của ông
được thể hiện rõ nét trong bộ Ngũ kinh ( Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Lễ và
Kinh Xuân Thu) và Tứ thư ( Luận ngữ, Trung dung, Đại học, Mạnh tử).
- Tư tưởng của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội- một xã hội ‘’ Thái
bình thịnh trị’’
- Học thuyết của Khổng Tử về cơ bản là học thuyết chính trị - đạo đức. Tư
tưởng của Khổng Tử được thể hiện tập trung nhất trong quan niệm của ơng về
NHÂN, LỄ, CHÍNH DANH .
NHÂN : Là thước đo, là chuẩn mực quyết định thành bại, tốt hay xấu của
chính trị. Nó bao gồm :
+ Thương yêu con người và hình thành lên hai ngun tắc : ‘ Điều mình khơng
muốn thì đừng đối xử với người’’ ‘’ Mình muốn thành đạt thì làm cho người
khác thành đạt’’
+ Tu dưỡng bản thân, sửa mình theo lễ là Nhân
+ Tơn trọng và sử dụng người hiền.
LỄ : vốn là quy định, là nghi thức trong cúng tế, đây còn là phương thức để điều
chỉnh tất cả các quan hệ xã hội.
+ Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trị, địa vị
của mình trong xã hội, biết phục tùng theo điều hành ( hợp Lễ) và xa rời điều ác


( trái Lễ).
+ Lễ được rằng buộc trong Ngũ Luân : Quan hệ vua- tôi ( lấy chữ Trung làm
đầu )
Quan hệ Cha- con ( lấy chữ Hiếu làm đầu)
Quan hệ Vợ- chồng ( lấy chữ Tiết làm đầu)

Quan hệ Anh- Em ( lấy chữ Đễ làm đầu)
Quan hệ Bạn – bè ( lấy chữ Tín làm đầu)
CHÍNH DANH : Sự thống nhất giữa Nhân và Lễ thể hiện trên bình diện chính
trị là Chính danh. Chính danh là danh phận đứng đắn ngay thẳng.
+ Xác định danh phận, đẳng cấp và vị tri của từng cá nhân trong tầng lớp xã
hội. Ai ở vị trí nào thì làm trịn bổn phận ở vị trí ấy ‘’ quân quân, thần thần, phụ
phụ, tử tử ‘’
+ Danh phải phù hợp với thực vì lời nói phải đi đơi với việc làm.
+ Chính danh địi hỏi mọi người phải rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất ;
cũng như yêu cầu xã hội, các nhà quản lý phải biết tu thân để làm gương cho
dân và phải sử dụng con người đúng với năng lực phẩm chất của họ. Đây là
mầm mống của quan điểm về công bằng xã hội tương đối tiến bộ.
Chốt lại : Nội dung xuyên suốt trong tư tưởng của Khổng tử là tư tưởng ‘’ Đức
trị ‘’ dùng đạo đức và luân lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội và nhà nước ;
làm tiêu chuẩn chi phối các hành vi chính trị.Ba yếu tố có quan hệ biện chứng
với nhau, tạo thành tính chặt chẽ cho học thuyết.
MẠNH TỬ
Mạnh Tử đựơc coi là người kế thừa xuất sắc và chính thống học thuyết của
Khổng Tử. Học thuyết của ông là sự phản ánh thực trạng xã hội thời đó theo
khuynh hướng cải lương điều hịa mâu thuẫn giai cấp có lợi cho bọn địa chủ q
tộc hơn là bọn q tộc chủ nơ đã đến bước đường cùng.
Tư tưởng của Khổng Tử bao gồm các nội dung cơ bản sau đây :
+ Tư tưởng hai hạng( quân tử và tiểu nhân ) người và thuyết tính thiện: Kế
thừa quan điểm của khổng tử về phân chia hai hạng người trong xã hội là quân
tử và tiểu nhân, nhưng cụ thể hóa hơn, ơng xác định rõ ràng quân tử là những
người “lao tâm cai trị người”. và được người cung phụng. Tiểu nhân là những
người lao lực bị người cai trị và phải cung phụng cho người. Bản tính con người
là thiện, tính thiện là bốn đức tốt nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn cái đó là trời phú, có
giữ được hay khơng là do tâm của mình. Nếu tâm có đầy đủ 4 đức tính đó thì
người với trời hịa hợp.

+ Chính trị “vương đạo, nhân chính và được lịng dân( quan niệm vua – tôi
– dân)”: Mạnh Tử đề cao vương đạo kịch liệt phê phán bá đạo. Ông coi vương
đạo là dùng nhân nghĩa mà trị dân, còn bá đạo là dùng bạo lực để cai trị mà mục


đích là tranh lợi. Tranh lợi là nguồn gốc của mọi rối ren, cướp đoạt lẫn nhau.
Vương đạo phải thi hành nhân chính, thi hành chính trị được lịng dân. Một câu
nói nổi tiếng của ơng là: dân là q, xã tắc là phụ, vua là thường. Ông cho rằng
phải phân phối đất đai cho dân cày cấy, làm cho dân no ấm, sau đó với thúc đẩy
dân làm điều thiện. Khơng cho dân có hằng sản, để cho dân sinh tội lỗi rồi lại
dùng hình phạt ra mà trị dân như vậy là chăng lưới để bẫy dân.
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng dân : ‘’ Dân là quý nhất,
quốc gia đức thứ hai, vua là không đáng trọng ‘’
TƯ TƯỞNG CỦA PHÁI PHÁP GIA :
Người hoàn thiện và phát triển học thuyết chính trị của phái Pháp gia là Hàn Phi
tử. Theo ông con người làm theo lợi ích cá nhân bao giờ cũng mưu mơ, tính
tốn để kiếm lợi cho mình. Cho nên không thể cai trị bằng nhân, lễ, nghĩa
được. Ông kiên quyêt phủ nhận lý luận chính trị thần quyền. Đối với ơng
“người cai trị mà mê tín quỉ thần thì tất nhiên mất nước”. Từ đó ơng tập
trung vào 3 ngun lý trong chính trị đó là Pháp, Thế, Thuật.Pháp là
trung tâm và thật, thế là điều kiện tất yếu để thực hành pháp.
- Trọng pháp: Pháp là những quy định, những luật lệ, là nội dung của chính
sách cai trị do cửa quan ban ra, mọi người đều phải tuân theo.
+Ông khẳng định tầm quan trọng của pháp luật và cho rằng, pháp luật phải
công khai, ai cũng phải biết và không ai được tự ý thay đổi. Việc làm cho
pháp luật không bị hỏng nát là tiền đề và mục đích tối cao cuả chính trị.
+ Pháp ví như tấm gương sáng có thể soi thấu tà gian; pháp ví như cán cân
tiêu biểu cho lẽ công bằng.



- Trọng thuật: Thuật là thủ đoạn, phương pháp, cách thức, mưu lược của “
người làm vua”
+Thuật là cái nằm kín đáo trong bụng, để so sánh các đầu mối của sự việc và
ngấm ngầm cai trị các bề tôi …. Dùng thuật để làm cho kẻ thân yêu gần gũi
cũng không ai biết được. Dùng thuật để thấy rõ tính trung hay gian của bề
tơi do đó mà điều khiển được bề tôi.
- Trọng thế: Thế là vị thế, quyền uy, thế lực của người cai trị. Nó là cái đặc biệt
cần thiết đối với người cầm quyền.
+ Ông cho rằng chỉ có pháp và thuật mà thiếu quyền lực để cưỡng bức người
thì dẫu người có làm vua có thuật điều khiển các bầy tơi cũng khơng thể
đảm bảo cho các bầy tôi phục tùng sự cai trị của vua. Do vậy theo ông Thế
là một thứ quyền lực đặt ra cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật chứ
không phải thứ quyền lực nảy sinh một cách tự nhiên trong chủ nghĩa nhân
trị
- Quan hệ giữa pháp, thuật, và thế:
Nếu thế nằm trong tay người kém cỏi cũng có thể gây hại và làm rối lọan
đất nước. Nên quyền lực được đặt cho những người trung bình. Pháp và thế
khơng tách rời nhau, biết giữ gìn pháp và thế thì đất nước yên trị. Nếu trái
pháp bỏ thế thì nước nổi loạn. Pháp là trung tâm, thuật và thế là điều kiện tất
yếu để thực hành pháp. Ơng cho rằng thưởng phạt là cơng cụ để chấp hành
pháp luật. Do vậy, ông chủ chương phạt nặng và thưởng hậu để chấp hành
pháp. Theo ơng hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được sáu loại người: bọn
hàng giặc chạy dài, sợ chết: bọn tự cao học đại, tự lập ra cá học thuyết và
bọn lìa xã pháp luật: bọn ăn chơi xa xỉ: bọn bạo ngược, ngạo mạn: bọn dung
thứ lũ giặc, giấu giếm kẻ gian:bọn nói kheo dối trá. Dùng hình phạt để
khuyến khích sau loại người: những người lăn mình vào chốn hiểm nghèo,
hy sinh thành thực: những người ít nghe lời bậy, tuân theo pháp luật: những
người dốc hết sức mà làm ăn, làm lợi cho đời: những người trung hậu thật
thà, ngay thẳng: những người trọng mạng mình: những người giết giặc trừ
gian.

Có thể nói rằng : Tuy cịn mang tính sơ khai, nhưng các trường phái chính trị
của Trung Quốc cổ đại đã đặt nền móng cho luồng tư tưởng sau này.Việc kế
thừa có chọn lọc những tri thức đó là cần thiết cho thực tiễn chính trị hơm nay.
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NĨ ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
Sự ảnh hưởng của Nho Gia đến đởi sống chính trị xã hội Việt Nam
Ưu điểm :
+ Nho gia đã giúp cho nền phong kiến Việt Nam vững mạnh ( là nền tảng lý
luận để tổ chức nhà nước, pháp luật, phát triển kinh tế- xã hội)
+ Thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông đưa Nho gia trở thành quốc giáo ở nước ta.


+ Trong thời kỳ đó, Lê Thánh Tơng cịn tuyển chọn nhân tài từ nhiều khoa thi
để sắp xếp vào bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Nhược điểm: + Nho gia không chú ý đến phát triển khoa học kỹ thuật dẫn đến
nước ta bị kìm hãm sự phát triển nhiều thế kỷ.
Sự ảnh hưởng của Pháp gia đến đời sống chính trị
Ưu điểm : Luật Hình Thư, Luật Hồng Đức, Luật Gia Long…
Nhược điểm: Các bộ luật khá nghiêm ngặt.

3. Tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại và phương Tây cận đại.
Trả lời
- Điều kiện kinh tế- xã hội của Hy Lạp cổ đại :
+ Đồ sắt xuất hiện phổ biến
+ Sản xuất hàng hóa ra đời
+ Thương nghiệp ra đời và phát triển
+ Phân cơng lao động xã hội và phân hóa giàu nghèo
- Các nhà tư tưởng chính trị cơ bản :
1. Hê rô đốt ( 484-425 trước Công nguyên)
Hêrêđốt được coi là người cha của chính trị học. Ơng là người đầu tiên phân
biệt và so sánh các thể chế chính trị khác nhau. Theo ơng, có ba thể chế chính

trị: qn chủ, quý tộc và dân chủ.
- Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có cơng lập
quốc, sống vì nước, vì dân. Vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản biện,
phản kháng. Đặc quyền và lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở thành tội lỗi.
- Quý tộc: là thể chế được xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một nhóm
người ưu tú nhất của đất nước, vì lợi ích chung. Tuy nhiên, thể chế này dễ có sự
khác biệt, bất hịa, chia bè kéo phái dẫn đến tranh giành, tàn sát lẫn nhau.


- Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng con
đường bỏ phiếu để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn
chặn sự lạm dụng quyền lực, xây dựng nhà nước trên nguyên tắc cơ bản: tất cả
đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi dân chúng có trình độ thấp thì dễ bầu
ra những người lãnh đạo kém hiểu biết. Họ dễ bị kích động bởi các cá nhân cầm
quyền, từ đó xảy ra tình trạng vơ chính phủ.

2. Xênơphơn (khoảng 427 – 355 TCN)
- Ơng thuộc tầng lớp q tộc. Khi bàn về chính trị, ơng bàn về cách cai trị và
cách quản lý. Ơng thấy chính trị có một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao
nhất – nghệ thuật của bậc đế vương. Ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ
trở thành người trung thực, người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nơ
lệ.
- Tư tưởng chính trị của ơng thể hiện ở quan điểm về thủ lĩnh chính trị. Theo
ơng, thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, biết
cảm hóa người khác. Nhưng người thủ lĩnh cũng phải có những phẩm chất đặc
biệt như biết bảo vệ lợi ích chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần
chúng. Thiên tài của thủ lĩnh khơng phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên
nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn vể mặt thể chất, với ý chí sống và rèn luyện
theo phong cách thanh liêm.


3. Platôn (428 – 347 TCN)
- Platôn là nhà triết học thiên tài, đồng thời còn là nhà chính trị xuất sắc. Tư
tưởng chính trị của ơng được phản ánh trong tác phẩm: “Nước cộng hòa”, “Các
đạo luật và Nền chính trị”. Ơng là người đầu tiên đạt tới quan niệm giá trị phổ
biến, tầm vĩ mô của chính trị và hoạt động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị
đích thực.
- Khi bàn về khái niệm chính trị, Platơn cho rằng chính trị là sự thống trị của
trí tuệ tối cao, là nghệ thuật dẫn dắt xã hội con người. Chính trị tự phân chia
thành pháp lý, hành chính, tư pháp, ngoại giao… Chính trị là nghệ thuật cai trị.
Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính
trị. Chính trị phải là sự chuyên chế, tất cả các cá nhân phải phục tùng quyền uy.
Tự do chỉ dẫn đến hỗn loạn, gây tai họa cho đời sống công dân.


- Xã hội lý tưởng của Platôn là xã hội được trị vì bởi sự thơng thái. Ơng chia
xã hội thành ba hạng người:
+ Các nhà triết học thông thái đảm nhận vai trò lãnh đạo, cai trị, quản lý
nhà nước.
+ Tầng lớp chiến binh bảo vệ an ninh xã hội.
+ Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải, vật chất, đảm bảo cuộc
sống cho xã hội.
- Công lý là ở chỗ, mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, hoạt động
phù hợp với chức năng của mình. Theo Platơn, điều kiện và cơ sở để duy trì một
xã hội được cai trị bởi những người thông thái là phải thực hiện cộng đồng về
tài sản và hơn nhân. Ơng chủ trương xóa bỏ sở hữu cá nhân (vì nó là nguồn gốc
sinh ra cái ác) và tình u gia đình, thay vào đó là những tổ chức cộng đồng.
Như vậy, xóa cá nhân vì một xã hội lý tưởng, Platôn đã biến phương tiện thành
mục đích. Đó là khởi nguồn của “chủ nghĩa cộng sản khơng tưởng”. Ơng cho
rằng, khi lãnh đạo nhà nước, cần gạt sang một bên ý chí cá nhân, trước tiên phải
dựa vào tơn giáo và pháp luật. Sự chuyển hóa quyền lực trong xã hội là do có sự

đối kháng về quyền lợi và những vận động về chính trị.
=> Quan điểm chính trị của Platơn cịn nhiều mâu thuẫn: vừa địi hỏi xóa bỏ tư
hữu, vừa muốn duy trì chế độ đẳng cấp. Ơng đưa ra mơ hình xã hội lý tưởng và
công lý nhưng đồng thời lại bảo vệ lợi ích của tầng lớp q tộc, chủ nơ. Tuy
nhiên, ơng đã có những quan niệm cụ thể và hệ thống về chính trị và sự phát
triển của xã hội nói chung.

4. Arixtốt (384 – 322 TCN)
- Arixtốt là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai cơng trình
nghiên cứu và chính trị là “Chính trị” và “Hiến pháp Aten”, ông đã tổng kết và
phát triển tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về nguồn gốc và bản chất,
hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền.
- Theo Arixtốt, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử. Con
người là “động vật chính trị” Bản tính của con người là sống trong cộng đồng.
Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng trong một thể chế xã hội nhất định được
gọi là nhà nước. Nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước và


sự tiếp tục chính quyền trong gia đình. Nhà nước không phải là kết quả của sự
thỏa thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí của họ. Nó được phát triển từ
gia đình và làng xã. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính
quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành, quản lý xã hội về ba phương diện:
lập pháp, hành pháp và phân xử. Sứ mệnh của nhà nước là lãnh đạo tập thể các
công dân, quan tâm tới các quyền chung của công dân, làm cho mọi người sống
hạnh phúc. Điều đó lại chính là bản chất và chức năng của pháp luật. Cơng lý
chính là hành động một cách công bằng theo pháp luật. Thông qua pháp luật,
các quyền chung của công dân được thể hiện và củng cố.
- Ơng cho rằng, khơng một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù
hợp với tất cả mọi thời đại và các nước. Ơng phân loại chính phủ theo tiêu
chuẩn số lượng (người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền).

Kết hợp hai mặt đó, có thể sắp xếp chính phủ theo hai loại: chính phủ chân
chính là: qn chủ, q tộc, cộng hịa, chính phủ biến chất là: độc tài, quả đầu,
dân trị. Ông nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ, coi như hình thức tổ chức nhà
nước thần thánh và ưu việt nhất.

=> Tư tưởng chính trị của Arixtốt chứa đựng những giá trị tích cực sau:
- Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do đó,
con người là động vật cơng dân, động vật chính trị, sống có trách nhiệm với
cộng đồng.
- Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao cả hơn cái cá
nhân riêng biệt, con người sống ngày càng tốt hơn.
- Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm chất cao thượng cho cơng dân.
- Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của mọi
công dân.
- Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá
nhân thay thế pháp luật, chế độ bị trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham
quyền lực…
- Khơng thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt nát
chế ngự.


- Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì khơng có ai uy tín bằng lãnh tụ
chiến thắng. Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế
độ chính trị phải thay đổi.
Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về quyền
tự do cá nhân cho những người nô lệ và lao động… song với nhãn quan uyên
thâm và sâu sắc, tư tưởng chính trị của Arixtốt có ý nghĩa là sự tổng hợp và khái
quát hóa những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA PHƯƠNG TÂY CẬN ĐẠI
Điều kiện kinh tế xã hội phương Tây cận đại :

+ Chủ nghĩa tư bản ra đời với sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ
+ Kinh tế có sự phát triển mạnh chưa từng thấy
+ Những giá trị dân chủ, tự do, tư hữu được đề cao
Các tư tưởng chính trị tiêu biểu :
1. Tư tưởng chính trị J.lốc cơ
+ Tự do là giá trị chủ đạo của chính trị của pháp quyền tự nhiên. Đó là tư
tưởng coi trọng quyền tự nhiên trong lịch sử, là chuyển pháp quyền tự
nhiên sang tự do cá nhân.
+Trong tư tưởng của ơng cịn nêu ra nguồn gốc, quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước:
- Trong trạng thái tự nhiên thì con người có các quyền được sống, quyền tự
do,bình đẳng và tư hữu- đó là quyền tối cao và bất khả xâm phạm “ Mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng và cần phải được bình đẳng về quyền”
- Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của dân
- Nhà nước – xã hội chính trị xã hội công dân thực chất là một “ Khế ước xã
hội”.
- Bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân là tiêu chí căn bản xác định giới
hạn và phạm vi hoạt động của nhà nước.
- Phân quyền là tất yếu kỹ thuật của những thể chế chính trị tự dovà để chống
lại độc tài , phải thực hiện sự phân quyền, quyền lực phải phân theo ba lĩnh


vực : lập pháp, hành pháp, liên hợp.
- Ông phủ nhận chế độ quân chủ chuyên chế và ủng hộ chế độ quân chủ lập
hiến..
Học thuyết của ông trở thành sự luận giải cho các cuộc cách mạng tư sản lớn
với những tuyên ngôn nổi tiếng ( Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776,
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1789).
2. Tư tưởng của SL Mông tét xki ơ ( 1689-1775)
- Học thuyết về nguồn gốc nhà nước : Ông cho rằng nhà nước xuất hiện ở một

trình độ phát triển nhất định của xã hội lồi người. Nhà nước chỉ xuất hiện
một cách tất yếu khi mà trong xã hội xuất hiện tình trạng chiến tranh mà
không thể chấm dứt bằng bạo lực- nhà nước là sản phẩm của mâu thuẫn và
khơng thể điều hịa.
- Lý luận chỉnh thể : Ơng có tư tưởng chống lại nhà nước chuyên chế và có
thiện cảm với thể chế cộng hòa ( dân chủ và quý tộc)
+ Nền cộng hịa dân chủ theo ơng là quyền lực tối thượng trong tay nhân
dân.Đặc trưng của pháp luật trong xã hội là duy trì sự bình đẳng trong sáng.
+ Nền cộng hòa quý tộc : Quyền lực tối cao nằm trong tay một vài người.
+ Nền quân chủ : Quyền lực nằm trong tay một người, cai trị bằng những
luật lệ cố định đã thiết lập.
- Học thuyết về sự phân quyền : Thể chế chính trị tự do phải là thể chế chính
trị mà trong đó, quyền lực tối cao phân chia thành ba quyền : lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
+ Quyền lập pháp : là biểu hiện chung ý chí chung quốc gia.
+ Quyền hành pháp : là việc thực hiện những luật pháp đã được thiết lập.
+ Quyền tư pháp : là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột cá nhân.
Tuy là vẫn mang tư tưởng quý tộc thỏa hiệp( bảo vệ tư tưởng quân chủ lập
hiến) nhưng nhìn chung, tư tưởng phân quyền của ơng có sự ảnh hưởng sâu
rộng đến lịch sử chính trị nhân loại.
4.Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị?


Trả lời :
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các
quốc gia trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự
tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước và hoạt động thực tiễn của các
giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực thi những đường
lối, những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời
là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng con người.

Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ: Bản thân Hồ Chí Minh là một
“nhà chính trị chuyên nghiệp”. Lĩnh vực chính trị Việt Nam gắn liền với cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để tâm nhiều hơn cả. Chính trị
là một lĩnh vực mà Hồ Chí Minh có nhiều sáng tạo độc đáo, nhất là sự sáng tạo
ấy có ảnh hưởng tích cực tới cách mạng thế giới, được quốc tế thừa nhận.

Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Trong tồn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao
trùm là tư tưởng “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng đó được
Người qn triệt và thể hiện trong tồn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đây là hạt nhân cốt lõi nhất trong tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư tưởng trọng tâm xuyên suốt toàn
bộ hệ thống.
Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung:


- Dân tộc đó phải thốt khỏi nơ lệ (dưới mọi hình thức) bằng con đường cách
mạng do chính dân tộc đó tiến hành.
- Dân tộc đó phải có chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự quyết
định sự phát triển của dân tộc mình.

- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự chứ không phải giả hiệu, phải
thực hiện các giá trị như tự do, dân chủ, cơng bằng, bình đẳng đối với nhân dân
chứ không phải chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ.
- Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh về mọi mặt: kinh tế, văn
hóa, xã hội.
- Phải tự giành lấy con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự trọng. Người
cho rằng, một dân tộc khơng có khả năng ý thức độc lập, tự lực tự cường thì dân
tộc đó khơng xứng đáng được hưởng độc lập.
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc phải
thực sự gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó độc lập là tiền đề, là điều kiện để
đi đến chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn nhất, thực
chất nhất cho độc lập dân tộc. Điều này bắt nguồn từ bản chất của sự vận động
lịch sử mà sau những tìm tịi cơng phu cùng sự nếm trải thân phận của một
người dân mất nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được. Người chỉ rõ rằng, giai
cấp phong kiến và giai cấp tư sản cũng giành độc lập, nhưng sau đó nó quay lại
thống trị dân tộc, áp bức nhân dân. Chỉ có giai cấp công nhân sau khi giành độc
lập dân tộc thì khơng chỉ giải phóng mình mà cịn giải phóng tồn xã hội. Do
đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang tính
cách mạng phổ biến của cách mạng thể giới, mang tính quy luật của thời đại.
Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được
dân tộc, cả hai cuộc giải phong này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và cách mạng thế giới”. Đó là con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân
tộc ta và các dân tộc bị phụ thuộc. Tư tưởng cách mạng đó của Người đã đặt nền
tảng vững chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt
Nam.

2. Tư tưởng về đại đoàn kết:
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh,
trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan



trọng thường xuyên góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta qua mọi thời kỳ.
Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở đại đồn kết tồn dân, ở sự đồng lịng
của toàn xã hội. Đoàn kết trên lập trường của giai cấp cơng nhân, được thể hiện
trên mọi phương diện: đồn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Người chỉ rõ:
“Quan sơn mn dặm một nhà
Vì trong bốn biển đều là an hem”
Và khẳng định:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Đồn kết, theo Hồ Chí Minh, phải dựa trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa,
đồn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ cách mạng, cách mạng muốn
thắng lợi thì phải đồn kết, đồn kết lấy liên minh cơng – nơng – trí thức làm
nền tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm quy tụ để đảm bảo hài hịa
giữa các lợi ích.
Chiến lược đồn kết của Hồ Chí Minh vừa là sự đúc kết và phát huy truyền
thống đại đoàn kết của dân tộc ta qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước và
phát triển đất nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác – Lênin là
“Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đồn kết lại”. Trong sự
nghiệp đổi mới hơm nay, Đảng và nhân dân ta hơn bao giờ hết, đã và đang
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, mở rộng đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam là
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đầu vì một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” vì hịa bình,
độc lập, phát triển trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng
có lợi, thơng qua thương lượng để tìm giải pháp phù hợp giải quyết các vấn đề
cịn tồn tại và tranh chấp, bảo đảm hịa bình, ổn định, an ninh, hợp tác, và phát

triển.


3. Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Hồ Chí Minh rất chú trọng tới xây dựng Nhà nước kiểu mới – nhà nước dân
chủ cộng hòa. Điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là tính chất nhà nước.
Nhà nước đó có phải là nhà nước của dân hay khơng? Chế độ dân chủ có phù
hợp với chế độ nhà nước hay không?
Người khẳng định rằng: Cách mạng Việt Nam muốn thành cơng thì khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản, con đường của Cách mạng
Tháng Mười Nga. Người quyết định lựa chọn kiểu nhà nước theo chủ nghĩa
Mác – Lênin nhưng không “bê nguyên xi” kiểu nhà nước Xô Viết vào hoàn
cảnh nước ta. Người chủ trương lập nhà nước cộng hòa dân chủ (tức là nhà
nước dân chủ nhân dân).
Dân chủ có nghĩa là “dân làm chủ”. Hồ Chí Minh quan niệm, giá trị thực chất
của dân chủ là phải có cơm ăn, áo mặc, học hành… Người chỉ rõ vai trò động
lực của dân chủ, xem dân chủ là chìa khóa của tiến bộ xã hội. Người chủ trương
thực hiện dân chủ rộng rãi trong nhân dân, giáo dục nhân dân ý thức chấp hành
pháp luật, dân chủ gắn liền với nghĩa vụ của công dân, dân chủ gắn với pháp
luật, gắn với tập trung. Hồ Chí Minh phê phán bệnh độc đốn, chun quyền,
quan liêu, vơ chính phủ.
Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều
vì dân, bao nhiều quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là cơng việc của dân, chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, Đoàn thể từ Trung ương
đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân.
Từ quan niệm này, Hồ Chí Minh cho rằng: chế độ dân chủ phù hợp với nhà
nước ta. Đó là một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Tính
chất nhân dân và bản chất giai cấp của nhà nước ta được Hồ Chí Minh xác định

rõ ràng và đích thân Người cùng tồn Đảng, tồn dân, ra sức xây dựng. Người
chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hịa, tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam…” và “Do tổng tuyển cử mà toàn dân
bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra chính phủ. Chính phủ đó là thật, là chính
phủ của tồn dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân cũng có
nghĩa là dân có quyền kiểm sốt nhà nước. Người viết: “Chính phủ ta là chính
phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính
phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trịn


nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”. Như vậy,
dân được đặt ở vị trí tối thượng và quyền có được bảo đảm trong thực tế khơng
chỉ ở trên lời nói.
Nhà nước của dân, theo quan niệm của Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở chỗ dân
khơng chỉ có quyền giám sát, kiểm tra mà cịn có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân”. Về bản chất giai cấp của nhà nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ
rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đồn kết tồn dân mà
nịng cốt là liên minh công nhân – nông dân – trí thức, do giai cấp cơng nhân
lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quản lý xã
hội bằng hiến pháp và pháp luật, thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng phân
công, phân cấp rõ ràng.
Cùng những quan điểm trên, Hồ Chí Minh cịn nêu lên quan điểm phục vụ
của cán bộ nhân viên nhà nước là: Việc gì có lợi cho dân, thì làm cho kỳ được.
Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh. Chú ý thật sự đến quyền lợi của
nhân dân thì trước hết phải quan tâm đến quyền lợi thiết thực hàng ngày của
dân, “làm cho dân có ăn, làm dân cho có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho
dân có học hành”, chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ bộ máy

nhà nước thật trong sạch. Người thường xuyên nhắc nhở rằng, Nhà nước ta
không phải bộ máy áp bức dân, cán bộ viên chức nhà nước không phải là những
người “làm quan cách mạng” bóc lột nhân dân, kéo bè cánh để thu vén lợi ích
cá nhân. Người căn dặn, cán bộ phải tơn trọng lợi ích chính đáng của nhân dân,
thực hành “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư”, nếu phạm khuyết điểm thì
cả quyết cơng khai sửa lỗi của mình. Người nói: “Chúng ta khơng sợ sai lầm,
nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm
những lỗi lầm trên này thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức tiến bộ thêm. Ai đã
phạm những lầm lỗi này, thì phải hết sức sửa chữa, nếu không tự sửa chữa thì
Chính phủ sẽ khơng khoan dung.” Người nhấn mạnh: “Cơ quan của chính phủ
tư tồn quốc cho đến các làng xã đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã trở thành
nguyên tắc xuyên suốt, thuộc về bản chất của nhà nước ta từ năm 1945 đến này
và mãi về sau này, chừng nào xã hội còn giai cấp và nhà nước.


4. Lý luận về Đảng cầm quyền:
Phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng chính trị nói
chung, đảng của giai cấp cơng nhân nói riêng, Hồ Chí Minh ln coi xây dựng
Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là
nhân tố quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì
vận động và tổ chức dân chung, ngồi thì liên lạc với dân tộc vị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành cơng cũng như có
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa
làm nịng cốt, trong đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ
nghĩa cũng như người khơng có chí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”
Theo cách thể hiện của Hồ Chí Minh, thì “đảng cách mệnh” có nghĩa là

“đảng của giai cấp vô sản”, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây dựng trên
cơ sở những nguyên tắc về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi
hoạt động của Đảng. Như vậy, bản chất giai cấp của đảng đã được Hồ Chí Minh
khẳng định. Khơng chỉ như vậy, theo quan điểm của Người thì cách mạng ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta thì “quyền lợi của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một”. Chính vì Đảng Lao động
Việt Nam là đảng của giai cấp công nân và nhân dân lao động, cho nên nó phải
là đảng của dân tộc Việt Nam.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng Cộng sản ở Việt
Nam vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, vừa phù
hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi có truyền
thống đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp cơng nhân
cịn ít ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ trong phong trào yêu nước ngay từ
đầu. Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin
với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, quan điểm trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử, đối với việc xây dựng
củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức, đối với việc tăng cường lãnh đạo của giai cấp cơng nhân mà
đội tiên phong đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với việc giải quyết các vấn


đề mối quan hệ giữa Đảng – giai cấp – dân tộc cả trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

5. Phương pháp cách cách mạng:
Cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định
nghĩa về phương pháp cách mạng, song Người là bậc thầy về phương pháp cách
mạng trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, trong tồn bộ tiến trình cách

mạng Việt Nam. Qua các tác phẩm của Người, những tư tưởng về cách lãnh
đạo, cách tổ chức, cách làm cách học. cách vận động nhân dân, cách thuyết
phục kẻ thù, cũng như cách tiến cách lùi trong đánh giặc, cách xây dựng đất
nước cũng như cách bảo vệ đất nước… Tất cả đã toát lên “linh hồn và nội dung”
của một nội dung hồn chỉnh phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh vừa là
cách mạng vừa là nghệ thuật mang tính thực tiễn sâu sắc. Có những phương
pháp thuộc từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, có những phương pháp
chung được vận dụng cho tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Phương pháp cách mạng Việt Nam là phương pháp cách mạng vô sản được
vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Các biện pháp, bước đi thích hợp với hệ thống các nguyên tắc Hồ Chí
Minh nhằm định hướng, điều chỉnh hành động. Chủ thể hành động là các lực
lượng cách mạng, trong đó, giai cấp cơng nhân và đội tiên phong của nó là
Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, quần chúng nhân dân là lực lượng tiến
hành cách mạng. Mục tiêu cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách mạng chung, cơ bản
của Hồ Chí Minh như sau:
- Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt Nam làm
mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân,
kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Dĩ bất biến ứng vạn biến
- Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế và lực.
- Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.


- Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo.

=>> Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “độc lập dân tộc

gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của người là
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điểu kiện Việt Nam, một nước
thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của toàn
Đảng, toàn dân ta. Nó đã và đang biến thành lực lượng vật chất hùng hậu và là
kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Trải qua bao khúc quanh của lịch sử và
những biến cố khắc nghiệt của thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng chính trị của người nói riêng vẫn có trong hành trang của dân tộc ta đi tới
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với ý
nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của
chúng ta.
Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng việc học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh là học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của Hồ Chí
Minh, là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí Minh để
xử trí trước mọi việc.

5. Quyền lực chính trị: Khái niệm, cấu trúc. Sự chuyển hố quyền lực chính trị
thành quyền lực nhà nước.
1. Quyền lực chính trị là gì?
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai
cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị chính trị, là năng lực áp đặt và
thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình chủ yếu
thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.

2.Cấu trúc quyền lực chính trị :
Quyền lực chính trị bao gồm : chủ thể và đối tượng; mục tiêu và nội
dung; công cụ và phương tiện thực hiện.


- Chủ thể quyền lực chính trị : quyền lực chính trị chia ra thành quyền lực

chính trị của tổ chức và quyền lực chính trị của cá nhân.
- Đối tượng của quyền lực chính trị : là nhóm xã hội, giai cấp hay tập đoàn
người mà sự phục tùng của nó đối với chủ thể là cách mà quyền lực chính trị
được thể hiện trong việc thực thi.
- Mục tiêu của quyền lực chính trị : là nhằm đạt tới sự áp đặt ý chí của chủ thể
đối với đối tượng và thơng qua đó là lợi ích của chủ thể được thực hiện.
- Nội dung của việc thực thi quyền lực chính trị là việc sử dụng mọi sức mạnh
mà chủ thể có được đẻ đạt tới mục tiêu chính trị.
- Cơng cụ của quyền lực chính trị : là các tổ chức chính trị và các tổ chức khác
nhưng có nội dung chính trị, được chủ thể thiết lập và dựa vào hoạt động đẻ
thực thi quyền lực chính trị ở những mức độ nhất định.
- Phương thức thực hiện quyền lực chính trị : là hình thức tổ chức công cụ và
cách thức chủ thể sử dụng cho hoạt động của công cụ theo mục tiêu và nội
dung của quyền lực chính trị.

3. Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước.
Sơ đồ chuyển hóa :


Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ bản của
quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
Trong xã hội có giai cấp và còn đối kháng giai cấp, về cơ bản tồn tại hai
quyền lực chính trị:
- Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị (quyền lực nhà nước)
- Quyền lực chính 2w2trị của các giai cấp và các nhóm xã hội khơng ở địa vị
thống trị. Nhóm quyền lực thứ hai này có thể chia thành hai phân nhóm nhỏ
hơn:
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp và các tầng lớp xã hội tuy
có lợi ích khác biệt (đối lập) nhưng không đối kháng với lợi ích cơ bản của giai

cấp hay tầng lớp cầm quyền. Xét về bản chất thì nhóm quyền lực này vẫn nằm
trong cùng một phạm trù với quyền lực chính trị của nhóm cầm quyền, và vì
thế, khơng có sự khác biệt về chất với quyền lực chính trị của giai cấp thống trị.
Và do vậy, nó vẫn tồn tại dường như trong sự “đối lập một cách dung hòa” với
quyền lực nhà nước hiện tồn. Cái gọi là nền chính trị “đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập” ở các nước tư bản hiện đại là nền chính trị với các lực lượng chính
trị và các quyền lực chính trị khác nhau nhưng lại thuộc cùng một phạm trù này


mà thơi, chứ khơng hề có nền “đa ngun chính trị, đa đảng chính trị đối
kháng”.
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay các tầng lớp xã hội có
lợi ích đối kháng với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Về bản chất, nhóm này đối
kháng với nhà nước hiện tồn, và vì vậy, đó là đối tượng phải bị trấn áp, phải
được xóa bỏ trong nhà nước ấy. Như vậy, phân nhóm quyền lực chính trị này sẽ
có một trong hai kết cục sau đây trong sự vận động của nó:
▪ Hoặc là nó sẽ bị xóa bỏ hồn tồn và triệt để bởi quyền lực nhà nước
hiện tồn.
▪ Hoặc là nó sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của nhà nước
hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền, xóa bỏ quyền lực nhà nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp ấy,
thiết lập bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo cách mới
phù hợp với lợi ích giai cấp của nó. Khi đó, người ta nói quyền lực chính trị đã
chuyển hóa thành quyền lực nhà nước.
- Ngồi hai hình thức vận động cổ điển này, cịn có hình thức đảo chính trung
tính nhằm giành giật và chuyển giao quyền điều khiển nhà nước giữa các nhóm
xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp cầm quyền vẫn thường thấy ở nửa cuối
thế kỷ XIX ở Liên Xô và Đông Âu. Đây cũng là một hình thức và một bài học
chính trị về q trình chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước
bất lợi cho giai cấp công nhân mà các thể chế chống chủ nghĩa xã hội đang cố

gắng thực hiện trong chiến lược “diễn biến hịa bình” phản cách mạng của
chúng hiện nay.

6. Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Liên hệ với hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị ở Việt Nam
Trả lời
1.Khái niệm về hệ thống tổ chức quyền lực chính trị :


- Các quan niệm khác nhau :
+ Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị
thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội.
+ Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm
nhà nước, các đảng phái chính trị, các đồn thể nhân dân và các tổ chức chính
trị- xã hội hợp pháp được liện kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt của đời
sống xã hội để củng cố duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp
với lợi ích của chủ thể cầm quyền.
+ Hệ thống chính trị gồm : Nhà nước, Đảng phái, các tổ chức chính trị xã
hội( nhóm lợi ích) và mối quan hệ tác động qua lai lẫn nhau nhằm bảo vệ duy trì
củng cố lợi ích của chủ thể cầm quyền.
Quan niệm của Việt Nam: Hệ thống chính trị là 1 chính thể bao gồm Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể.
Hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,Nhân dân làm chủ.
Mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2.Các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị quyền lực.
- Đảng chính trị : Đảng là bộ phận tích cực của giai cấp hay tầng lớp nào đó của
giai cấp.
Đảng cịn là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp.
- Thể chế nhà nước trong cơ cấu quyền lực chính trị : Là những nguyên tắc,
chuẩn mực, quy phạm do các cơ quan nhà nước ban hành, quy định về những

vấn đề chung nhất về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Các tổ chức chính trị - xã hội : Tổ chức mang tính quần chúng, hình thành
trên cơ sở tự nguyện, tự chủ và nhằm mục tiêu tác động tới các q trình
chính trị- xã hội để thỏa mãn nhu cầu chính trị- xã hội của các thành viên.

7. Thủ lĩnh chính trị: Khái niệm, phẩm chất và vai trò. Liên hệ thực tiễn Việt
Nam.


Trả lời:

1. Thủ lĩnh chính trị là gì?
Thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu một tổ chức chính trị. Đó là nhân vật
xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong những điều kiện lịch
sử nhất định, có sự giác ngộ lợi ích, mục tiêu, ý tưởng giai cấp, có khả năng
nắm bát và sử dụng quy luật, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải
quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.

2. Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị:
Là thủ lĩnh chính trị thì dù ở bất cứ chế độ nào cũng phải có những phẩm chất
nhất định: có trí tuệ, có năng lực đạt tới mục tiêu chính trị đề ra, có khả năng cai
trị… Tuy nhiên, ở mỗi chế độ chính trị, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử,
người thủ lĩnh chính trị cũng có những phẩm chất riêng. Phẩm chất của người
thủ lĩnh chính trị trong xã hội chiếm hữu nơ lệ khác với thủ lĩnh chính trị trong
chế độ phong kiến và cũng khơng giống với thủ lĩnh chính trị của giai cấp tư
sản. Và tất nhiên, thủ lĩnh chính trị của giai cấp vô sản khác về chất so với tất cả
các loại thủ lĩnh trong xã hội dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Bởi vậy, khi xem
xét về phẩm chất của người thủ lĩnh chính trị cần có quan điểm khách quan,
toàn diện, dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đặc biệt phải có quan điểm giai
cấp rõ ràng vì chính trị là đấu tranh cho lợi ích giai cấp, người thủ lĩnh chính trị

ln là người thể hiện tập trung, tiêu biểu cho lợi ích giai cấp.
Có thể khái quát về phẩm chất của người lãnh đạo – thủ lĩnh chính trị thành 5
nhóm sau:
- Về trình độ hiểu biết: Nhất thiết đó phải là người thơng minh, hiểu biết sâu
rộng các lĩnh vực, có tư duy khoa học, nắm vững được quy luật phát triển theo
hướng vận động của q trình chính trị, có khả năng dự đốn được tình hình,
làm chủ được khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lý.
- Về phẩm chất chính trị: là người giác ngộ lợi ích giai cấp, đại diện tiêu biểu
cho lợi ích giai cấp, trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn, dũng cảm đấu
tranh bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn
biến phức tạp của lịch sử.


×