Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

dangtrang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Họ và tên: Đặng Thị Trang Giới tính : Nữ</b>
<b>Sinh ngày : 10 – 6 - 1990</b>


<b>Nghề nghiệp : Giáo viên</b>


<b>Đơn vị công tác: Trường tiểu học Xuân Tiến</b>


<b>BÀI DỰ THI TÌM HIỂU LỊCH SỬ</b>


<b>750 NĂM THIÊN TRƯỜNG - NAM ĐỊNH</b>



<b>Câu 1: Triều Trần ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nào? Thời gian tồn tại của nhà</b>
<b>Trần, kể tên các vua đời Trần?</b>


<i><b>1.1. Hoàn cảnh ra đời của triều Trần:</b></i>


- Bối cảnh chính trị xã hội cuối thời Lý: Kể từ thời Vua Lý Huệ Tông xã hội rối loạn, nhân
dân thiếu lịng tin với triều đình. Lý Huệ Tông là người yếu đuối, không quan tâm đến việc
triều chính


- Sự lớn mạnh của họ Trần, từng bước nắm giữ các vị trí, trọng trách trong triều đình nhà
Lý: Trong triều đình nhà Lý có một số chức quan do người dòng họ Trần nắm giữ, khi nhà
Lý có những rối loạn thì uy thế của họ Trần ngày càng tăng lên nhất là thời vua Lý Huệ
Tông. Khi nhà Lý suy yếu người đứng đầu họ Trần lúc đó là Trần Cảnh nhưng người có
cơng chính cho sự ra đời của nhà Trần là Trần Thủ Độ.


- Vai trò của Trần Thủ Độ và sự chuyển giao quyền lực giữa triều Lý sang triều Trần:. Là
người có cơ mưu, quyết đốn Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Lý Huệ Tông nhường ngôi
cho công chúa Chiêu Thánh và cắt tóc đi tu. Liền sau đó Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý
Chiêu Hoàng(7 tuổi) kết duyên cùng con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (8 tuổi). Một
năm sau vào tháng 12 âm lịch năm 1225 Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hồng nhường ngơi cho
chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị.



Khi lên ngơi, Trần Cảnh (Trần Thái Tơng) cịn nhỏ nên mọi việc triều chính đều trong tay
Thái sư Trần Thủ Độ và cha là nhiếp chính Trần Thừa.


Đây là triều đại có võ cơng hiển hách trong lịch sử phong kiến Việt Nam với ba lần đánh
bại các cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Dưới triều Trần, lực lượng quân đội được chú
trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước lân
bang, triều Trần cũng đã sản sinh nhiều nhân vật xuất chúng, đặc biệt là trong lĩnh vực quân
sự.


<i><b>1.2. Thời gian tồn tại của nhà Trần : </b></i>


- Triều Trần tồn tại từ năm 1225 – 1400, có 13 đời vua.


- Tên vị vua, niên hiệu, năm lên ngôi các vua nhà Trần cụ thể như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Thái Tông Kiến Trung(1226- 1232


Thiên Ứng Chính Bình( 1232 – 1251)
Ngun Phong(1251-1258)


Trần Cảnh 1226-1258


Thánh Tơng Thiệu Long(1258- 1272)
Bảo Phù(1273 -1278)


Trần Hồng 1258-1278


Nhân Tơng Thiệu Bảo(1278-1285)
Trùng Hưng(1285 – 1293)



Trần Khâm 1278 - 1293


Anh Tông Hưng Long Trần Thuyên 1293- 1314
Minh Tông Đại Khánh(1314 – 1323)


Khai Thái(1324 – 1329)


Trần Mạnh 1314 -1329


Hiến Tông Khai Hựu Trần Vượng 1329 - 1341
Dụ Tông Thiệu Phong(1341 – 1357)


Đại Trị (1358 – 1369)


Trần Hạo 1341 – 1369


Hôn Đức Công Đại Định


Nghệ Tông Thiệu Khánh Trần Phủ 1370 – 1372
Duệ Tơng Long Khánh Trần Kính 1373 - 1377
Phế Đế Xương Phù Trần Hiện 1377 – 1388
Thuận Tông Quang Thái Trần Ngung 1388 – 1398
Thiếu Đế Kiến Tân Trần An 1398 - 1400


<b>Câu 2: Sự ra đời của địa danh phủ Thiên Trường? Vai trò, vị thế của “Hành cung </b>
<b>Thiên Trường” trong quốc gia Đại Việt thế kỷ XIII-XIV</b>


<b>2.1 Sự ra đời của danh phủ Thiên Trường:</b>



- Tức Mặc là quê hương, đất dấy nghiệp của vương triều Trần.


- Sự kiện Thượng hồng Trần Thái Tơng đổi hương Tức Mặc thành phủ Thiên Trường, thể
hiện tầm nhìn chiến lược của vua Trần với vùng đất Tức Mặc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tức Mặc làm Phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây cung riêng cho vua
đương triều đến chầu ở, gọi là cung Trùng Hoa... Từ đây về sau các vua nhường ngôi đều
ngự ở cung này". Vùng đất Tức Mặc, nơi dấy nghiệp và lập căn cứ địa của 3 lần chống giặc
Nguyên - Mông, theo thuyết phong thuỷ xưa có dạng "ngoạ long" là thế đất đẹp, phát về
đường đế vương, khanh tướng. Thực tế lịch sử triều đại Trần - đỉnh cao của văn minh Đại
Việt với rất nhiều đức anh quân, văn thần, võ tướng đã minh chứng.


Bao bọc khu cung điện là dinh thự, thái ấp của các tướng lĩnh cao cấp của triều đình. Thái
ấp Quắc Hương của Thượng phụ Thái sư Trần Thủ Độ, thái ấp Cao Đài của Thượng tướng
Thái sư Trần Quang Khải... Phía tây cung đình là chùa Phổ Minh, lại dựng một cung riêng
cho các vua đương triều mỗi khi về thăm Thái Thượng Hồng thì về nghỉ tại đó. Trong suốt
174 năm trị vì, Phủ Thiên Trường được coi như kinh đơ thứ hai, là phên dậu vững chắc
phía Nam kinh thành Thăng Long.


<b>2.2 Vai trò , vị thế của danh phủ Thiên Trường: </b>


- Về chính trị: Là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện chế độ Thái Thượng Hoàng của nhà
Trần là trung tâm quyền lực thứ 2 (sau Thăng Long) gắn kết chặt chẽ với Thăng Long của
quốc gia Đại Việt vào thế kỷ XIII-XIV.


- Về quân sự: Thể hiện tầm nhìn chiến lược của các vua Trần về một hậu cứ, hậu phương
quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.


- Về giáo dục: Là trung tâm giáo dục với các thiết chế và chế độ thi cử.



- Về kinh tế: Phát triển kinh tế điền trang thái ấp, với chính sách “ngụ binh ư nơng”, phát
triển kinh tế tiểu thương, nơng nghiệp, thực hiện chính sách khai khẩn đất đai.


- Về văn hóa: Là một trung tâm hình thành, phổ biến, phát triển Phật giáo phái Trúc Lâm.
Văn hóa Thiên Trường đã góp phần phát triển nền văn minh Đại Việt vào thế kỷ XIII-XIV.


<b>Câu 3: Những hiểu biết của bạn về ba lần quân dân Đại Việt chống quân xâm lược</b>
<b>Nguyên – Mông thời Trần? Nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử?</b>


<b>3.1 Về chiến thắng Mông - Nguyên</b>


Lịch sử thế giới ghi nhận, vào thế kỷ 13 quân Nguyên Mông được coi là đội qn vơ
địch, tung vó ngựa từ đơng sang tây, đến đâu nơi đó đều bị giày xéo và khuất phục. Ấy vậy
mà đội quân ấy đã bị chặn lại ở đất nước Đại Việt nhỏ bé, không chỉ một mà tới ba lần.


<b>*Cuộc kháng chiến lần 1: (1258) </b>Nguyên Mông dự định đánh chiếm Đại Việt và từ Đại
Việt đánh lên Nam Tống


Nguyên Mông dứng đầu là Ngột Lương Hợp Thai quyết định chia quân làm hai đạo tiến
theo tả ngạn và hữu ngạn sơng Thao (nhiệm vụ tham dị, dẫn đường)


ngày 17/1/1258 chúng đến tới Bình Lệ Nguyên. Trận chiến do vua Trần trực tiếp chiến đấu.
Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kị binh của Mông Cổ phát huy sở trường của
chúng. Trận địa của ta bị lấn dần, quân của vua Trần rút lui an toàn nhờ vào sự giúp sức của
quân và dân. Âm mưu cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần hoàn toàn thất
bại. Ngột Lương Hợp Thai tức dận đổ lên đầu tướng tiên phong, Trếch Trếch Đu hoảng sợ
uống thuốc tử tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Thăng long yên tĩnh trống không. Quân Mông Cổ tiến vào kinh đô vắng lặng, gặp khó khăn
về hậu cần, chúng đánh ra vùng xung quanh kinh đơ để hịng cướp bóc lương thực. Nhưng


ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp chống cự quyết liệt tiêu biểu là dân Cổ Sở (Yên sở,
Hoài Đức, Hà Tây) đã tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào bao quanh làng, dựng luỹ
chiến đấu. Khi giặc đến, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra. lực lượng
quân Mông Cổ đã thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến đấu từ xóm làng. Chỉ mấy ngày
đến Thăng Long qn Mơng Cổ hồn tồn mất hết nhuệ khí chiến đấu : Ngột Lương Hợp
Thai và bọn tướng lĩnh đều hốt hoảng cực độ. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết
định phản cơng giải phóng Thăng Long nhanh chóng giành thắng lợi. Kinh thành sạch bóng
quân thù.


<b>*Cuộc kháng chiến lần 2:(1285)</b> lần này Hốt Tất Liệt lại huy động 50 vạn quân. chỉ huy là
Thoát Hoan (con của Hốt Tất Liệt)


Để chuẩn bị kháng chiến, nhà Trần mở Hội Nghị Bình Than tập trung các vương hầu
võ tướng để bàn kế đánh giặc.


Sau hội nghị Bình Than, các tướng lĩnh được phân chia đem quân trấn giữ những nơi hiểm
yếu, quan trọng. Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh quân đội cả nước. Trần
Quang Khải được cử giữ chức Thượng tướng thái sư.


Quân dân cả nước thích vào cánh tay của mình 2 chữ “Sát thát”. 1/1285, Thượng Hồng
Thánh Tơng mời các bậc phụ lão có uy tín trong nước về Kinh đô Thăng Long để hỏi kế
đánh giặc. trong bữa tiệc ở Điện Diên Hồng, các vị đã đồng thanh hô lớn “Đánh!”. Khắp
nơi nhân dân ta thực hiện mệnh lênh của triều đình “ Tất cả các quận huyện trong nước, nếu
có giặc ngồi đến phải liều chết mà đánh. Nếu khơng địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào
rừng núi, không được đầu hàng”.


Giữa năm 1284, Thoát Hoan khẩn trương điều quân vào Đại Việt. bọn Mơng – Ngun
muốn diệt Đại Việt bằng 3 gọng kìm đánh vào biên giới phía bắc và phía nam.


Ngày 2/2/1258, quân giặc chia làm 6 mũi đánh vào Nội Bàng (Bắc Giang). Trần Quốc


Tuấn chỉ huy đại quân đánh chặn giặc. Trước thế mạnh của giăc, quân ta bị tổn thất, Trần
Quốc Tuấn quyết định lui quân về Vạn Kiếp. Nghe tin quân ta rút lui, vua Thánh Tông vội
vã ra gặp Trần Quốc Tuấn và vờ hỏi Thống sối “thế giặc như thế, ta phải hàng thơi”. Trần
Quốc Tuấn nghiêm chỉnh trả lời “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”.


Ngày 11/2/1285, địch tấn cơng phịng tuyến Bình Than, qn ta chống trả quyết liệt,
vua Trần dẫn quân về tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Quân ta rút khỏi Vạn Kiếp. Vua trần
và Trần Quốc Tuấn về Thăng Long.


Trước sức mạnh của giặc Trần Nhật Duật (đóng quân tại Thu Vật (yên bái)) rút quân
về Bạch Hạc sau đó kéo về hạ lưu sông Hồng.


Thượng hồng Thái Tơng và vua Nhân Tơng về Thiên Trường (Nam Định). Thoát
Hoan vừa chiếm được Thăng Long vội vàng đuổi quân theo.


Nắm vững tình hình địch, Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão đem quân ngược sơng Thái
Bình đánh chiếm lại Vạn Kiếp khơng mấy khó khăn. Thốt Hoan bị cơ lập.


Cuối tháng 5, quân Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật nhanh chóng tiêu diệt địch ở
Tây Kết và Hàm Tử.Tiếp đó, Trần Quang Khải và các tướng khác đánh vào Chương Dương
nhanh chóng thắng lợi. Tàn quân địch rút về Thăng Long.Quân ta bao vây Thăng Long,
địch ra sức cố thủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Như Nguyệt lại gặp quân Trần Quốc Toản đánh tổn thất nặng nề. Thoát Hoan chạy sang
Vạn Kiếp lại bị sa vào bẫy phục kích của Trần Quốc Tuấn. hoảng sợ Thốt Hoan mở đưịng
máu chạy về biên giới Lạng Sơn lại bị quân của Quốc công tiết chế đánh chặn ở cửa ải,
Thoát Hoan hoảng sợ chui vào ống đồng cho quân lính khiêng chạy.


Các trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp đã tiêu diệt và
quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta.



*<b>Cuộc kháng chiến lần 3:(1288)</b> Hai lần xâm lược, hai lần thất bại thảm hại, vua Nguyên
Hốt Tất Liệt mất mặt, tức tối muốn tổ chức ngay cuộc chiến tranh xâm lược Đ ại Việt lần
thứ ba hịng trả thù, đồng thời để gấp rút đánh thơng con đường bành trướng xuống Đông
Nam Á. Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản để tập trung lực lượng cho cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta lần này.


Toàn bộ quân viễn chinh lần này do Thoát Hoan chỉ huy gồm 30 vạn quân cả bộ binh lẫn
thuỷ binh, mang theo lương thực đầy đủ. Chúng tiến vào nước ta chia thành 3 đạo:


- Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây theo đường Lạng Sơn tiến vào.
- Đạo quân do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến xuống.


- Đạo quân thuỷ do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy với hơn 600 chiến thuyền từ Quảng
Đông vào vịnh Hạ Long theo sông Bạch Đằng tiến vào hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải
Dương).


Khác với lần trước, lần này chúng chú ý đến thuỷ binh.Trần Quốc Tuấn lại được cử làm
tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang. Ông đề ra kế hoạch : lúc đầu thế giặc mạnh, quân ta
rút về vùng ven biển để bảo toàn lực lượng. Nhân dân trên đường tiến quân của địch và
trong vùng chiếm đóng có nhiệm vụ cất giấu lương thực, kiên quyết triệt nguồn lương thực
của địch, đồng thời cùng với dân binh đẩy mạnh hoạt động đánh địch làm tiêu hao sinh lực
của chúng, ăn không ngon, ngủ không yên, đẩy chúng vào thế bị động.


Được tin giặc sắp tràn vào biên giới, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn “Giặc
tới, liệu tình hình thế nào?”, Trần Quốc Tuấn trả lời “Năm nay đánh giặc nhàn”.Lần này,
Trần Quốc Tuấn chú trọng đến chiến trường biển đông bắc - đường tiến quân lương của
địch. Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm về biên thuỳ vên biển và Trần Tồn có nhiệm vụ
ngăn chặn thuỷ qn giặc.



Trận Ngọc Sơn, do tương quan lực lượng của Ô Mã Nhi mạnh hơn nên Trần Tồn có
nhiệm vụ tiêu diệt đội thuyền đi sau của chúng đã thu được thắng lợi. Nhưng vì lực lượng
giặc mạnh nên chúng vẫn vượt qua vùng biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh) và gặp
quân của Trần Khánh Dư, trận chiến xảy ra ác liệt. quân của Trần Khánh Dư không sao cản
được đạo quân của giặc, chúng ngược sông Bạch Đằng kéo vào Vạn Kiếp hội quân với
Thoát Hoan.


Trận Vân Đồn - Cửa Lục, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân ta tiêu diệt sạch
đoàn thuyền lương của địch. tạo điều kiện cho quân dân ta nhanh chóng chuyển lên chiến
lược phản công.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

hai theo đường thuỷ bộ rút về nước.


Biết trước ý đồ và đường hành quân của địch, Trần Quốc Tuấn chuẩn bị một cuộc phản
công chu đáo. Sông Bạch Đằng được chọn làm điểm quyết chiến tiêu diệt đạo quân Ô Mã
Nhi. Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật hoàn hảo, ngoài việc dựa vào địa thế thiên
nhiên hiểm yếu và lợi dụng Gềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn
xây dựng ở các cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mơ lớn chỉ trong vịng khơng
q 20 ngày.


Nhờ sự chu bị chu đáo, quân dân ta lần lượt đánh bại quân giặc trên đường rút lui trận
quyết chiến đúng như dự định xảy ra trên sông Bạch Đằng. Sau chiến thắng Bạch Đằng,
ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đem bọn tù binh Ô Mã Nhi,
Tích Lệ Cơ và các tên thiên hộ, vạn hộ về phủ Long Hưng (Thái Bình) làm lễ mừng thắng
trận trước lăng mộ vua Thái Tông. Trần Nhân Tông đọc :


<i><b>“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá; Giang sơn mãi mãi vững âu vàng”.</b></i>
<b>3.2 Nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử</b>:


*) <b>Nguyên nhân thắng lợi:</b>



- Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt là cuộc chiến tranh vệ quốc chính nghĩa nên
được sự hưởng ứng của mọi giai tầng trong xã hội.


- Nhà Trần đã phát huy được tinh thần yêu nước, đoàn kết kháng chiến của “bách dân, trăm
họ”,


- Có tướng tài và nghệ thuật quân sự mưu lược, sáng tạo.
*) <b>Bài học lịch sử</b>:


- Chiến thắng hiến hách đó có được là nhờ tinh thần đồn kết thống nhất chặt chẽ trong
vương triều, dòng họ và tồn dân cùng với ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ bờ cõi của
nhân dân


- Với chiến lược lấy dân làm gốc, dựa vào dân để tiến hành kháng chiến.


<b>Câu 4</b>: <b>Những đóng góp nổi bật của quân, dân Nam Định trong kháng chiến chống</b>
<b>Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ; thành tựu trong đổi mới và hội nhập của Đảng bộ,</b>
<b>quân, dân Nam Định?</b>


Trước âm mưu và thủ đoạn chiến tranh của thực dân Pháp là đánh nhanh, thắng nhanh,
Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã coi việc quan trọng và cấp bách hàng đầu là dồn toàn
lực vào việc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân trước sự tiến công thâm độc của
những kẻ thù có tiềm lực quân sự lớn mạnh, tàn ác và nguy hiểm.


Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
( 1954 – 1965)



Cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư, hoàn thành cải cách ruộng đất và phục hồi kinh
tế (1954-1957)


Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công nghiệp tư bản tư
doanh (1958-1960)


Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội ở địa phương (1961-1965)


Góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất, chi
viện cho tiền tuyến lớn (1965-1975).


Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của thực dân Pháp và Đế
quốc Mỹ, quân và dân Nam Đ ịnh đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đồn kết thống nhất
ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, sản xuất và chiến đấu giỏi góp
phần bảo vệ vững chắc quê hương và miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngày 30-4-1975, miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Trong niềm vui chung của cả nước, quân dân Nam Định rất
phấn khởi tự hào vì đã tích cực góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc.


<b> Những thành tựu trong đổi mới và hội nhập của Đảng bộ, quân, dân Nam Định:</b>


Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối
đổi mới tồn diện của Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng, đặc biệt là đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy kinh tế; nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… Nhờ vận
dụng đúng đắn các quy luật thơng qua các chủ trương, chính sách, sản xuất trong nước ngày
càng phát triển, lưu thông ngày càng thơng suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
từng bước được ổn định và nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, qua đó, chế độ XHCN
ngày càng được củng cố…


Hơn 20 năm qua, kể từ khi Nam Định bước vào thực hiện mô hình KTTT định hướng


XHCN, nền kinh tế Nam Định đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay
đổi khá rõ tình hình đất nước.


Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra
rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP ln đạt mức cao và ổn định kéo
dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Nam
Định và mang lại cho Nam Định một vị thế quốc tế mới. Từ một thành bị phong tỏa, cấm
vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Nam Định
đã vươn mạnh. Đến nay Nam Định đã có quan hệ mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với
hầu hết các tỉnh và thành phố trong cả nước.


Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt.
Đánh giá về thành cơng của q trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định:
“Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp với thực tiễn Nam Định. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng
sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con
đường đi lên CNXH ở Nam Định đã hình thành trên những nét cơ bản”


Sau năm 1986, những chủ trương đổi mới kinh tế toàn diện của Đảng đã làm biến đổi căn
bản diện mạo kinh tế Nam Định.


Đặc trưng căn bản nhất và nhân tố cốt lõi tạo nên những thành tựu trong phát triển kinh tế
kể từ thời đổi mới đến năm 2000 ở Nam Định là sự phục hưng của kinh tế hộ gia đình. Sự
phục hưng đó khởi đầu từ ngành nông nghiệp. Với hàng loạt chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ bắt đầu hồi phục từ những năm cuối thập kỉ 1980 và phát
triển từ thập kỉ 1990.



Về tổ chức sản xuất, từ sự phát triển của kinh tế hộ, dẫn đến những nhu cầu hợp tác kinh tế.
Nhiều mơ hình hợp tác kinh tế trong mọi ngành kinh tế đã được nhóm lên từ yêu cầu phát
triển kinh tế của các hộ. Sự ra đời của hàng ngàn trang trại ở Nam Định trong thời gian gần
đây là kết quả, đồng thời cũng là xu hướng phát triển của kinh tế hộ.


Trong các ngành kinh tế khác, chủ yếu trong tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, các đơn vị
sản xuất từ các hộ cá thể, tư nhân chiếm khoảng 95% tổng số các đơn vị sản xuất của
ngành. Sự phục hồi của kinh tế hộ trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã kéo
theo sự phục hồi của các làng thủ công truyền thống ở địa phương.


Song song với thị trường mở, nền kinh tế nhiều thành phần và đa ngành ở Nam Định ra đời.
Từ đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh đến nay, ngày càng có thêm các ngành, nghề và
thành phần kinh tế tham gia vào nền kinh tế chung của tỉnh. Đến năm 2000, Nam Định có
các thành phần kinh tế của quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương, tư nhân, cá thể,
tập thể, hỗn hợp. Các thành phần đó có vai trị kinh tế khác nhau, nhưng đều là chủ thể của
nền kinh tế mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Vùng kinh tế biển của Nam Định được xác định từ năm 1993, nhưng trên thực tế mới thực
sự hình thành từ năm 1997. Hiện nay, kinh tế biển của Nam Định đang trở thành kinh tế
mũi nhọn. Phát triển kinh tế biển vừa là yêu cầu tất yếu của phát triển kinh tế Nam Định và
vừa là yêu cầu bảo vệ an ninh, chủ quyền của Tổ quốc.


Diện mạo khái quát của kinh tế Nam Định hiện nay là có 1 trung tâm trọng điểm kinh tế là
khu vực thành phố và 2 vùng gồm kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển. Trong các vùng
kinh tế lớn đó, đã hình thành và phát triển nhiều tiểu vùng kinh tế: đó là các cụm công
nghiệp nông thôn, các làng thủ công nghiệp truyền thống, vùng đặc sản lúa, vùng xuất khẩu
gạo, vùng chăn nuôi...


Địa bàn chủ yếu của các điểm công nghiệp<i>, </i>xây dựng tập trung phân bố chủ yếu ở các thị


trấn, thị tứ hoặc làng nghề thủ công truyền thống. Các điểm tiểu vùng này thường nằm cạnh
trục giao thơng chính của tỉnh, huyện và nó kết nối trực tiếp với vùng kinh tế trọng điểm
của thành phố tạo nên hệ thống công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp địa phương khá hồn
chỉnh. Có thể nói hệ thống này kết hợp với mạng lưới thương nghiệp mới đã tạo nên các
trung tâm kinh tế của các huyện, xã và liên huyện - xã. Vùng trọng điểm công nghiệp của
tồn tỉnh có các đơn vị sau:


Ngành cơ khí, luyện kim, đúc: Có 6 tiểu vùng tập trung ở các địa phương thuộc xã Cộng
Hoà (Vụ Bản), thị trấn Lâm (Ý Yên), Gôi (Vụ Bản), 3 cơ sở khác thuộc xã Nam Giang,
Nghĩa An và Nam Thanh (Nam Trực) và ở Xuân Tiến (Xuân Trường).


Ngành vật liệu xây dựng: Có 6 đơn vị , tập trung ở huyện Nam Trực 3 đơn vị (2 cơ sở ở xã
Nghĩa An, 1 ở xã Nam Tồn); huyện Xn Trường có 2 cơ sở thuộc xã Xuân Thành và
Xuân Hồng; huyện Nghĩa Hưng có 1 cơ sở ở Nghĩa Đồng.


Chế biến sản xuất thực phẩm và đồ uống: Ngành chế biến sản xuất lương thực và đồ uống
có số lượng nhiều nhất, với 12 đơn vị, trong đó có 2 tiểu vùng thụơc địa phận thành phố, 5
tiểu vùng thuộc các xã ven biển. Các khu chế biến thực phẩm và đồ uống tập trung ở vùng
nông thôn tập trung ở các huyện phía nam. Riêng huyện Xn Trường có 4 đơn vị (thuộc
các xã Xuân Kiên, Xuân Hồng, Xuân Hùng, Xuân Vinh); huyện Hải Hậu có 1 tiểu khu
thuộc xã Hải Hưng).


Tiểu vùng dệt, may ươm tơ: có 5 đơn vị, trong đó có 2 đơn vị thuộc khu vực thành phố. Các
cơ sở trung tâm ươm tơ ở vùng nông thôn Nam Định thuộc các xã Phương Định, Liêm Hải
(Trực Ninh), Thành Lợi (Vụ Bản).


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b>Câu 5:</b><b> </b><b> Thành phố Nam Định được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Đề án </b></i>
<b>tổng thể phát triển thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hố, xã hội </b>
<b>của vùng Nam đồng bằng sơng Hồng năm nào? tiềm năng và điều kiện để Thành phố </b>
<b>Nam Định phát triển?</b>



Gần 750 năm ra đời hành cung Thiên Trường đã đặt dấu mốc vị thế quan trọng về mọi mặt
của Thiên Trường - Nam Định với Thăng Long - Hà Nội. Nhà Trần đã để lại cho con cháu
muôn đời một di sản vô giá. Trong giai đoạn lịch sử hiện đại, Nam Định đã và đang khẳng
định tiếp nối “tầm nhìn” đó trong phát triển kinh tế - xã hội. Vị trí, mối quan hệ giữa Nam
Định và các tỉnh, thành phố trong vùng với Thủ đô Hà Nội trong sự phát triển chung của
đất nước tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết 54-NQ/TW ngày 14-9-2005 của Bộ
Chính trị “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm ANQP vùng đồng bằng sông Hồng đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020”. Xây dựng đồng bằng sông Hồng trở thành trọng
điểm kinh tế đồng bằng Bắc Bộ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 109 về xây
dựng Thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam
đồng bằng sông Hồng; ngày 24 tháng 01 năm 2011 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
05/2011/QĐ-TTg “Phê duyệt quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” (trong đó có tỉnh Nam Định) với
các mục tiêu và quan điểm phát triển giao thông vận tải với bước đột phá mạnh mẽ tạo tiền
đề đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng, đáp ứng yêu cầu là vùng đi đầu trong
công cuộc CNH-HĐH, thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập quốc tế, củng cố an ninh
quốc phịng và trật tự an tồn xã hội. Phát triển giao thông vận tải trên cơ sở phát huy tối đa
lợi thế của vùng là vị trí trung tâm và cửa ngõ chiến lược về đường biển và đường hàng
không; đảm bảo sự liên kết giữa các phương thức vận tải đường bộ, đường thủy nội địa,
đường sắt, hàng không và cảng biển; sự liên kết giữa Thủ đơ Hà Nội với vai trị là đầu mối
giao thông với các tỉnh, thành phố trong vùng. Theo như Quy hoạch chung xây dựng thành
phố Nam Định, tỉnh Nam Định đến năm 2025 vừa được Thủ tướng<i> Chính phủ </i>phê duyệt,
thành phố Nam Định sẽ trở thành đô thị loại I và là đô thị trung tâm vùng Nam đồng bằng
sông Hồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i><b> Câu 6: Cảm nghĩ của bạn về truyền thống lịch sử - văn hoá của Nam Định và việc</b></i>
<b>phát huy các giá trị đó để góp phần xây dựng tỉnh Nam Định giầu đẹp, văn minh? </b>
<b> </b>Là người con của quê hương Nam Định yêu dấu, tôi thấy vô cùng tự hào về truyền thống
lịch sử - văn hố của tỉnh nhà. Tơi cũng khơng thể không hãnh diện khi nhắc đến các thế hệ


cha ông đã dày công vun đắp, dựng xây và gìn giữ quê hương đất nước.


</div>

<!--links-->
Tin học 6-Bài: ĐỊNH DẠNGTRANG VĂN BẢN
  • 16
  • 10
  • 0
  • dangtrang dangtrang
    • 11
    • 3
    • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×