1
Biên bản đánh giá
2
ST
T
Họ và tên
Chức trách
Cơng việc
81
Phạm Văn Sơn
Nhóm trưởng
Phần mở đầu
+ Cơ sở thực
tiễn + Tổng
hợp và chỉnh
sửa Word
82
Nguyễn Thị Thắm
Thành viên
I: 2.1 + I: 2.2
83
Nguyễn Ngọc Thành
Thành viên
I: 2.3 + II:
1.1
84
Trịnh Phúc Tiến
Thành
Thành viên
Thuyết Trình
85
Nguyễn Thị Thảo
Thành viên
II: 2.3 + Phần
tổng kết
86
Phạm Phương Thảo
Thành viên
II: 1.4 + II:
1.5
87
Phạm Thị Thu
Thành viên
Thuyết trình
88
Trần Thị Thu
Thành viên
I: 2.3 + II:
1.1
89
Nguyễn Thị Thùy
Thành viên
II: 2.1 + II:
2.2
90
Trần Thiên Thủy
Thành viên
Powerpoint
Tự
đánh
giá
(0 –
10)
Nhóm
đánh
giá
(0 –
10)
Kết
luận
MỤC LỤC
3
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta, con người Việt Nam đang được sống dưới mái nhà bình yên, được
độc lập tự do, từ đâu mà chúng ta có được điều đó? Đó chính là nhờ cơng lao to lớn
của chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta, Người đã vạch ra
con đường cứu nước đúng đắn, Người không chỉ khai thơng bế tắc trong đường lối giải
phóng dân tộc mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi
các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta,chính đường lối cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người đã tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát
huy tác dụng, đưa tới những thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước ta. Cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một di sản
tinh thần vơ giá, đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay vẫn luôn là ánh sáng soi sáng con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam , là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân
ta. Để thấy rõ hơn, hiểu sâu sắc hơn, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh thì ta nên có
sự hiểu biết rõ về cơ sở hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
4
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Cơ sở thực tiễn
I.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trước khi Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến, nơng
nghiệp lạc hậu, trì trệ. Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt
Nam. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta liên tục nổ ra, rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: ở miền
Nam có các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực... ở miền Trung có
các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai, Phan Đình Phùng... ở miền Bắc có
các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng,
Nguyễn Quang Bích, Hồng Hoa Thám... Các cuộc khởi nghĩa, trong đó có những
cuộc dưới ngọn cờ “Cần Vương” tức giúp vua cứu nước, tuy tất cả đều rất anh dũng
nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ nhân dân ta rất yêu nước, song giai
cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn, bất lực trước nhiệm vụ bảo vệ độc
lập dân tộc.
Bước sang đầu thế kỷ XX, sau khi đã hồn thành căn bản việc bình định Việt
Nam về mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một
cách mạnh mẽ và từng bước biến nước ta từ một nước phong kiến thành nước thuộc
địa và phong kiến dẫn đến có sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân số là
nông dân; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các điền chủ
người Pháp và nước ngoài. Xã hội Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới, đó là giai
cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, khơng chỉ có
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là nơng dân với địa chủ phong kiến mà cịn
xuất hiện thêm mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mẫu
thuẫn toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Cùng với những biến đổi trên, trước ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của
cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy Tân Nhật Bản, ở Việt Nam
xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt
của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách như: phong trào Đông Du do Phan Bội
5
Châu khởi xướng, phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động, phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác
phát động... Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là giai
cấp tư sản Việt Nam còn non yếu, nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh
đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn.
Tinh thần u nước vẫn sục sơi trong lịng nhân dân, song cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Xuất hiện câu hỏi từ thực tiễn đặt ra là: Cứu nước bằng
con đường nào để có thể đi đến thắng lợi?
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam
xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cơng nhân Việt Nam chịu ba
tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến; chính vì thế họ sớm vùng dậy đấu
tranh chống lại giới chủ từ hình thức đấu tranh thơ sơ như đốt lán trại, bỏ trốn tập thể
họ đã nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công. Phong trào công nhân và các phong
trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác –
Lênin xâm nhập, truyền bá vào đất nước ta. Chính Hồ Chí Minh là một người đã dày
công truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu
bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Sau đó, chính
thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghãi xã hội, vừa kháng chiến chống
Mỹ cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả
các phương diện.
I.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc
Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha,...đã chi phối
tồn bộ tình hình thế giới; phần lướn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh
đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc vào các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm vốn có trong lịng chủ nghĩa tư bản là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở các nước tư sản; xuất hiện thêm mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau do sự phát triển không đồng đều, do tranh giành
6
thuộc địa, thị trường; mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc nảy sinh
và ngày càng gay gắt.
Chiến tranh đế quốc xảy ra (1914 – 1918) làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu tạo
điều kiện cho cách mạng tháng Mười Nga. Cách mạng tháng Mười Nga thành công là
thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lênin ở một nước lớn rộng một phần sáu thế
giới. Cách mạng tháng Mười Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong
kiến, lập nên một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử
loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mát-xcơ-va trở thành Bộ tham mưu,
lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng
sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm cách mạng tháng
Mười Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của
các Đảng Cộng sản ở nhiều nước.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô viết, Quốc tế
Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và
con đường cứu nước.
2. Cơ sở lý luận
2.1.
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có tình, có nghĩa,
nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại
vượt qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển; là đạo lý làm
người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực
7
chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách
mạng.
Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh
hết sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ, nhân ái, khoan
dung trong cộng đồng; tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương
người của dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh con người là vốn quý nhất,
là nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử,
trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của
dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng.
2.2.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Văn hố phương Đơng
Về Nho giáo
Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà Nho u nước, từ rất sớm đã chịu ảnh
hưởng của Nho học từ người cha và nhiều nhà Nho yêu nước ở quê hương. Người tiếp
thu những mặt tích cực của Nho giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành
đạo giúp đời, là khát vọng về một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa đồng, là triết lý
nhân sinh tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và Người đã phê phán
loại bỏ những yếu tố tiêu cực và thủ cựu của nó.Tuy vậy, trong Nho giáo cịn có những
yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay,
khinh phụ nữ, nói chung là khinh thường thực nghiệp, doanh lợi... Những luận điểm
đó hồn tồn xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh: tơn trọng lao động - cả lao động trí óc
và lao động chân tay; tơn trọng phụ nữ, chủ trương nam nữ bình quyền...Chính vì vậy,
một mặt Hồ Chí Minh khẳng định, “những người An Nam chúng ta hãy tự hồn thiện
mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử”; mặt khác Người
chỉ rõ, “trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng, song những điều
hay trong đó thì chúng ta nên học”.
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản
lí xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý
tưởng trong đó cơng bằng, bác ái, nhân nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có
thể đi đến một thế giới đại đồng với hịa bình, khơng có chiến tranh. Đặc biệt, Hồ Chí
Minh chú ý kể thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong công tác xây dựng Đảng về đạo
đức.
8
Về Phật giáo
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người,
khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của con người
và chân lý; khuyên con người sống hịa đồng, gắn bó với đất nước của Đạo Phật.
Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của Đạo Phật được Hồ Chí Minh vận dụng
sáng tạo để đồn kết đồng bào theo Đạo Phật. Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa, phát
triển những tư tưởng nhân bản, đạo đức tích cực trong Phật giáo vào việc xây dựng xã
hội mới, con người mới Việt Nam hiện nay.
Về Lão giáo
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử khuyên con người
nên sống gắn bó với thiên nhiên, hịa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ
môi trường sống. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa tư tưởng thốt mọi ràng buộc của vòng
danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lịng tham muốn về vật
chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa
là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Về chủ nghĩa Tam Dân
Hồ Chí Minh đã tìm thấy, tiếp thu những điều thích hợp với điều kiện của
nước ta trong chủ nghĩa Tam Dân của Tơn Trung Sơn, đó là, dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Tam Dân
của Tôn Trung Sơn về bản chất thuộc hệ tư tưởng tư sản, nên có nhiều hạn chế. Vì vậy,
khi vận dụng tư tưởng của Tôn Trung Sơn vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người
đã phát triển khái niệm “ độc lập - tự do - hạnh phúc” lên một trình độ mới, mang tính
giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để.
Ngồi ra, để hình thành, phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh cịn
nghiên cứu và tiếp thu những tinh hoa trong các học thuyết, quan điểm, tư tưởng của
các nhà tư tưởng phương Đông khác như Lão tử, Mặc tử, Tơn tử...
Văn hố phương Tây
Cùng với tư tưởng triết học phương Đơng, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu nền văn hóa
dân chủ và cách mạng của phương Tây. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do,
bình đẳng trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, năm 1776 và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Đại Cách mạng Pháp, năm 1791.
Về tư tưởng và văn hóa Pháp
Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa nhân văn, những tư tưởng tiến bộ, mới mẻ
trong các tác phẩm của thời kỳ văn hóa Phục hưng, của thế kỷ ánh sáng, của các nhà
văn, nhà tư tưởng nổi tiếng như Voonte, Điđơrô, Môngtétxkiơ, Rútxô; trong bản Tuyên
9
ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của nước Pháp. Đặc biệt, tư tưởng Tự do – Bình
đẳng – Bác ái trong văn hóa Pháp có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về tư tưởng và văn hóa Mỹ
Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách sáng tạo những tư tưởng về “quyền bình
đẳng”, “quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của con người, về quyền
của nhân dân kiểm sốt chính phủ và về ý chí đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân
dân được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ. Hồ Chí Minh cịn
nghiên cứu tư tưởng, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của một số nhà tư tưởng ở Mỹ
như Oasinhtơn, Giépphecsơn, Lyncôn.
Tuy nhiên, trong khi khẳng định những giá trị chân chính, những nhân tố tiến
bộ của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản phương Tây, Hồ Chí Minh cũng đồng thời
đánh giá đúng những hạn chế của nó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mệnh Pháp cũng như
cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa...”. Người kết luận: “ Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”…
2.3.
Chủ nghĩa Mác-Lênin
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa MácLênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, khiến người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng thời.
Ngay từ cuối những năm 20 của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Tư tưởng Hồ Chi Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ sở từ lý luận từ chủ
nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là học thuyết về Đảng kiểu mới của V.I.
Lênin.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt ra như
một vấn đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của C. Mác về cách mạng trong
điều kiện các nước thuộc địa. Luận điểm về Đảng kiểu mới của Lênin khơng chỉ nhằm
xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp vơ sản rồi giải phóng quần chúng
lao động, giải phóng con người mà cịn nhằm trước hết giải phóng dân tộc rồi giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Lênin nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản ở
các nước thuộc địa trong việc giải quyết quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân
tộc: giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ trên lập trường cách mạng triệt để của
giai cấp vô sản.
10
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ tìm thấy ở đây con
đường cứu nước đúng đắn, mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có một đảng cách
mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ
sản. Cuối tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc tế III và là người dân thuộc địa duy
nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự phát triển logic tất yếu của tư
duy Nguyễn Ái Quốc từ khi ra đi tìm đường cứu nước và đến với Cách mạng Tháng
Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tiếp thu Mác-Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ
lớn như Lênin mong muốn: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm
giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại tạo
ra”. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chúng tơi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn
mạnh rằng-mà không phải chỉ nhân dịp kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin-chúng tơi
giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí khơng gì thay thế được là
chủ nghĩa Mác-Lênin”.
II.
Tiền đề đóng vai trị quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh
1. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.
Thời kì trước 5/6/1911
Trong thời kì này, Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương,
gia đình và dân tộc trong con đường cứu nước.
Hồ Chi Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành)
sinh ngày 19-5-1890. trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người, là một nhà nho cấp tiến, có lịng u
nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian
khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các
cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá trình
hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.
Sau này, những kiến thức học được từ người cha, những tư tưởng mới của thời
đại đã được Hồ Chí Minh nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của
mình. Cuộc sống của người-mẹ - bà Hoàng Thị Loan - cũng ảnh hưởng đến tư tưởng,
tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với
mọi người. Còn phải kể tới mối quan hệ và tác động qua lại giữa ba chị em Nguyễn
Thị Thanh (Nguyễn Thị Bạch Liên), Nguyễn Sinh Khiêm (Nguyễn Tất Đạt) và
Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) về lòng yêu nước, thương nòi.
11
Nghệ Tĩnh là vùng đất vừa giàu truyền thống văn hóa, vừa giàu truyền thống
lao động, đấu tranh chống ngoại xâm. Nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh hùng nổi
tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh
tụ yêu nước thời cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu.... những liệt sĩ trong
thời kỳ chống thực dân Pháp ngay trên mảnh đất Kim Liên như Vương Thúc Mậu,
Nguyễn Sinh Quyến...
Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mất chứng kiến cuộc sống nghèo
khổ, bị áp bức, bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình. Khi vào Huế, Anh lại tận mắt
nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam triều.
Thêm vào đó là những bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời.
Tất cả đã thơi thúc Anh ra đi tìm một con đường mới đề cứu dân, cứu nước. Quê
hương, gia đình, truyền thống dân tộc... đã chuẩn bị cho Anh nhiều điều. Quê hương,
đất nước cũng đặt niềm tin lớn ở Anh trên bước đường tìm đến trào lưu mới của thời
đại. Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của
gia đình, quê hương, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận
ra hạn chế của những người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con
đường của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám... Người từ chối Đơng
Du khơng phải vì đã hiểu bản chất của đế quốc Nhật, mà chỉ cảm thấy rằng: khơng thể
dựa vào nước ngồi để giải phóng Tổ quốc.
Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn Người đi đúng
hướng là: nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở
nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình.
Cùng với việc phê phán hành động cầu viện Nhật Bản chẳng khác gì “đưa hổ
cửa trước, rước beo cửa sau”, tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng qua chỉ là việc
“cầu xin Pháp rủ lòng thương”, Nguyễn Ái Quốc đã tự định ra cho mình một hướng đi
mới: phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ tự do. Bình đẳng, Bác ái của nước
Cộng hịa Pháp, phải đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình. Vậy nên. Ngày 5/6/1911 Hồ Chí
Minh đã ra đi tìm đường cứu nước.
1.2. Thời kì giữa năm 1911 đến cuối năm 1920
Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người cịn đến
nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như
Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc hành trình vạn
12
dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau của nhân loại là các nước
đế quốc “chính quốc”.
Giữa chiến tranh TG thứ nhất năm 1917 Người từ Anh sang Pháp
Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ
Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước họp hội nghị với bản chất là chia lại
thuộc địa với lớn lẽ “tự do”, “công bằng”, “dân chủ”. Tại thời điểm đó, thay mặt người
VN yêu nước tại Pháp thì Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghi “Yêu sách của nhân
dân An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân
tộc Việt Nam.Qua đó, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò
bịp bợm lớn”; các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản
thân mình.
Sau những gì rút ra được từ 10 năm tìm đường cứu nước nên khi đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (71920), Người đã tìm ra lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình.
Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”
Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải phóng
dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp vơ sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến
với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919).
Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ
Chí Minh trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư
tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính
đã gặp chủ nghĩa quốc tế vơ sản chân chính.
1.3. Thời kì cuối năm 1920 đến đầu năm 1930
Sau nhiều năm tháng bôn ba tại nhiều đất nước từ đất nước thuộc địa cho đến
các đế quốc, Hồ Chí Minh đã mở rộng kthuc cũng như các mối QH xã hội. Thông hiểu
nhiều loại ngôn ngữ tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây, nắm được cốt lõi của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Qua thực tiễn cùng với KN đúc kết được, dần dần trong tư duy của Người hình
thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai
cấp vơ sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại.
13
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của
Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nơng dân…, Hồ Chí Minh đã
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước chuẩn bị cho việc
thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên báo Người cùng khổ
(1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng sản, Đời sống thợ thuyền,
Thơng tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách
mệnh (1927), … của Hồ Chí Minh là những cơng cụ quan trọng trong việc giáo dục
những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành
yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản.
Giữa những năm 20 của thế kỉ XX, nhờ việc truyền bá mà cách mạng Việt Nam
đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư
sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam
cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương
Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đơng Dương Cộng sản
liên đồn (l-1930).
Trước tình hình ở Đơng Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-111929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông
Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị
hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930. Hội nghị hợp nhất đã
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn
tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
Nội dung văn kiện :
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam là
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản
làm cho công nghệ bản xứ không thế mở mang được” … “nông nghệ một ngày một tập
trung... nông dân thất nghiệp nhiều”. Đánh giá về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp
địa chủ, Chánh cương vắn tắt có sự phân biệt rõ ràng: “Tư bản bản xứ khơng có thể
lực gì ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế
lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết sức khách
14
quan, chân thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ thực
tế đó, Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản. Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của
xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách
mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng.
1.4. Thời kì đầu năm 1930 đến đầu năm 1941
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt
Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề thuộc lý luận, chiến lược cách
mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng
chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư
tưởng biệt phái, hẹp hịi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ
VI Quốc tế Cộng sản (9-1928).
Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì khơng sát tình hình các nước thuộc địa, nên đã
phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra. Tuy bị phê phán,
song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn chứng minh là đúng
đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh
(18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những
chỉ thị này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy
được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh
đoàn kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ của chủ
nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê
bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại hội VI của mình, thì những
quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực
lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế
Cộng sản thừa nhận.
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về công
tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ Chí Minh vượt
qua cột mốc 108 trênbiên giới Việt - Trung về nước. Đây là điều kiện thuận lợi để Hồ
Chí Minh biến tư tưởng củamình thành sức mạnh quần chúng đưa cách mạng đến
thắng lợi.
15
1.5.
Thời kì đầu năm 1941 đến tháng 9/1969
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản là thống
nhất.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8
của Đảng. Quan điểm chủ đạo của hội nghị này là nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc
coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc
và bọn Việt gian đảng cứu giống nịi rút khỏi nước sơi lửa nóng”. Đồng thời, ngày 195-1941, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt
Minh, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo v.v... nhằm đoàn kết mọi
lực lượng yêu nước chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nghị quyết hội nghị Trung
ương lần thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáo đồng bào của Hồ
Chí Minh ngày 6-6-1941, là những chủ trương, chính sách hợp lịng dân đã quy tụ toàn
dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám
1945 đến
thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản
Tun ngơn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố nước Việt Nam dân
chủ cộng hồ ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về nhà nước của dân, do dân, vì dân có bước
phát triển mới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ tự
lập tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí
Minh ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhân dân ta hưởng độc lập chưa được bao ngày thì thù trong giặc ngoài câu kết
với nhau đẩy nước nhà lâm vào cảnh “nghìn cân treo sợi tóc” … Dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh và Ban
Chấp hành trung ương đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
của Đảng. Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí Minh vạch ra từ ngày thành lập
Đảng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến “toàn dân, tồn diện,
trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra đã dắt
dẫn nhân dân ta tiến lên làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở
16
đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi tồn thế giới. Hồ bình
được lập lại nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng
đã sớm xác định kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là chủ
nghĩa đế quốc Mỹ; đồng thời vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã
được hồn tồn giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên
trong lịch sử, một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đã thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản. Trong điều kiện
ấy tư tưởng Hồ Chí Minh
tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang
chiến lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam,
tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc, hòng
khuất phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm lược hết sức tàn bạo của đế
quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh
chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay,
tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí
khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phịng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết khơng
sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy cao
độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối với Người và
Trung ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho tồn Đảng, tồn dân,
tồn quân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất
thắng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và
thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những phương sách lớn để xây
dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: “Xây dựng một nước Việt
Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
17
Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy nhiệt huyết, thắm đượm tình người
của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di sản tư tưởng vô cùng quý báu của dân tộc và nhân
loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình phát triển
của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hồn chỉnh về cơ bản, tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối chính trị đúng đắn của
cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu
của dân tộc và nhân loại.
2. Chủ nghĩa Mác-Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, giữ vai trị quyết
định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
II.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan và phương pháp luận của Tư tưởng
Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, là thế giới quan và phương
pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh. Người đã vận dụng thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc tiếp thu, kế thừa
tinh hoa văn hóa nhân loại và chuyển hóa những điều hiểu biết quý báu đó để xây
dựng hệ tư tưởng riêng của mình.
Hồ Chí Minh khơng rập khn những tư tưởng cũ chứa những yếu tố duy tâm,
lạc hậu nhưng Người cũng không phủ định tất cả vì những tư tưởng ấy cịn có cả
những yếu tố duy vật, tích cực. Vì vậy, Người đã tiếp thu một cách có kế thừa và phát
triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu
những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tơn giáo trong lịch sử. Người nói:
"Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giêsu có
ưu điểm là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc
biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta".
Khơng chỉ vậy, Hồ Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ tư tưởng khinh lao động chân
tay, khinh phụ nữ,…của Nho giáo nhưng Người cũng đã tiếp thu triết lý hành động, tư
tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời,…Người đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của
các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo như: trung, hiếu, nhân,
18
nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính,… và đạo đức phương Tây như dân chủ, tự do, công
bằng, bác ái,…, nhưng đã đưa vào đó những cái nhìn mới, cùng là trung, hiếu nhưng
nếu trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, trung với vua,
hiếu với cha mẹ thì với Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân.
Chính trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hố
những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại
để tạo nên tư tưởng cho mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Người dẫn lời
của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều
hiểu biết quý báu của các đời trước để lại". Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin chính là thế
giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
II.2.
Chủ nghĩa Mác-Lênin quyết định bản chất cách mạng và khoa học của Tư
tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra bước chuyển mới trong nhận thức của Hồ Chí
Minh, từ đó Người tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn các vấn
đề thực tiễn đặt ra của cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác Lênin đã tạo nên sự phát triển mới về chất trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh: từ lập trường của một người thanh niên yêu nước đã trở thành lập
trường của một người cộng sản. Ban đầu, Hồ Chí Minh chỉ là một người thanh niên có
tư tưởng u nước và khát khao tìm con đường cứu nước cho dân tộc của mình, bơn ba
đến khắp các nước, vừa lao động kiếm sống vừa hoạt động cách mạng. Nhưng phải
đến khi đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa" của
Lênin, Người đã tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam chính là con
đường cách mạng vô sản. Người đã vô cùng vui sướng mà nói rằng “Luận cương của
Lênin làm cho tơi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng
đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ. Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"”. Đó chính là bước chuyển lịch sử
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh: từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc mình trong sự nghiệp
19
giải phóng tất cả các dân tộc, đồng thời cũng đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng
nước ta, mở ra bước chuyển biến cho bao thế hệ người Việt Nam: từ người yêu nước
thành người cộng sản. Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là
đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đó, chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu tham gia
vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ
đây đã có một phương hướng mới. Người đã rút ra một luận điểm hết sức khoa học và
cách mạng triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản".
Đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, quan điểm Hồ Chí Minh có bước
nhảy vọt lớn, vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng thời. Nếu
như cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám "mang nặng cốt cách phong kiến", cuộc
khởi nghĩa của Phan Chu Trinh thỏa hiệp với Pháp "chẳng khác gì xin giặc rủ lịng
thương" thì Người lại có những tư tưởng vượt trội: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải
phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ
mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người khẳng định rằng: "Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin"
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố quan trọng quyết định bản chất cách
mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
II.3.
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong
điều kiện Việt Nam
Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa
thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là “Bản án chế độ
thực dân Pháp” (xuất bản năm 1925) và “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông
Dương” đã vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của
chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô
lệ, nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa. Đây là những tài liệu “có một khơng hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự
20
phân tích về chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà
lý luận mác-xít đề cập đến. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân,
đặc biệt là hình ảnh về “con đỉa hai vòi”, “con chim hai cánh”, đã khơng chỉ có tác
dụng thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở chính
quốc. Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa thực dân,
đồng thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án chôn vùi chủ nghĩa
thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế
giới. Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin, viết năm 1920, đã thức
tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì đây là chủ nghĩa
duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc bấy giờ
trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách mạng thuộc địa
phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là “hậu bị qn” của cách mạng vơ sản chính
quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng, Hồ Chí
Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to
lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính quốc, nhưng khơng hồn
tồn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi
trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng
quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách sáng
tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa, đó là mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với toàn thể nhân dân, dân
tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo... Theo Người, ở Việt Nam cũng như ở các nước
phương Đơng, do trình độ sản xuất kém phát triển nên sự phân hóa giai cấp và đấu
tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm
hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên
luận điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Người còn cho rằng,
chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản là “một chính sách mang tính hiện
thực tuyệt vời”.
21
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh ln giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi từ
giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc khơng thốt khỏi kiếp ngựa trâu thì
ngàn năm giai cấp cũng khơng được giải phóng. Đường lối của cách mạng Việt Nam là
đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của tồn
bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đồn kết tồn dân trên nền tảng liên minh cơng
nhân, nơng dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo về
Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư;
xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp,
vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ
đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã
xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, khơng chịu hạ vũ khí.
Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt
động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ
trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Hồ
Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật
là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về
xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân
tự vệ; về nền quốc phịng tồn dân, tồn diện, hiện đại...
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng
lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chun chính vơ sản. Vận dụng sáng tạo quan
điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ giải phóng dân tộc
mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, “mục đích của Quốc tế Cộng sản là làm thế
giới vô sản cách mạng, thiết lập vơ sản chun chính”, nhưng chúng ta phải căn cứ
22
vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách
mạng phù hợp, “chứ không phải nước nào cũng phải làm cách mạng vơ sản, lập
chun chính như nhau”. Vì vậy, ngay từ Chánh cương vắn tắt (1930), Người đã nêu:
Thiết lập Chính phủ cơng nơng binh; tổ chức ra qn đội công nông. Tại Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5-1941), Người đề ra chủ trương thành lập “một nước Việt Nam
dân chủ mới theo tinh thần Tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ
mới ấy không phải thuộc quyền riêng một giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân
tộc”.
Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Vì vậy, chủ
trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dân
tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách mạng cao và phù hợp với thực tiễn đất
nước. Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
“đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta,
cho con cháu ta”. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa... Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp hiện đại và nơng nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”.
23
PHẦN III: TỔNG KẾT
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin nằm trong sự thống nhất hữu
cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân
ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh,
cũng như khơng thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu
khơng nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr407.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr3.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.356-357.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr228.
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr48.
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr289.
7. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1977, t41, tr362.
8. Trương Niệm Thức: Hồ Chí Minh truyện, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, 61949( bản Trung Văn), ( bản dịch tiếng Việt của Đặng Nghiêm Vạn, tr.41-42)
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.589-590
10. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1
11. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.10
25