Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Khảo sát tính thích nghi của cây hoàng lan cananga odorata (lam ) hook f et thomson tạo được kỹ thuật nhân giống khác nhâu tại tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thanh Phương

KHẢO SÁT TÍNH THÍCH NGHI CỦA CÂY HOÀNG LAN [Cananga odorata
(Lam.) Hook. f. et Thomson] TẠO ĐƯỢC TỪ CÁC KỸ THUẬT NHÂN
GIỐNG KHÁC NHAU TẠI TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chuyên ngành: Sinh Thái Học
Mã số: 60 42 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Vương Đình Tuấn
TS. Phạm Văn Ngọt

Thành phố Hồ Chí Minh – 2010


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn
Thầy Vương Đình Tuấn, thầy Phạm Văn Ngotï đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ, động viên
và đưa ra những ý kiêùn quý báu cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện
quyển luận văn này.
Quý thầy cô khoa sinh học trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập.
Quý thầy cô thuộc bộ môn thực vật trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Các cô chú, anh chị ở Phân Viện Nghiên cứu Khoa học Lâm Nghiệp Nam Bộ, Đài
Khiù tượng Thủy văn Nam Bộ, đã cộng tác, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn


này.
Tất cả các anh chị, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã giúp
đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.


 

DANH LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
2,4D : 2,4-dichlorophenoxy acetic acid.
BA : 6-benzyl aminopurine.
C : Số cành cấp I
D : Đường kính thân
GA3 : Acid gibberellic.
H : Chiều cao cây
IAA : Indole-3-acetic acid
IBA : Indole 3-butyric acid.
L: Số lượng lá trên cây
MS : Murashige and Skoog’s
NAA : 1-naphthylacetic acid.
S : Diện tích lá
TB : Trung bình
WPM : Woody Plant Media


 

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây Hoàng lan (Cananga odorata (Lam.) Hook. f. & Thomson) hay còn được gọi là Ngọc lan tây,
thuộc họ Na (Annonaceae), là một trong các loài thực vật chứa tinh dầu phân bố ở Việt Nam, các nước

Đông Nam Á, một số nước Châu Phi và Châu Mỹ. Hoa hồng lan có chứa tinh dầu (ylang-ylang oil)
được ưa chuộng trong công nghiệp hương liệu. Tinh dầu này từ lâu đã được sử dụng để điều chế nước
hoa nổi tiếng Chanel No5. Và là nguyên liệu chính để sản xuất hầu hết các loại nước hoa đắt tiền [18],
cũng như được dùng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông [48].
Tinh dầu hồng lan có mùi thơm hấp dẫn tạo hương vị đặc biệt nên cịn được sử dụng trong cơng
nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống. Ngồi ra, nó còn được dùng làm thuốc chữa bệnh cao huyệt áp,
chữa chứng nhịp tim nhanh, sốt rét, bệnh đường ruột, viêm gan … [18]
Cây hồng lan là cây trồng có tiềm năng sinh lợi rất lớn. Cây trồng 2 năm tuổi bắt đầu ra hoa, đến
4 – 5 năm tuổi ra hoa rất nhiều và chu kỳ khai thác có thể đến 50 năm. Mỗi cây cho khoảng 20kg
hoa/năm. Một kg tinh dầu hồng lan có giá trị từ 81 – 97 đô la Mỹ [18]. Trên các trang web, 1 lọ 10 ml
tinh dầu Ylang Ylang giá khoảng 10 -20USA [49]. Cây hồng lan được trồng với quy mơ lớn ở nhiều
nước như : Philippinnes, Indonesia, quần đảo Camoros, Réunion, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), đảo
Madagasca , các nước Châu Phi…, và trở thành cây có tinh dầu đem lại nguồn lợi đáng kể. Ở
Indonesia, diện tích trồng hồng lan lên đến 160.000 ha với sản lượng tinh dầu hàng năm khoảng 120
tấn [18]. Tại Việt Nam, cây Hoàng lan thường được trồng rãi rác ở các công viên, trường học, nhà dân
để lấy bóng mát hoặc làm cảnh, chưa được tập trung thành diện tích lớn.
Nước ta có điều kiện sinh thái phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của cây hồng lan, hồn tồn có
thể trồng với quy mô lớn, nhằm cải thiện thu nhập của người dân. Tuy nhiên, hiện những nghiên cứu về
giống, kỹ thuật gieo trồng, kỹ thuật thu hái và chế biến hoàng lan hầu như chưa được nghiên cứu ở Việt
Nam. Để góp phần đưa cây hồng lan – một cây có giá trị kinh tế cao – được trồng rộng rãi ở Việt
Nam, đề tài “Khảo sát tính thích nghi của cây hoàng lan [Cananga odorata (Lam.) Hook. f. et
Thomson] tạo được từ các kỹ thuật nhân giống khác nhau tại Thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước”
được tiến hành.
2. Mục tiêu nghiên cứu


 




Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vơ tính cây hồng lan bằng biện pháp nuôi cấy invitro và giâm
cành.



Khảo sát tính thích nghi của cây Hồng lan trên nền đất tỉnh Bình Phước.



So sánh sự sinh trưởng của cây giống tạo từ hạt và cành giâm sau giai đoạn vườn ươm.

3. Nội dung nghiên cứu


Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vơ tính hồng lan bằng giâm cành và ni cấy invitro:
o Giâm cành hồng lan : Sử dụng hóa chất kích thích là IBA và thuốc thương phẩm.
o Ni cấy invitro hoàng lan : Khảo sát khử trùng chồi, tạo chồi, vươn chồi và tạo rễ.



Theo dõi sinh trưởng của cây hoàng lan tạo từ hạt và cành giâm trồng ở huyện Bình Long, tỉnh
Bình Phước.

4. Phạm vi nghiên cứu


Nghiên cứu nồng độ IBA thích hợp cho sự hình thành rễ của các đoạn cành và đoạn thân cây
hoàng lan.




Nghiên cứu kỹ thuật ni cấy invitro hồng lan như: nồng độ chất khử trùng, nồng độ chất điều
hòa sinh trưởng (BA, NAA) trong tạo chồi, nồng độ GA3 trong vươn chồi, nồng độ IBA trong
tạo rễ.



So sánh sự sinh trưởng của cây hoàng lan tạo từ hạt và cành giâm trồng tại huyện Bình long,
tỉnh Bình Phước trong 4 tháng.

5. Thời gian tiến hành thí nghiệm
Từ tháng 06/2009 đến tháng 9/2010.


 

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Một số đặc điểm sinh học, sinh thái của Hồng lan

Cây hồng lan có vị trí phân loại như sau:
Giới (Kingdom) : Plantae
Phân giới (Subkingdom) : Tracheobionta
Siêu ngành (Superdivision) : Spermatophyta
Ngành (Division) : Magnoliophyta
Lớp (Class) : Magnoliopsida
Phân lớp (Subclass) : Magnoliidae
Bộ (Order) : Magnoliales
Họ (Family) : Annonaceae

Giống/Chi (Genus) : Cananga (DC.) Hook. f. et Thomson
Loài (Species) : Cananga odorata (Lam.) Hook. f. et Thomson

[50]

Bảng 1. Tên gọi cây hoàng lan ở các quốc gia trên thế giới
STT

Quốc gia

Tên địa phương

1

Cambodia

chhke sreng [52]

2

Chuuk

pwanang, pwuur, pwalang [51]

3

Cook Islands, Niue,
Tahiti

moto‘oi, mata‘oi, mato‘oi [51]


4

English

ylang ylang, perfume tree, cananga [51]

5

Fiji

makosoi, mokohoi, makasui, mokosoi [51]

6

French

canang odorant [51]

7

Guam, CNMI

ilang-ilang, alang-ilang [51

8

Hawai‘i

Lanalana [51]


9

Indonesia

kenanga (Javanese) [51]

10

Kosrae

ilahnglahng, ilanlang [51]

11

Malaysia

Chenanga [52]


 

12

Marquesas–
Nukuhiva, Niue

Motoi [51]

13


Marquesas–Fatuhiva

Mutuis [51]

14

Marshall Islands

Ilanilan [51]

15

Nauru

derangerang, derangirang [51]

16

Palau

chiráng, irang [51]

17

Philipine

cananga, ilang-ilang [52]

18


Pohnpei

ilangilang, lengileng, alangilang, pur-n-wai,
pwurenwai, seir en wai [51]

19

Puluwat Atoll

Pwalang [51]

20

Samoa

moso‘oi [51]

21

Society Islands

moto‘I [51]

22

Solomon Islands:
Kwara‘ae

sa‘o [51]


23

Tonga

Mohokoi [51]

Đặc điểm sinh học : Cây gỗ cao 10 - 15m, đường kính 30 - 50cm. Thân tròn, cành thường đâm
ngang, dễ gãy. Vỏ màu xám tro nhạt, nhẵn. Gỗ màu vàng nhạt, mềm. Tán lá hình trụ. Lá đơn mọc cách,
xếp thành hai hàng trên một cành nhỏ, dể rụng. Phiến lá mềm, mỏng; hình trái xoan hay hình trứng, hơi
lệch, hơi gợn sóng; gốc lá trịn, đầu thn; hai mặt nhẵn dài 15 - 20cm.
Cây hoàng lan ra hoa quanh năm. Hoa có màu vàng hay vàng lục, mọc thành từng cụm trên những
nhánh ngắn khơng có lá; cánh hoa dài, hình tam giác. Cánh tràng 6 xếp thành hai vòng, dài và lượn
sóng, đầu thn hẹp, thường cuộn ra phía ngồi. Nhị đực nhiều, bao phấn hướng trong, trung đới hình
nón, lá nỗn 8 - 10, vịi dài, dầu nhụy có lơng tơ. Khi cịn non, hoa có màu xanh, khi chín hoa có màu
vàng. Quả cịn non màu xanh, hình trứng ngược, kích cỡ 15 – 25mm x 8 – 10mm, nhẵn, khơng có lơng,
vỏ quả dày khoảng 2mm. Mỗi quả có 10 -12 hạt, dẹt. [1]


 

Hình 1. Cây và quả hồng lan ở Giồng trơm – Bến Tre

Đặc điểm sinh thái : Cây ưa sáng, mọc nhanh, phát triển mạnh mẽ ở miền cận nhiệt đới, nơi có
lượng mưa hàng năm khoảng (650-)1500-2000(-4000) mm và nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21270C. Ở Java, hoàng lan sinh trưởng thành cụm ở rừng mưa ẩm thường xanh và ở rừng tếch. Cịn ở
New Guinea, nó mọc ở độ cao 850m [52].
Phân bố : Cây có nguồn gốc ở Đông Nam Á, được du nhập vào Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Phi và
Châu Mỹ [52].
Thành phần hóa học. Tinh dầu Hồng lan chứa 0,3 – 25% [2], bao gồm: ethyl anthranilate (pCresyl methyl ether), benzyl acetate, methyl benzoate, methyl salicylate, cinnamyl acetate, -linalool, ,
geranyl acetate, farnesyl acetate and muurolol, p-cresol, eugenol, isoeugenol, benzyl salicylate [53].

Giá trị : Gỗ hoàng lan nhẹ, màu vàng nhạt, thớ mịn, dùng để tiện khắc, làm văn phịng phẩm, dễ
gia cơng chế biến, nhưng kém chịu đựng, dễ nứt nẻ, mối mọt, chủ yếu làm củi. Hoa rất thơm và chứa
tinh dầu (ylang –ylang oil), được dùng để sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông, đặc biệt là
nước hoa nổi tiếng Chanel No5. Mùi hồng lan được pha trơn khá tốt với mùi cây cỏ, hoa quả và gỗ, để
dùng trong công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống. Tinh dầu hoàng lan tạo cho cơ thể một cảm
giác thoải mái, tâm trí thanh thản và được coi là một loại thuốc làm dịu đi sự mệt mỏi của cơ thể. Tinh
dầu này giúp điều tiết các chất bã nhờn ở da, làm giảm huyết áp, làm giảm sự căng cơ, và có tác dụng
kích thích hung phấn tình dục, dùng chữa chứng nhịp tim nhanh, bệnh sốt rét, bệnh đường ruột, viêm
gan…[18]
1.2.

Tình hình nghiên cứu cây hồng lan trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Trên thế giới


 

Thơng tin đầu tiên về Hồng lan được biết từ John Ray (1628-1705), nhà phân loại học người
Anh, đã mô tả cây với tên Arbor saguisen. Hoàng lan cũng đã được ghi chép lại bởi nhiều nhà khoa học
khác với các tên như Borga cananga, Unona odorata.
Theo Oyen và cộng sự (1999) thì cây hồng lan ưa điều kiện nóng ẩm ở các khu vực thấp trong
vùng nhiệt đới, với nhiệt độ trung bình năm 21 – 27oC, lượng mưa hàng năm khoảng 1500 – 2000mm.
Cây sinh trưởng tốt trên các vùng đất màu mỡ, đất nham thạch, quang đãng, nhiều ánh sáng, đất hơi
chua đến hơi kiềm (pH : 4,5 – 8).
Manner và Elevitch (2006) đã miêu tả đặc điểm hình thái, phân bố, cơng dụng của cây Hồng lan.
Cây hoàng lan sinh trưởng nhanh khi gặp điều kiện thuận lợi và có thể đạt 2m trong 1 năm. Cây thường
phân bố ở những vùng đất thấp hoặc rừng tái sinh có độ cao 800 – 1200m so với mực nước biển.
Những vùng này thường có lượng mưa lớn bình qn 700 – 5000mm/năm và có nhiều ánh sáng. Độ pH
thích hợp cho cây thường trung tính hơi ngả acid yếu. Đất nhiễm mặn với nộng độ muối cao khơng phù

hợp cho trồng hồng lan. Cây có thể chịu được nhiệt độ thấp nhất từ 10 – 18oC, nhiệt độ cao nhất là 28
– 35oC. Nhiệt độ thích hợp trung bình cho sinh trưởng của hồng lan là 18 – 28oC. Các loại đất cát, sét
chứa nhiều mùn hoặc đất sét, hay đỏ bazan có nguồn gốc từ nham thạch, đất cát màu mỡ có nhiều mùn
đều thích hợp để trồng hoàng lan. Cây 1,5 – 2 năm tuổi thì bắt đầu ra hoa, mỗi cây trưởng thành có thể
cho 20 – 100kg hoa trong 1 năm.
Hoàng lan được nhân giống chủ yếu bằng hạt. Hạt được gieo trong các túi bầu đất đến khi có 6 –
10 lá thì đem trồng ra đất. Mật độ trồng hồng lan thường là 6 x 6m [57]. Tuy nhiên, ở đảo Pohnpei
thuộc liên bang Micronesia (đảo quốc ở Thái Bình Dương) người ta trồng hoàng lan với mật độ 4 x 4m
[18].
Hoang và cộng sự (1986) thuộc Đại học Philippines đã nghiên cứu nhân giống ilang-ilang
[Cananga odorata (Lamk.) Hook.f. và Thomson] bằng hạt và giâm cành. Kết quả khi nghiên cứu nảy
mầm cho thấy, ngâm hạt trong nước ấm 60oC trong 24 giờ là cách xử lý tốt nhất, và cho tỷ lệ nảy mầm
khá cao (92%). Nhân giống bằng giâm cành chỉ thành công khi lấy mẫu từ những cây con. Cành giâm
lấy từ ngọn của cây con cho tỷ lệ sống cao (98%) và tỷ lệ ra rễ cũng cao (92%), số rễ cũng nhiều hơn,
rễ dài hơn so với cành giâm ở vị trí thấp hơn. Mặc dù NAA (naphthalene acetic acid), IBA (indole
butyric acid) và Hormex (chất kích thích ra rễ thương phẩm) cho thấy khơng có ảnh hưởng xấu đến tỷ
lệ sống của cành giâm, nhưng IBA có hiệu quả tác động nhiều nhất đến sự hình thành rễ [60].


 

Molabayabas và cộng sự (1995), cũng thuộc trường đại học Philipines, đã thực hiện nuôi cấy
invitro ilang-ilang từ chồi ngọn cây con. Mẫu cấy được rửa, sau đó vơ trùng bằng NaOCl với nồng độ
0,3%. Các nghiệm thức được cho là mơi trường thích hợp cho sự hình thành mơ sẹo, được thực hiện
trên môi trường MS hoặc WPM chứa 1 – 2mg/l BAP kết hợp 0,1 – 0,5mg/l NAA. Sự biệt hóa số lượng
lớn chồi và mầm được ghi nhận trong môi trường MS chứa 2mg/l BAP với NAA từ 0,1 – 0,2mg/l.
Mầm chồi đã biệt hóa sinh trưởng bình thường khi được cấy trên mơi trường WPM có BAP riêng rẽ
hoặc kết hợp với 0,1mg/l và 0,5 mg/l NAA; trong khi trên mơi trường MS thì tạo ra những dạng khơng
bình thường. Trong mơi trường WPM và MS có bổ sung kinetin hoặc NAA riêng rẽ thì ít có hoặc
khơng có tác dụng lên sự hình thành mơ sẹo và chồi. Tuy nhiên, nếu bổ sung 15% nước dừa vào môi

trường WPM và BAP từ 1 – 10mg/l, ghi nhận thúc đẩy tạo sẹo, làm giảm sự hình thành chồi. Chồi đã
được biệt hóa sinh trưởng bình thường khi được cấy chuyền sang mơi trường WPM có 2mg/l BAP,
trong khi đó, trên mơi trường MS có cùng chất điều hịa sinh trưởng, các chồi này hình thành nên
những kết cấu giống protocorn trên bề mặt lá. Môi trường WPM có hiệu quả hơn mơi trường MS trong
sự cảm ứng tạo rễ. Sự hình thành nhiều rễ và tốt hơn trên mơi trường WPM có 0,5mg/l IBA. Cây con
tái sinh từ mơ sẹo chồi ngọn có thể sinh trưởng dưới điều kiện bình thường [60].
Năm 2008, một số nhà khoa học của Philippine, như Lindain, Reglos, Guzman và Cedo, đã thực
hiện ni cấy invitro hồng lan, đồng thời, khảo sát lượng sản phẩm tinh dầu trong mô sẹo tạo được từ
cánh hoa. Tác giả sử dụng các nguồn vật liệu khác nhau (chồi ngọn, chồi nách, lá non, noãn và cánh
hoa) nhằm khảo sát khả năng biệt hóa chồi thông qua mô sẹo ( con đường gián tiếp). Khử trùng mẫu
cấy bằng 3 chất khử trùng : alcohol 70%, thuốc diệt nấm và NaOCl. Nhúng nhanh mẫu cấy vào alcohol
70%, hoặc thời gian tối đa là 30s, sau đó chuyển qua lắc trong thuốc diệt nấm trong 20 phút với các
nồng độ khác nhau đối với từng nguồn vật liệu khác nhau. Cuối cùng là sử dụng NaOCl với nồng độ
khác nhau nhưng ở khoảng thời gian là 10 phút. Cảm ứng tạo mô sẹo mẫu cấy đã vô trùng trong mơi
trường có BA 2mg/l kết hợp với NAA 0,2 mg/l, cho tỉ lệ mô sẹo tốt và mô sẹo này có khả năng cho ra
chồi. Tuy nhiên với mỗi loại vật liệu khác nhau thì màu sắc mơ sẹo, tốc độ tăng trưởng của mơ sẹo có
khác nhau. Mô sẹo được tạo từ cánh hoa cho ra muộn hơn so với các nguồn vật liệu khác. Mô sẹo từ
bầu nhụy cái cho sự tăng trưởng nhanh nhất, trong khi mơ sẹo từ chồi ngọn và chồi nách thì chậm nhất.
Mầm chồi được tạo từ mô sẹo chồi ngọn, chồi nách và lá sau 15 – 16 tuần cấy chuyển trên mơi trường
MS có 0,2mg/l NAA +2mg/l BAP. Các mầm này được vươn cao trên mơi trường WPM có 2mg/l BAP.
Trong khảo sát ảnh hưởng của môi trường lên sự tạo mơ sẹo và biệt hóa chồi thì WPM tạo được ưu thế
hơn do ti lệ hóa nâu thấp, tỉ lệ tạo chồi cao, tỉ lệ cây bị thủy tinh hóa thấp, điều này có thể là do nồng độ


 

của Nitrate trong WPM thấp hơn trong MS. Tái sinh rễ được tạo trên mơi trường ½ WPM có 0,5mg/l
IBA [56].
1.2.2. Ở Việt Nam
Một số tài liệu miêu tả về hình thái, đặc điểm phân bố, đặc điểm sinh học về cây hoàng lan của

Phạm Hoàng Hộ, Võ Văn Chi, Trần Hợp mang tính đại cương. Việc nghiên cứu nhân giống và khảo sát
sinh trưởng cây hồng lan hiện cịn khá mới.
Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2002) đã khảo sát quá trình phát triển, già chín và nảy mầm ở Hồng
lan [6]. Trương Mai Hồng và cộng sự (2004) đã nghiên cứu sự phát triển và già chin của hạt hoàng lan
(Cananga odorata (Lamk.) Hook.f. et Thoms) từ cây hoàng lan 10 tuổi, được trồng ở trường Đại học
Nông lâm Tp. Hồ Chí Minh, cho biết : Hạt hồng lan là loại hạt tỏ ra khó nảy mầm, hạt có miên trạng
đáng kể. Khi thu hoạch hạt từ những quả già chín (84 ngày sau hoa nở) gieo ngay trên giấy thấm thì có
1% hạt nảy mầm; thu hạt từ quả chín nâu đen (98 ngày sau hoa nở, ẩm độ hạt 25%) gieo ngay trên giấy
thấm thì tỷ lệ nảy mầm chỉ đạt 17%. Khi rút khô độ ẩm hạt cịn 10%, 7,4% và 4,7% thì tỷ lệ nảy mầm
của hạt tăng tương ứng là 26%, 31% và 51%. Khi phơi nắng hạt trong 3 ngày thì tỷ lệ nảy mầm là 27%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hạt hoàng lan khơng có bản chất tồn trữ chính thống (ưa khô).[19]
Phạm Văn Ngọt và cộng sự (2009) đã thực hiện nghiên cứu khả năng nảy mầm và sinh trưởng của
cây hồng lan trồng ở huyện Giồng Trơm - Bến Tre, đã cho thấy, hạt hoàng lan ngâm trong dung dịch
GA3 (0,3 – 0,7ppm) trong 1 giờ cho tỷ lệ nẩy mầm trên 47% cao hơn so với đối chứng chỉ có 42,67%.
Sinh trưởng của cây con ở giai đoạn vườn ươm ở các chế độ bón phân N,P,K khác nhau, đã ghi nhận tỷ
lệ sống của cây hoàng lan con sau 5 tháng ở các nghiệm thức bón nitơ và phosphor là 100%, ở nghiệm
thức bón kali nồng độ 1,5% là 77.8%, nồng độ 2% là 60%. Sinh trưởng của cây con ở các nồng độ nitơ
khác nhau đều tốt hơn so với đối chứng, và tốt nhất ở nồng độ 2%. Ở nồng độ 3% và 4% P2O5, cây sinh
trưởng tốt hơn các nghiệm thức cịn lại. Bón phân kali tỏ ra không hiệu quả đối với sự sinh trưởng của
cây. Quan sát sinh trưởng của cây con hoàng lan trồng ở huyện Giồng Trôm - Bến Tre, cho thấy cây
con có 6 – 7 lá ươm trong túi bầu sau 1 năm trồng có chiều cao 221,77 – 250,67cm, đường kính thân
đạt 4,90 – 6,29cm. Cây hồng lan trồng thuần loại sinh trưởng tốt hơn cây trồng xen với chuối và vườn
dừa. Hoàng lan trồng xen trong vườn dừa ở giai đoạn 1 năm có sinh trưởng kém nhất. Sau 1 năm tiến
hành cắt ngọn, các cây hoàng lan trồng thuần loại sinh trưởng tốt nhất, có đường kính thân cây từ 9,24
– 9,54cm. Những cây trồng trong vườn dừa có đường kính thân cây từ 8,22 – 8,62cm khơng thua kém
những cây hồng lan trồng xen với chuối. Sau 1,5 năm trồng, cây hoàng lan bắt đầu ra hoa [18].


 


1.3.

Nghiên cứu về giâm cành
Mọi tế bào thực vật sống đều có khả năng tái tạo lại một cây hồn chỉnh. Khả năng này phụ thuộc

vào hai đặc tính cơ bản của tế bào thực vật đó là tính tồn thể (totipotency) và sự phản biệt hóa
(dedifferentiation). Trong nhân giống bằng giâm cành, chỉ cần điều khiển sự hình thành rễ mới (rễ bất
định), vì chồi đã có sẵn.
Các yếu tố có ảnh hưởng tới q trình này như : tình trạng sinh lý của cây mẹ, tuổi của cành giâm,
vị trí cành giâm (chồi ngọn, chồi bên), điều kiện môi trường (nước, nhiệt độ, ánh sáng …). Cành mẹ
mang các dưỡng chất (các glucids, khoáng chất…) ảnh hưởng đến sự ra rễ của cành giâm. Cành giâm
lấy ở giai đoạn trẻ dễ tái sinh hơn cây đã ở pha sinh trưởng già. Từ gốc đến chồi ngọn 1 cây hay 1 cành
có sự phân bố các thành phần hóa học khác nhau, nên phản ứng ra rễ khác nhau. Để tránh cho cành mẹ
bị stress nước, nên lấy hom vào buổi sáng khi cây ở trạng thái trương nước.
Một số chất điều hồ sinh trưởng tỏ ra có ảnh hưởng tích cực đến sự phát sinh rễ bất định. Trong
số đó, auxin có tác dụng nhất đến sự ra rễ của cành giâm.
-

Auxin: Vào những năm 30 và sau đó, người ta phát hiện ra chất auxin, là một hợp chất có tác
dụng kích thích sinh trưởng của thân, thúc đẩy sự hình thành rễ, như:
o Acid indol acetic (IAA) là auxin có bản chất tự nhiên, có tác dụng thúc đẩy hình thành rễ
bất định [43][44][45].
o Acid indol butyric (IBA) và acid naphtyl acetic (NAA) là auxin tổng hợp có tác dụng
kích thích sự ra rễ của cành giâm mạnh hơn IAA [42] [46].
Auxin có vai trị tích cực đối với sự ra rễ bất định và xác định sự phát động của các tế bào
đầu tiên phụ thuộc vào lượng auxin nội sinh cũng như auxin xử lý ngoại sinh [37].

Ứng dụng các chất điều hoà sinh trưởng thực vật trong giâm cành : Để xúc tiến sự hình thành rễ
bất định, việc xử lý các chất điều hồ sinh trưởng là cần thiết. Các nhóm chất auxin có tác dụng
kích thích sự ra rễ rất rõ rệt. Xử lý hỗn hợp các chất ra rễ tỏ ra có tác dung cao hơn xử lý riêng rẽ.

Thí dụ, hỗn hợp IBA và α-NAA có tỷ lệ 1/1 tỏ ra có hiệu quả tạo rễ rất rộng rãi cho nhiều loài cây
và cao hơn so với việc sử dụng riêng rẽ từng chất [34].

1.4.

Nghiên cứu về nuôi cấy invitro


 

Chồi ngọn sau khi vô trùng, được nuôi cấy trên mơi trường thích hợp, sẽ phát triển thành một hay
nhiều chồi. Sau đó, chồi tiếp tục phát triển vươn cao, ra lá và rễ trở thành một cây hoàn chỉnh. Cây con
được chuyển ra đất để sinh trưởng phát triển bình thường [12].
Theo Lindain và các cộng sự (2008) đã nuôi cấy in-vitro Ilang-Ilang để xác định phản ứng của
những mẫu cấy khác nhau (chồi ngọn, chồi nách, lá non bầu nỗn và cánh hoa) với 2 loại mơi trường
MS (Murashige và Skoog), WPM (Woody Plant Medium). Mô sẹo từ chồi ngọn, chồi nách và lá non
có khả năng biệt hóa tạo chồi. Với hai nguồn vật liệu cịn lại thì khơng cho chồi mặc dù cùng trong
điều kiện ni cấy như nhau. Điều này chứng tỏ nguồn gốc vật liệu đóng vai trị quan trọng trong tái
sinh [56].
Một số chất điều hịa sinh trưởng thường được dùng trong ni cấy invitro. Các chất điều hòa
sinh trưởng thực vật là những thành phần mơi trường có tính quyết định trong sự xác định con đường
phát triển của các tế bào thực vật. Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật phổ biến nhất là các hormone
thực vật hay các chất tổng hợp có chức năng tương tự của chúng. Các nhóm chất điều hịa sinh trưởng
thực vật chính được sử dụng trong ni cấy, là:
-

Auxin : Hoạt hố phân bào, sinh trưởng kéo dài, cần cho sự tạo mạch dẫn và ra rễ.[8]. Tất cả cây
trồng đều tổng hợp được auxin tuỳ theo giai đoạn phát triển của chúng. Auxins tự nhiên quan
trọng nhất là IAA (indole-3-acetic acid), nhưng nó được sử dụng hạn chế vì nó dễ bị phân hủy
bởi nhiệt và ánh sáng. Một số loại auxin tổng hợp khác như: 2,4D (2,4-dichlorophenoxy acetic

acid), IBA (Indole 3-butyric acid), NAA (1-naphthylacetic acid), …

-

Cytokinin : Kích thích mạnh lên sự phân chia tế bào với điều kiện có sự hiện diện của auxin.
Cytokinin cịn giúp sự gia tăng kích thước tế bào và sinh tổng hợp protein, ngăn cản sự lão hố
mơ, thúc đẩy sự hình thành chồi non, nhưng lại ức chế sự tạo rễ [17]. Sự sinh tổng hợp cytokinin
trong cây xảy ra ở những vùng khác nhau, đặc biệt là những nơi có sự phân chia tế bào mạnh (ở
ngọn thân ngọn rễ). Nó hiện diện hầu hết trong các mô, đặc biệt trong hạt, trái và trong rễ, tuy
nhiên rễ là nơi tổng hợp nhiều nhất. [12]

-

Gibberellin : Kích thích phân chia tế bào, mơ vỏ và biểu bì. Nhóm chất này kích thích sự kéo dài
lóng, vùa do sự kéo dài, vùa do sự phân chia tế bào thân. Gibberellin liều cao (hay phối hợp với
cytokinin) kích thích mạnh sự tăng trưởng lá.[ 8]

1.5.

Đặc điểm tự nhiên tỉnh Bình Phước


 

Bình Phước là một tỉnh miền núi ở phía Tây của vùng Đơng Nam Bộ, phía Đơng giáp tỉnh Lâm
Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương và
phía Bắc tỉnh Đắk Lắk và Campuchia.
Thí nghiệm khảo sát tính thích nghi và sinh trưởng của các cây tạo từ hạt và giâm cành được thực
hiện tại Bình Long. Địa danh này là một trong những thị xã thuộc tỉnh Bình Phước, cách Đồng Xồi
khoảng 40km, về phía đơng. Nơi này mang những đặc điểm tự nhiên và khí hậu của tỉnh Bình Phước.

1.5.1. Đặc điểm tự nhiên
Địa hình vùng lãnh thổ Bình Phước là cao ngun ở phía Bắc và Đơng Bắc, dạng địa hình đồi núi,
thấp dần về phía Tây và Tây Nam.
Tỉnh Bình Phước có tổng diện tích tự nhiên là 6.855,99 km2, có 7 nhóm đất chính với 13 loại đất.
Đất có chất lượng cao trở lên (đất đen, đất đỏ bazan, đất phù sa) chiếm 61,13% tổng diện tích tự nhiên
của tỉnh, đất chất lượng trung bình chiếm 36,90%. Là một trong những tỉnh có chất lượng đất khá tốt so
với cả nước và là điều kiện hết sức quan trọng trong việc phát triển sản xuất nơng nghiệp của tỉnh.
1.5.2. Đặc điểm khí hậu
Tỉnh Bình Phước nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, có 2
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khơ.
Nhiệt độ bình qn trong năm cao đều
và ổn định từ 25,8 - 26,2oC . Nhiệt độ bình
quân thấp nhất 21,5 – 22oC . Nhiệt độ bình
quân cao nhất từ 31,7 - 32,2oC . Nhìn chung
sự thay đổi nhiệt độ qua các tháng không lớn,
song chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm
thì khá lớn, khoảng 7 – 9oC nhất là vào các
tháng mùa khô. Nhiệt độ cao nhất vào các
tháng 3,4,5 (từ 37-37,2oC) và thấp nhất vào
tháng 12 là 19oC.
Nằm trong vùng dồi dào nắng. Tổng số
Hình 2. Bản đồ hành chính tỉnh Bình Phước

giờ nắng trong năm từ 2400 - 2500 giờ. Số


 

giờ nắng bình quân trong ngày từ 6,2 - 6,6 giờ. Thời gian nắng nhiều nhất vào tháng 1,2,3,4 và thời
gian ít nắng nhất vào tháng 7,8,9.

Lượng mưa bình qn hàng năm biến động từ 2045 - 2325 mm. Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 - 11,
chiếm 85-90% tổng lượng mưa cả năm, tháng có lượng mưa lớn nhất 376mm (tháng 7). Mùa khô từ
cuối tháng 11 đến đầu tháng 5 năm sau, lượng mưa chỉ chiếm 10 - 15% tổng lượng mưa cả năm, tháng
có lượng mưa ít nhất là tháng 2,3. Lượng bốc hơi hàng năm khá cao từ 1113 - 1447mm. Thời gian kéo
dài quá trình bốc hơi lớn nhất vào tháng 2,3,4.
Do chế độ mưa theo mùa nên biên độ giao động về độ ẩm khơng khí giữa mùa mưa và mùa khơ
khá lớn. Độ ẩm trung bình hàng năm từ 80,8 - 81,4%. Bình quân năm thấp nhất là 45,6 - 53,2%, tháng
có độ ẩm cao nhất là 88,2%, tháng có độ ẩm thấp nhất là 16%.
Các điều kiện tự nhiên và khí hậu của tỉnh Bình Phước phù hợp với đặc điểm sinh thái của cây
hoàng lan.


 

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
2.1.1. Vật liệu trong thí nghiệm giâm cành
Cành giâm (hom) là các cành tay (cành cấp 1) và thân hoàng lan được lấy từ các cây 5 – 6 tháng
tuổi đặt trong vườn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Giá thể để cắm hom là cát sạch. Nhà giâm hom được che sáng bằng lưới đen, cường độ sáng còn
40 – 50%. Trên luống giâm có khung chụp nilon trắng để giữ ẩm. Các chất điều hoà sinh trưởng được
dùng là: IBA, IAA, 2.4D, và thuốc kích thích ra rễ thương phẩm: OXYBERON Dust 0.5 (Nhật) và
N3M (Việt Nam). Và một số dụng cụ khác như : kéo cắt cành, dụng cụ chăm sóc vườn ươm, …
2.1.2. Vật liệu trong thí nghiệm ni cấy invitro
Vật liệu dùng trong ni cấy mơ Hồng lan là : Chồi ngọn và chồi nách lấy từ các cây 1 năm tuổi
mang từ huyện Giồng Trôm – Bến Tre, đặt trong vườn ươm Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm
nghiệp Nam Bộ.
Các hóa chất được sử dụng trong các thí nghiệm ni cấy chồi hồng lan như: các hóa chất khử
trùng (Javel, HgCl2), các chất điều hịa sinh trưởng (BA, IBA, NAA, GA3), các hóa chất để pha môi
trường nuôi cấy (xuất xứ từ các hãng hóa chất như: Prolab, Himedia, Merck, Sigma…). Và một số

dụng cụ khác: tủ cấy, ống nghiệm, bình tam giác, ...
Mơi trường được dùng trong các thí nghiệm là WPM (Wood Plant Media), được chuẩn pH về từ
5,7 – 5,8.
Địa điểm thực hiện: phịng thí nghiệm Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ.
2.1.3. Vật liệu trong thí nghiệm khảo sát sinh trưởng
Cây con được trồng để theo dõi sinh trưởng là những cây đã nảy mầm từ hạt (cây từ hạt) và cây
được tạo ra từ giâm cành (cây giâm cành).
Cây giâm cành là các cành giâm đã ra rễ được trồng vào các túi bầu đất, được tưới nước 2 lần/
ngày. Cây ra ngôi được 3 tháng được mang trồng ra đất, tiếp tục khảo sát sinh trưởng, để đánh giá tính
thích nghi của những cây này.


 

Tiến hành gieo hạt hoàng lan : Hạt được lấy từ các quả chín tại huyện Giồng Trơm – Bến Tre.
Các hạt được chọn đem gieo là những hạt chắc, không bị sâu bệnh. Trong lá mầm và phôi hạt Hồng
lan có nhiều dầu nên sau khi thu hoạch, loại bỏ các hạt lép, hong khô trong nắng nhẹ hoặc ở nơi mát mẻ
rồi đem gieo ngay.[16]
Đặt các hạt vào trong các đĩa Petri có giấy thấm đã
tưới ẩm, 2 – 3 ngày tưới nước và thay giấy thấm cho đến
khi các hạt nẩy mầm. Sau đó, chuyển các hạt đã nảy
mầm sang các túi bầu đựng đất, được đục lỗ xung quanh
đáy, tưới nước 2 lần/ngày vào buổi sáng và chiều. Cây
con mọc được 3 – 4 tháng, đem trồng ra đất để khảo sát
sự sinh trưởng đối chứng với các cây có từ giâm cành.

Hình 3. Gieo hạt hoàng lan

Thời gian tiến hành: tháng 05/2009. Địa điểm thực
hiện: vườn ươm Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm


nghiệp Nam Bộ.

2.2. Phương pháp tiến hành
2.2.1. Nhân giống vơ tính hồng lan
2.2.1.1.

Phương pháp giâm cành hoàng lan

2.2.1.1.1.

Tiến hành

Mỗi cành tay hoặc thân cây được cắt thành 3 đoạn: đoạn ngọn (đoạn 1), đoạn dưới ngọn (đoạn 2),
và đoạn gốc cành (đoạn 3). Hom dài khoảng 5 – 7cm, được cắt vát ở gốc. Mỗi hom có 2 lá đã bị cắt bỏ
1/2 – 1/3 lá để giảm diện tích thốt hơi nước. Hom cắt xong được nhúng vào chậu nước sạch tránh mất
nước làm giảm sức sống của hom. Tiếp tục nhúng đồng thời các cành giâm vào dung dịch chất điều
hòa sinh trưởng, sao cho dung dịch này ngập đến ¼ đoạn cành. Thời gian ngâm các cành giâm trong
dung dịch là 10 phút. Sau đó, lấy đồng thời các hom ra và cắm vào giá thể. Sau khi cắm hom, phun
nước giữ ẩm cho hom và thể nền. Hàng ngày tưới ẩm 2 lần.


 

Chất điều hồ sinh trưởng chính dùng trong các nghiệm thức ra rễ là IBA, được pha ở các mức từ
50 – 1000ppm. Bên cạnh đó, tiến hành các nghiệm thức ra rễ có sự phối hợp giữa IBA và các chất kích
thích sinh trưởng khác. Đồng thời, thực hiện nghiệm thức đối chứng bằng nước lã. Các thuốc kích thích
ra rễ được pha theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất in trên vỏ bao bì.
2.2.1.1.2.


Bố trí thí nghiệm

Các nghiệm thức ra rễ thực hiện trong giâm cành hoàng lan được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Các nghiệm thức giâm hom hoàng lan

STT

Nghiệm thức

1
2
3
4
5
6
7
8
9

Nước cất

Số
lượng
mẫu
10
10
10
10
10
10

10
10
10

Số lần
lặp

Tổng

4
4
4
4
4
4
4
4
4

40
50ppm
40
100ppm
40
IBA
500ppm
40
1000ppm
40
50ppm 2,4D

40
IBA 100ppm
100ppm IAA
40
40
Thuốc thương Oxyberon dust 0.5
phẩm
N3M
40
360
Tổng cộng
Các nghiệm thức được thực hiện trên cành tay và thân cây ở từng đoạn hom: đoạn 1, đoạn 2, đoạn

3. Như vậy, tổng số mẫu thực hiện: 360 x 3 x 2 = 2.160 mẫu.
Địa điểm thực hiện: Vườn ươm Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ. Thời gian
thực hiện từ : 06/ 2009.
Các chỉ tiêu theo dõi :
-

Thời gian ra rễ trung bình của cành giâm ở mỗi nghiệm thức (tuần).

-

Tỷ

lệ

sống

-


Tỷ

lệ

ra

(%)

rễ

(%)

của

của

các

các

cành

cành

giâm,

giâm,

tính


tính

theo

cơng

thức

theo

cơng

thức


 

-

Số lượng rễ chính trung bình/cành giâm ở mỗi nghiệm thức : Đếm tất cả rễ của các cành giâm ra
rễ ở mỗi nghiệm thức, tính tổng số rễ rồi chia cho tổng số cành giâm ra rễ.

-

Chiều dài rễ trung bình một rễ (cm): Đo chiều dài của từng rễ ở mỗi cành giâm trong từng
nghiệm thức, tính tổng các chiều dài rồi chia cho tổng số lượng rễ của các cành giâm trong
nghiệm thức đó.
2.2.1.2.


Phương pháp ni cấy mơ hồng lan

2.2.1.2.1.

Phương pháp khử trùng mẫu cấy

Các chồi dài khoảng 0.5cm không bị sâu, bệnh được chọn, đem rửa sạch, lắc trong dung dịch xà
phòng 10 – 15 phút, tráng qua nhiều lần bằng nước máy trước khi được vô trùng bên trong tủ cấy. Vô
trùng mẫu cấy bằng cồn 70o , lắc trong 5 – 10 giây, tráng mẫu bằng nước cất vô trùng 3 lần. Tiếp tục
cho các mẫu vào các dung dịch hóa chất khử trùng (Javel – Natri hypochlorite, HgCl2) ở các nồng độ
khác nhau,có bổ sung thêm 1 – 2 giọt Tween, lắc trong thời gian khác nhau, sau đó, tráng lại 3 lần bằng
nước cất. Các nghiệm thức của thí nghiệm được thiết lập và trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Các nghiệm thức khử trùng mẫu cấy trong ni cấy invitro hồng lan
STT

Nghiệm thức
Hóa chất

1

10

2
3
4

Nồng độ

Javel (%)


5

30
50

6
7

0.05

8
9
10

HgCl2

11

(mg/l)

0.07

12
13
14

0.1

Số


Số lần

Thời gian (phút)

mẫu

lặp

10

20

3

60

15

20

3

60

10

20

3


60

15

20

3

60

10

20

3

60

15

20

3

60

5

20


3

60

7

20

3

60

10

20

3

60

5

20

3

60

7


20

3

60

10

20

3

60

5

20

3

60

7

20

3

60


Tổng


 

15

10

20

3

Tổng

60
900

Thời gian theo dõi mẫu cấy sau khi khử trùng : 2 – 3 tuần. Các chỉ tiêu theo dõi:
-

Tỷ lệ mẫu vơ trùng (%): được tính theo cơng thức

-

Tỷ lệ mẫu sống vơ trùng (%): được tính theo cơng thức

2.2.1.2.2.

Phương pháp tạo chồi


Các mẫu vô trùng được cấy vào mơi trường có BA, BA phối hợp với NAA với nồng độ khác
nhau, nhằm kích thích tạo chồi. Thí nghiệm này được bố trí thơng qua bảng 4.
Bảng 4. Các nghiệm thức tạo chồi trong ni cấy invitro hồng lan
STT

Nghiệm thức

1

Đối chứng (khơng điều hịa sinh trưởng)

2
3
4

BA (mg/l)

5

Số mẫu Số lần lặp Tổng
20

3

60

0,5

20


3

60

1,0

20

3

60

2,0

20

3

60

3,0

20

3

60

6


0,2mg/l NAA + 2,0mg/l BA

20

3

60

7

0,5mg/l NAA + 2,0mg/l BA

20

3

60

8

1,0mg/l NAA + 2,0mg/l BA

20

3

60

Tổng


Thời gian theo dõi sự hình thành chồi, cụm chồi : 4 tuần.
Các chỉ tiêu theo dõi:
-

Tỷ lệ (%) mẫu tạo chồi, tính theo cơng thức

480


 

-

Số chồi trung bình/chồi, tính theo cơng thức

2.2.1.2.3.

Phương pháp vươn chồi hồng lan

Chồi hình thành được cấy chuyền vào mơi trường vươn chồi. Mơi trường WPM có GA3 ở các
nồng độ khác nhau được sử dụng, có phối hợp với BA. Các nghiệm thức được bố trí ở bảng 5.
Bảng 5. Các nghiệm thức vươn chồi trong nuôi cấy invitro hồng lan
STT

Nghiệm thức

Số mẫu Số lần lặp Tổng

1


Đối chứng (khơng điều hòa sinh trưởng)

20

3

60

2

2mg/l BA

20

3

60

3

0,5mg/l GA3 + 2mg/l BA

20

3

60

4


1mg/l GA3 + 2mg/l BA

20

3

60

5

2mg/l GA3 + 2mg/l BA

20

3

60

6

3mg/l GA3 + 2mg/l BA

20

3

60

Tổng


360

Thời gian theo dõi: 3 - 4 tuần. Chỉ tiêu theo dõi: Kích thước tăng trưởng của chồi (cm), được tính
bằng sự chênh lệch chiều cao chồi ban đầu với chiều cao chồi sau khi cấy chuyền vào môi trường có
kích tố tăng trưởng chiều cao (GA3), theo cơng thức:

, trong đó:

∆h : Kích thước tăng trưởng của chồi (cm)
h1 : chiều cao chồi ban đầu (cm)
h2 : chiều cao chồi lúc sau (cm)
2.2.1.2.4.

Phương pháp tạo rễ

Các chồi có chiều cao khoảng 2cm được chọn để tạo rễ. Chồi được cắt khỏi cụm chồi và ngâm 10
phút trong dung dịch IBA (5ppm và 10ppm) đã vô trùng, trước khi cấy vào mơi trường WPM và ½
WPM.
Các nghiệm thức trong thí nghiệm tạo rễ được thể hiện ở bảng 6.


 

Bảng 6. Các nghiệm thức tạo rễ trong nuôi cấy invitro hoàng lan
STT

Nghiệm thức

Số mẫu


Số lần lặp

Tổng

Đối chứng

20

3

60

5ppm IBA

20

3

60

3

10ppm IBA

20

3

60


4

Đối chứng

20

3

60

5ppm IBA

20

3

60

10ppm IBA

20

3

60

Mơi trường

1

2

5

WPM

1/2 WPM

6

Hóa chất

Tổng

360

Thời gian theo dõi: 4 tuần. Các chỉ tiêu theo dõi:
-

Tỷ lệ (%) chồi tạo rễ, được tính theo cơng thức

-

Số rễ trung bình/mẫu, được tính theo cơng thức

2.2.2. Khảo sát sự sinh trưởng của cây Hồng lan có từ hạt và giâm cành tại Bình Phước
2.2.2.1.

Bố trí thí nghiệm trồng cây hồng lan ở thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước


Những cây con đem trồng để khảo sát sinh trưởng là những cây được tạo từ hạt và cây từ thí
nghiệm giâm cành. Các cây này đã được đưa ra bầu đất 3 – 4 tháng, tương đối đồng đều nhau về đường
kính thân, chiều cao cây, số cành cấp I, số lá và diện tích lá.
Thí nghiệm bố trí hồn tồn ngẫu nhiên, 1 yếu tố 3 lần lặp. Trong đó, nền lập địa trồng cây là như
nhau. Các yếu tố khác tương đối đồng đều như: cây con, mật độ, kỹ thuật tác động, chăm sóc. Yếu tố
lặp: cây con từ hạt và cây con từ giâm cành.
Các hố trồng cây không được bón lót, có chiều sâu khoảng 0,5m và chiều rộng hố 0,3m. Mật độ
trồng: 1 x 1 (m2). Tổng số mẫu đem trồng là 60 cây. Tổng diện tích thí nghiệm khoảng 60m2. Các cây
hồng lan con có từ hạt và giâm cành được trồng theo sơ đồ hình 4.


 




































1m






1m 











































































Hình 4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm trồng hồng lan

Chú thích : ○ – Cây từ hạt



● – Cây từ giâm cành

Trong những tháng mùa khô (tháng 05 và 06/2010), chúng tôi tưới nước cho cây 2 lần/ngày vào
buổi sáng và buổi chiều, mỗi lần 1000ml nước. Số liệu sinh trưởng được thu thập 1 lần/tháng, đo tất cả
các cây sau đó tính trung bình theo từng cơng thức, từng lần lặp.
Địa điểm thực hiện: vườn tại thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Thời gian tiến hành và khảo sát:
từ tháng 04 – 09/2010.
2.2.2.2.

Phương pháp đo chiều cao trung bình cây và đường kính trung bình thân cây

Đo chiều cao trung bình cây H (cm) : Dùng thước cây đo từ gốc sát mặt đất đến đỉnh ngọn cây,
một tháng 1 lần.
Tăng trưởng chiều cao cây : Δh (cm) = Hn+1 – Hn.
Hn: Chiều cao cây đo lần thứ n.
Hn+1: Chiều cao cây đo lần thứ n+1.
Đo đường kính trung bình thân cây D (mm): Dùng thước kẹp để đo ở vị trí kế dưới 2 lá đầu

tiên trong suốt q trình thí nghiệm.
Tăng trưởng đường kính thân: Δd = Dn+1 – Dn
Dn: Đường kính thân cây đo lần thứ n.
Dn+1: Đường kính thân cây đo lần thứ n+1.
2.2.2.3.

Thống kê số lá trung bình/cây


 

Đếm tất cả số lá có trên cây vào mỗi tháng, cùng ngày với đo chiều cao và đường kính thân cây.
Tính số lá trung bình qua mỗi tháng để tính được sự tăng trưởng số lá trung bình qua mỗi tháng. Tăng
trưởng số lá trung bình (ΔL): ΔL = Ln+1 – Ln
Ln : Số lá đếm được lần thứ n.
Ln+1 : Số lá đếm được lần thứ n+1.

2.2.2.4.

Tính diện tích lá trung bình/cây

Tiến hành đo diện tích lá mỗi tháng cùng ngày đo chiều cao và đường kính thân cây. Chọn 3 lá
bánh tẻ ở mỗi cây và vẽ lá lên giấy kẻ li. Tính diện tích trung bình của 1 lá và diện tích lá trung
bình/cây (S), như sau :

2.2.2.5.

Thống kê số cành cấp I/cây (C)

Thống kê số cành cấp I có trên cây cùng ngày với đo chiều cao và đường kính thân, đếm tất cả các

cành cấp I của tất cả các cây theo mỗi lần lặp, từ đó tính số cành cấp I trung bình /cây ở mỗi tháng và
tính tăng trưởng số cành cấp I/cây. Tăng trưởng số cành cấp I : ∆C = Cn+1 - Cn
Cn : Số cành cấp I trung bình/cây đo lần thứ n.
Cn+1 : Số cành cấp I trung bình/cây đo lần thứ n+1.
2.2.2.6.

Phân tích thành phần cơ giới và hóa học của đất

Lấy mẫu đất của 3 lơ ở tầng 0 – 80cm tại khu vực trồng cây, đem phân tích thành phần cơ giới và
thành phần hóa học tại Phân viện Nghiên cứu Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ.
2.2.2.7.

Phương pháp đo cường độ ánh sáng


 

Dùng máy ANNA F11 để đo cường độ ánh sáng ở mỗi lơ thí nghiệm. Đo ở vị trí trồng cây cách
mặt đất 1m, đặt máy hướng về phía đơng và đo cường độ ánh sáng.

2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Dùng toán thống kê, phần mềm excel 2010 và Stagraphic Sgwinplus 3.0 để xử lí các số liệu thu được.
Các giá trị cần thực hiện phân tích như:
-

Giá trị trung bình:

=

: Giá trị trung bình

Xi : Trị số đo đếm
n : Số mẫu đo đếm

-

Độ lệch tiêu chuẩn : Phản ánh độ sai lệch hoặc độ dao động của các giá trị so với giá trị trung
bình.
S=

với i = 1,2,…n

Trong đó : S là độ lệch chuẩn, n là số mẫu quan sát, Xi là trị số đo đếm,
-

là giá trị trung bình.

So sánh trung bình 2 mẫu :

Tính các giá trị trung bình , . Xét tỉ số t =

, nếu t > 1,96 thì

với độ tin cậy 95%.


×