Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chinh sach ngon ngu o Viet Nam qua FChinh sach ngon nguo Viet Nam qua cac thoi ki lich sudoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.67 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử</b>



<i><b>• Nguyễn Thiện Giáp</b></i>

<b>1. Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945</b>



<i><b>1.1.</b></i> Trong thời kì Bắc thuộc, bọn phong kiến Trung Quốc dù cai trị trực tiếp hay gián tiếp,


cũng thi hành một chính sách nhất qn là đồng hố Việt Nam về chính trị và văn hố. Tiếng
Hán và chữ Hán trở thành một công cụ hữu hiệu trong hành chính và nhiều lĩnh vực khác. Sử
có nhắc tới vai trò của Sĩ Nhiếp (làm Thái Thú Giao Chỉ vào khoảng 187–226) với tư cách là


<i>Nam bang học tổ</i>, tức là người đầu tiên tổ chức việc học ở Việt Nam. Nhưng thực tế vào thời
Bắc thuộc quan cai trị chỉ tổ chức dạy chữ Hán cho một số người Việt, đủ để làm công chức
trong bộ máy cai trị của người Hán chứ chưa phải là dạy Nho giáo nhằm mục đích thi cử.
Trong thời kì này, các chùa mới là các trung tâm văn hoá và nhân dân học chữ Hán ở các chùa
chứ không phải các trường do người Trung Quốc dựng nên. Theo sử sách, dưới thời Bắc thuộc,
đã có một ít người giỏi chữ Hán, nhưng vẫn chưa có chế độ học tập chữ Hán quan trọng ngồi
các chùa. Ai muốn đi thi thì phải sang Trung Quốc, như Trương Trọng, Lí Cầm, Lí Tiến, Khương
Công Phụ. Cho đến trước thế kỉ XI, những người tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam vẫn là các
nhà sư.


<i><b>1.2.</b></i> Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập từ tay người Hán. Do nhu cầu phải đua tài


với Trung Quốc để củng cố độc lập bằng văn hố, Việt Nam có nhu cầu tiếp thu văn hố Hán.
Việc học chữ Hán có quy mơ chỉ bắt đầu từ thời độc lập. Về vấn đề này, chúng ta không quên
công lao của các vị vua khai quốc thời Lí–Trần. Khi đất nước giành được quyền độc lập, định


hướng cơ bản về ngôn ngữ văn tự là: <i>tiếp tục dùng chữ Hán, coi đó là nền văn tự chính thức</i>


<i>của nhà nước</i>. Căn cứ vào những tài liệu còn lưu giữ được thì năm 1018 vua Lí Thái Tổ sai
Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào Kho Đại Hưng;


1075 vua Lí Nhân Tơng mở Khoa thi Tam trường để tuyển người ra làm quan, năm sau vua lập
Quốc Tử Giám, tổ chức giảng dạy và đến năm 1086 Vua lại mở khoa thi chọn người vào Hàn
Lâm Viện. Theo Nguyễn Tài Cẩn, "Tri thức Hán học của người Việt ở giai đoạn Ngơ, Đinh, Lê là
một sản phẩm cịn lưu lại của chế độ Bắc thuộc, còn tri thức Hán học của người Việt từ đời Lí
trở về sau lại là sản phẩm của một sự định hướng có ý thức của một triều đình nước Việt độc
lập. Sự định hướng này làm cho Việt Nam đi hẳn vào khu vực văn hoá Hán, đứng bên cạnh
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Về mặt ngôn ngữ, sự định hướng này làm cho tiếng Việt đi
xa dần các ngôn ngữ bà con vốn cùng gốc Mon Khmer như mình: Mường, Poọng, Chứt, Cơtu,
Bana, Môn, v.v."(1)


Nhà Trần và các triều đại tiếp theo vẫn tiếp tục sự nghiệp của nhà Lí, cũng tổ chức học
hành thi cử bằng chữ Hán, cũng sáng tác bằng chữ Hán.


Thực tiễn lịch sử chứng tỏ rằng định hướng ngôn ngữ văn tự của các triều đại Việt Nam đã
khiến cho sự tiếp xúc văn hố–ngơn ngữ Việt–Hán phát triển. Hệ quả là:


– Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nơm để ghi lại tiếng nói của mình.


– Tiếng Việt đã tiếp thu các yếu tố Hán Việt và các yếu tố Hán Việt Việt hoá làm phong phú
kho từ vựng của mình.


– Hình thành cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của người Việt Nam.


Trong cuốn <i>Từ vựng tiếng Việt</i> năm 1978, Nguyễn Thiện Giáp xác định cách đọc Hán Việt


như sau: "Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam của người Việt Nam. Cách đọc đó
phản ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường được dạy và học ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Tất nhiên so với dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường thì cách đọc Hán Việt cũng đã được


Việt hố ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt thời đó"(2)<sub>. Gần đây, trong</sub>



bài <i>Mối quan hệ giữa âm Hán Việt và phương ngữ tiếng Hán nhìn từ đặc điểm âm đầu</i>(3)<sub>, Lê</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

quản của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ, Việt Nam chịu ảnh hưởng của trung tâm chính trị, văn hố thời
bấy giờ là điều tất nhiên. Trong thời gian Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ, âm Hán mà người
Việt học không phải là âm Trung Nguyên, mà là âm của một phương ngữ nào đó lúc bấy giờ.
Các tác giả khẳng định phương ngữ Hán này phải là phương ngữ Quảng Tín. Bản thân Sĩ Nhiếp
chính là người Quảng Tín Xương Ngơ, phương ngữ Quảng Tín lại là phương ngữ quyền uy thời
kì đó, dạy học sinh Việt Nam bằng phương ngữ Quảng Tín cũng là điều bình thường. Vì trung
tâm chính trị Lĩnh Nam di chuyển sang phía đơng (năm 217 Tơn Quyền rời trung tâm chính trị
Lĩnh Nam từ Quảng Tín Xương Ngơ đến Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay) Nam
Hải) và theo di chuyển của người Hán, phương ngữ Quảng Tín phân hố dần, cho nên hình
thành đối ứng không đồng đều về đặc trưng ngữ âm giữa âm Hán Việt và mấy phương ngữ
Hán hiện đại.


<i><b>1.3.</b></i> Trên cơ sở của chữ Hán, dựa vào nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, người Việt Nam đã


sáng tạo ra chữ Nơm, một thứ chữ ghi lại tiếng nói của dân tộc. Ban đầu, chữ Nôm mới chỉ là
những kí tự dùng để phiên âm các từ ngữ nước ngoài, những địa danh, nhân danh ở Việt Nam
mà vốn chữ Hán không thể thể hiện được. Khi hệ thống văn tự Nơm được hình thành và việc
sáng tác thơ văn bằng chữ Nơm đã trở thành phong trào thì có sự phân cơng giữa chữ Hán và
chữ Nơm về mặt chức năng: chữ Hán dùng trong hành chính, giáo dục, trong giao tiếp triều


chính, cịn chữ Nơm thì dùng trong giao tiếp, văn chương bình dân. Theo Phan Huy Chú(4)<sub>, Lê</sub>


Thánh Tơng làm vua 38 năm, mở 12 kì thi, lấy đỗ 501 tiến sĩ, trong số đó có 9 trạng nguyên.
Tuy coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, nhưng phong trào sáng tác bằng chữ Nôm vẫn phát triển
mạnh. Quan lại, nho sĩ đua nhau làm thơ bằng chữ Nơm. Ngay vua Lê Thánh Tơng cũng có
nhiều thơ Nơm được truyền tụng trong lịch sử.



Cái tâm lí "trọng chữ khinh Nơm" có ở hầu hết các nhà nho: sáng tác về những đề tài
trang trọng, nghiêm chỉnh thì dùng chữ Hán, làm thơ để chơi, để mua vui thì dùng Nơm. Tuy
nhiên, cùng với bước trưởng thành của chữ Nơm, vị thế của nó cũng dần thay đổi. Nguyễn Trãi
hết lịng tơn trọng ngơn ngữ dân tộc, tin yêu ngôn ngữ dân tộc. Tất cả các bài thơ Nơm của
Nguyễn Trãi đều nói đến những cái chân thành nhất, trang nghiêm nhất: nói đến chí hướng,
nói đến đạo lí, nói đến lẽ sống ở đời,... Với ý thức tự cường dân tộc, dưới thời nhà Hồ, Hồ Quý
Li đã có một quyết sách lớn nhằm nâng cao vị thế của chữ Nôm. Tương truyền, Hồ Quý Li đã


dịch <i>Kinh Thi, Kinh Thư</i> ra chữ Nôm để dạy cho các cung nữ. Điều này chứng tỏ Hồ Quý Li đã


có chủ trương đưa chữ Nơm vào lãnh vực giáo dục. Rất tiếc, công cuộc cải cách của nhà Hồ bị
chặn lại bởi gót giày xâm lược của nhà Minh. Nhà Minh thi hành chính sách đồng hố rất tàn
bạo. Chúng đã đốt phá các văn liệu, sử liệu Việt, trong đó có cả những tài liệu ghi chép bằng
chữ Nơm. Vì thế những tài liệu bằng chữ Nơm thời Hồ Quý Li đều đã thất truyền.


<i><b>1.4.</b></i> Chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo chế tác từ thế kỉ XVII với mục đích chính là


truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam và học tiếng Việt, hiểu được về đất nước và con người
Việt Nam. Muốn truyền bá đạo của mình, cần phải có phương tiện giao tiếp. Thực tế, nhân dân
Việt Nam rất ít người đọc được chữ Nơm, vì thế khơng thể dựa vào chữ Nơm để truyền bá tư
tưởng Thiên Chúa giáo vào nhân dân. Vấn đề đầu tiên là phải học tiếng Việt. Các giáo sĩ
phương Tây đã tạo ra một hệ thống kí tự ghi tiếng Việt dựa trên hệ chữ cái La tinh. Những
năm đầu của thế kỉ XIX hệ thống kí tự này được gọi là chữ Quốc ngữ, mặc dù theo nghĩa đen
thì chữ Nơm cũng là chữ quốc ngữ. Từ khi xuất hiện chữ Quốc ngữ, thế tương quan giữa các
ngơn ngữ, văn tự trên diễn đàn văn hố Việt Nam khác với các giai đoạn trước: Có hai ngơn
ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán, với ba loại chữ viết là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.


Trong ba loại chữ viết thì chữ Hán vẫn chiếm vị thế số một, sau đó đến chữ Nơm, cuối
cùng là chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, trong thời kì này đã nảy sinh sự tranh chấp giữa chữ Hán và
chữ Nơm. Văn học chữ Nơm thời kì này có sự phát triển toàn diện về lượng cũng như về chất.


Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều bất hủ đều
xuất hiện trong giai đoạn này. Không những thế, chữ Nôm không chỉ được dùng để ghi lại văn


chương bình dân mà còn được dùng cả trong những lĩnh vực khác nữa. Căn cứ vào "<i>Di sản</i>


<i>Hán Nôm Việt Nam, Thư mục đề yếu</i>" do Viện Hán Nôm biên soạn với sự cộng tác của nhóm
học giả Trường Viễn đơng Bác cổ Pháp, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, trong số 5038


quyển, có một số quyển viết bằng chữ Nơm. "<i>Vận niên ca diễn âm</i>" là một quyển sách về ảnh


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

có bao nhiêu. Sách giáo khoa về sử Việt Nam, có một cuốn bằng chữ Nơm. Về ngoại giao,


cuốn "<i>Chuyến sang Pháp của sứ bộ triều Nguyễn</i>" viết bằng thơ lục bát. Về luật pháp, có


<i>Hồng triều luật lệ tốt yếu diễn ca</i> bằng chữ Nơm, <i>Dân luật Bắc Kì</i>, diễn Nơm thời Khải Định.
Tầng lớp nho sĩ gần gụi nhân dân lao động đã dùng chữ Nôm để sáng tác văn chương, ghi
chép các sự kiện xã hội, lịch sử với cách nhìn khác với cách ghi chép chính thức bằng chữ Hán,
có những tác phẩm tiến bộ, chứa đựng những tư tưởng trái với quan điểm và đạo lí chính
thống. Vào giai đoạn cuối của nhà Lê, nhà cầm quyền không những coi thường mà cịn e ngại
chữ Nơm, có những hoạt động tiêu cực đối với chữ Nơm, thậm chí cịn đốt rất nhiều văn liệu
viết bằng chữ Nôm. Năm 1663 đời Lê Huyền Tông, Trịnh Tạc đã yêu cầu Phạm Công Trứ viết
47 điều giáo hố bằng chữ Hán, trong đó điều 35 chủ trương cấm đốn và phá hoại các tác


phẩm Nơm. Năm 1718 lại có lệnh của Trịnh Cương như sau: "Phủ liệu(5)<sub> vâng lời truyền cho</sub>


quân dân trong nước biết rằng: phàm sách vở có quyển nào quan hệ đến sự giáo hoá trong đời
mới được khắc in và lưu hành. Lâu nay, những bọn hiếu sự lượm nhặt bậy bạ các tạp truyện


và bỉ ngữ(6)<sub> bằng quốc âm, không phân biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm</sub>



cấm. Từ nay nhà nào có in những sách như thế, cho trình quan đến bắt và tịch thu ván in phá


hết"(7)<sub>. Năm 1760, Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản diễn Nơm 47 điều giáo hố ra lục bát để</sub>


tiện phổ biến.


Ngược lại, nhằm tăng cường tính tự tôn và tinh thần dân tộc, triều đại Tây Sơn của Nguyễn


Huệ đã chủ trương dùng tiếng Việt và chữ Nơm trong <i>hành chính (giấy tờ của Nhà nước),</i>


<i>trong giáo dục, thi cử và trong tế lễ thiêng liêng</i>. Đây là <i>Chiếu</i> của Bình Định Vương Nguyễn
Huệ gửi cho Nguyễn Thiếp năm 1788:


"Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khâm tri:


Ngày trước uỷ cho phu tử về Nghệ An tướng địa làm đơ cho kịp kì này hồi ngự. Sao về tới
đó chưa thấy đặng việc nhỉ. Nên hãy giá hồi Phú Xuân Kinh, hưu tức sĩ tốt.


Việc chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi, tướng
địa tu đô tại Phú Thạch hành cung sao cho hậu cận sơn, kì chính địa phịng tại dân cư chi gian
hay là đâu cát địa khả đô, duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành.


Uỷ cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kì tam nguyệt nội hồn thành, đắc tiện giá ngự.
Duy phu tử vật dĩ nhàn hốt thị.


Khâm tai! Đặc chiếu.


Thái Đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật"(8)<sub>.</sub>


Trong giáo dục và thi cử, triều đại Tây Sơn quy định: Mỗi khoa thi, ở vòng ba ("đệ tam


trường"), thí sinh phải làm bài bằng chữ Nơm. Tương truyền, Hồng đế Quang Trung cịn lệnh
cho Nguyễn Thiếp dịch kinh, truyện ra tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, nhưng các bản dịch ấy
đã bị mất cả.


Như ta biết, việc tế lễ trước đây, văn tế, sớ... phải viết bằng chữ Hán, khấn bằng tiếng
Hán. Nhưng trong lễ tang Hồng đế Quang Trung, triều đình và họ hàng nhà vua đều dùng
văn tế bằng tiếng Việt, chữ Nôm và năm bài văn tế do Phan Huy Ich làm vẫn còn được lưu
truyền tới ngày nay.


Nhà Tây Sơn đổ, những cố gắng của Nguyễn Huệ nhằm khẳng định vị thế của tiếng Việt và
chữ Nôm lại trở về trạng thái như cũ.


Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tận dụng được nhiều ưu điểm riêng, vốn có của hệ chữ La Tinh,
nhưng việc sử dụng hệ thống này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các văn liệu tôn giáo, trong
giao dịch giữa những người cùng giáo xứ, giáo đoàn. Hai thế kỉ sau khi được chế tác, chữ Quốc
ngữ đã trở thành một công cụ hữu hiệu, giúp người Pháp, quân đội Pháp xâm lược và chia tách
đất nước Việt Nam thành ba miền.


<i><b>1.5.</b></i> Dưới thời cai trị của thực dân Pháp (1861–1945), trên diễn đàn văn hoá Việt Nam, có


ba ngơn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt, văn ngôn Hán và bốn văn tự là Pháp, Quốc ngữ, Nơm và
Hán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Chính sách của nhà cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam là đồng hố về ngơn ngữ
và văn hố. Mọi quyết sách đưa ra đều nhằm mục đích cuối cùng và tối thượng là làm cho
người Việt Nam chấp nhận sử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp; chấp nhận văn hố, chính trị Pháp;
lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam, hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng
của văn hố Hán đối với Việt Nam.


Etienne Aymonier, một cơng sứ Pháp ở Bình Thuận, năm 1886, đã viết: "Chúng ta phải


gieo rắc vào người An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ
cấp cao; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học
hỏi tiếng Trung Quốc". Năm 1890, ơng cịn viết: "Thực ra, vấn đề được đặt ra là thay thế trong
chương trình dạy chính thức, tiếng Trung Quốc, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng
tiếng Pháp, ngôn ngữ của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước là sự sử dụng
ngôn ngữ này sẽ toả lan càng ngày càng lớn". Ơng nguyện ước:


– "Chương trình dạy chính thức ở Nam Kì thuộc Pháp sẽ được đặt cơ sở trong một chừng
mực tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp.


– Trên tồn cõi Đơng Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện
để thúc đẩy tiếng Pháp...


– Chớ nên dạy tiếng Pháp riêng cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, mà phải nhắm vào
những đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn là nhắm vào từng nhóm làng xã,
chỗ này chỗ kia, trước tiên là ở những vùng phụ cận những trung tâm Âu Tây, hay trong
những làng thiên chúa giáo, ở tất cả những nơi mà thiện chí được bộc lộ. Đó là cách mà tôi gọi
là <i>cắm ngôn ngữ vào đất bằng cách cho nó bắt rễ</i>"(9)<sub>.</sub>


Thực tế nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam đã dùng tiếng Pháp, chữ Pháp trong văn kiện,
giấy tờ của bộ máy cai trị ; tăng cường việc giảng dạy tiếng Pháp trong nhà trường, hạn chế
vai trò của tiếng Hán và chữ Hán. Theo Nguyễn Phú Phong, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt
Nam được bắt đầu khởi sự năm 1866 nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ và giáo hội,
chính quyền thuộc địa trợ cấp cho các trường học do giáo hội tổ chức. Ngày 21-12-1917, Tồn


quyền Albert Saraut kí <i>Nghị định Học chính tổng quy</i> (Règlement général de l' instruction


publique) và đăng lên cơng báo ngày 10/4/1918. Học chính tổng quy đã thay đổi thi Hương thi
Hội: Năm 1916 bãi bỏ các Kì thi Hương và năm 1919 thì thi Hội cũng bị bãi bỏ. Học chính tổng
quy quy định việc dạy tiếng Pháp và môn Hán tự như sau:



– Dạy tiếng Pháp (tập đọc, ám tả, học mẹo, làm văn) ở lớp nhì và lớp nhất, mỗi tuần ít ra
là 12 giờ.


– Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ rưỡi vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị: "Dạy
Hán tự phải theo chương trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường
phải có mặt ở lớp để giữ kỉ luật, khơng nên để thầy đồ dạy một mình".


Muốn truyền bá tiếng Pháp và văn hoá Pháp, nhằm củng cố nền thống trị của thực dân
Pháp ở Việt Nam, nhà cầm quyền Pháp buộc phải dùng tiếng Việt làm phương tiện chuyển
ngữ. Vì thế, song song với việc dạy tiếng Pháp cho người Việt thì việc dạy tiếng Việt cho các
viên chức hành chính Pháp cũng được đặt ra. Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết
lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ đều
là những văn tự ghi tiếng nói của người Việt Nam, nhưng chữ Quốc ngữ rất gần chữ Pháp, lại
rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so với chữ Nơm nên ngưịi Pháp đã chọn chữ Quốc ngữ
làm phương tiện dạy-học tiếng Việt. Chính nhờ thế mà chữ Quốc ngữ vốn chỉ được dùng hạn
chế trong phạm vi tôn giáo, trong giao dịch giữa các giáo dân đã dần dần trở thành một


phương tiện giáo dục chung. Thực dân Pháp cho phép dạy <i>chữ quốc ngữ và tiếng Việt</i> trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

để thực hiện chủ trương dùng chữ Quốc ngữ ghi tiếng Việt thay thế chữ Nôm. Năm 1917, Báo
Nam Phong ra đời. Ngay ở trang đầu ghi rõ:" Mục đích báo Nam Phong là thể cái chủ nghĩa
khai hoá của nhà nước, biên tập những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở
mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các khoa học của Thái Tây,
nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái quốc tuý của nước Việt Nam ta, cùng bênh
vực quyền lợi người Pháp người Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về
sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An Nam". Về hành chính, một cơng
văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc Kì định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc quảng bố như
nghị định, quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Cơng văn này
cũng nói thêm rằng việc dùng quốc ngữ phải áp dụng cho thư tín thường lệ giữa các quan triều


Nguyễn và chính quyền Pháp, và cho các thông tri của các quan lại gửi đến người dân. Năm
1909, ở Hà Nội có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt để phổ biến và quảng bá chữ quốc
ngữ. Hội này cịn có tên là Bác Văn Hội nhắm đến những mục đích sau đây:


– Đưa ra mắt những tác phẩm văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông (chữ nho hay
chữ nôm) bằng cách dịch ra quốc ngữ hay tiếng Pháp;


– Dịch ra quốc ngữ những sản phẩm của tri thức Pháp về những mơn khoa học, nghệ
thuật, luật, kinh tế chính trị, văn học, với dụng ý là ổn định... ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói


của xứ An Nam... (<i>Dẫn theo Nguyễn Phú Phong, sđd., trang 79, 92, 97, 103</i>).


Mặc dù người Pháp chủ trương sử dụng chữ Quốc ngữ và tiếng Việt làm chuyển ngữ nhưng
với thái độ dè dặt. Trước Cách mạng tháng tám, tiếng Việt chỉ được dùng vào công việc giáo
dục chủ yếu ở lớp đồng ấu (lớp Một ngày nay), còn từ lớp dự bị đến lớp sơ đẳng (tương đương
với lớp Hai và lớp Ba ngày nay), học sinh phải theo chế độ song ngữ Việt–Pháp; từ năm thứ tư
đến hết năm thứ sáu tiểu học, tiếng Pháp đã chiếm địa vị áp đảo; từ cấp trung học trở lên,


tiếng Pháp chiếm địa vị độc tơn(10)<sub>. Lí do cơ bản là thực dân Pháp muốn tiếng Pháp chiếm vị trí</sub>


độc tơn. Lúc đầu thì lấy lí do "vì những thứ chữ như chữ Quốc ngữ, (...) đã thành ra văn tự gì
có tiếng trong thế giới đâu, vả ai cũng biết rằng hãy còn khuyết điểm nhiều lắm, chưa có đủ


những danh từ về khoa học để diễn những môn học mới của Thái Tây" (Saraut – <i>Dẫn theo</i>


<i>Nguyễn Phú Phong, sđd., trang 98</i>). Về sau, khi tiếng Việt và chữ Quốc ngữ đã phát triển thì
nhiều người Pháp lại e sợ sức mạnh tiềm ẩn của chữ Quốc ngữ, nó có thể trở thành một công
cụ để thống nhất tiếng Việt, thống nhất người Việt chống lại tiếng Pháp, người Pháp.


Một bộ phận trí thức Việt Nam đã cực lực chống lại các chính sách ngơn ngữ của nhà cầm


quyền Pháp. Họ quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang, là công cụ truyền bá
đạo thiên chúa, không phải là đạo gốc của dân tộc. Họ muốn duy trì học chữ Hán bởi vì học
chữ Hán là được giáo dục về ln lí về lịch sử, cịn học chữ Quốc ngữ thì chỉ như một trị chơi,
khi người ta biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ người ta không biết gì cả. Với quan niệm như vậy,
các trí thức u nước, chống Pháp đều sáng tác bằng chữ Nôm. Năm 1867, Nguyễn Trường Tộ
chính thức đề nghị triều đình Huế sử dụng chữ Nôm, đề nghị này làm cho nhà cầm quyền chú
ý đến chữ Nôm, song sự chú ý đó chỉ là để chống lại việc tiếp tục sử dụng chữ Hán tại triều
đình Huế chứ khơng phải là sự chống lại việc sử dụng chữ Quốc ngữ.


Những trí thức có tinh thần dân tộc, muốn hiện đại hố đất nước đã sớm nhận ra vai trò
của chữ Quốc ngữ. Bởi vì cơng việc hiện đại hố cần phải có sự thay đổi mà sự thay đổi trước
tiên là sự thay đổi về văn tự. Cần phải dạy trẻ biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ và chỉ có việc học
tập bằng tiếng mẹ đẻ mới đem lại hiệu quả thiết thực mà thôi. Cuối thế kỉ XIX, các trí thức
Nam Kì như Trương Vĩnh Kí, Hnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Kí, Nguyễn Trọng
Quản, v.v... là những người đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển


tiếng Việt. Đầu thế kỉ XX ở Miền Bắc, hoạt động của <i>Đông Kinh Nghĩa Thục</i> (1907) cũng đã


dấy lên phong trào học chữ quốc ngữ, coi chữ quốc ngữ là phương tiện khai hoá quốc dân. Các
cụ khẳng định:


Chữ quốc ngữ là hồn trong nước
Phải đem ra tính trước dân ta
Sách các nước, sách Chi Na
Chữ nào chữ ấy dịch ra cho tường.


Trong <i>Văn minh tân học sách</i> của Đơng Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết: "Người trong nước


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

bà, trẻ con đều biết chữ và người ta có thể dùng Quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời
nay... Đó thực là bước đầu tiên để mở mang trí khơn vậy".



Tiếp đó, năm 1938 Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và hoạt động của hội này
đã có tác dụng to lớn trong việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Theo số liệu của UNESCO năm
1984, vào năm 1938, Việt Nam có khoảng 95% dân số mù chữ. Tính đến Cách mạng tháng
Tám, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ đã giúp cho 70.000 người thoát nạn mù chữ.


Dù xu hướng chính trị khơng giống nhau, nhưng tất cả những hoạt động báo chí và văn
học bằng chữ quốc ngữ trước cách mạng đều có tác dụng truyền bá chữ quốc ngữ và phát
triển tiếng Việt: Phía thực dân Pháp thì xem chữ Quốc ngữ là cơng cụ hữu hiệu để đồng hố
dân tộc Việt Nam, phía những sĩ phu yêu nước Việt Nam thì kẻ trước người sau cũng đều nhận
thấy chữ Quốc ngữ là vũ khí sắc bén trong công cuộc phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu
nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà.


<b>2. Chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến </b>


<b>nay</b>



<i><b>2.1. Bối cảnh ngôn ngữ và xã hội ở Việt Nam sau cách mạng</b></i>



Tháng Tám năm 1945, toàn thể nhân dân Việt Nam vùng lên làm cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Nước Việt Nam ta đã trở thành một quốc gia độc lập. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ đã ra đời. Tiếp theo đó, nhân dân ta phải tiến hành cuộc trường kì kháng chiến
chống thực dân Pháp quay lại xâm lược ta một lần nữa, rồi cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu
nước vĩ đại, mãi tới năm 1975 đất nước ta mới hoàn toàn được thống nhất, độc lập. Chính sách
ngơn ngữ trong thời kì này chủ yếu là chính sách ngơn ngữ của Đảng Cộng sản và Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng như Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngồi
ra, cũng nói đến chính sách ngơn ngữ của những chính quyền thân Pháp, thân Mĩ ở Sài Gòn
trước đây.


Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài dân tộc Kinh là dân tộc chiếm 85% dân số,
cịn có 53 dân tộc khác, thuộc các ngữ hệ khác nhau.



Thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), có những ngơn ngữ như: <i>Kinh (Việt), Mường, Nguồn,</i>


<i>Poọng, Thổ, Cuối, Đan Lai, Li hà, Rục, Mày, Sách, Mã Liềng, Kri (Phọong), Aream, Mảng, Khơ</i>
<i>Mú, Xinh Mun, Kháng, Ơ Đu, Bru-Vân Kiều, Pacô, Tà Ôi, Cơ Tu, Bana, Co, Ca Dong, Ha Lăng,</i>
<i>Giẻ, Triêng, Xơđăng, Rơngao, Takua, Hrê, Mơ Nâm, Ve, Rơ Mân, Tơ Drạ, Brâu, Cơho, Mnông,</i>
<i>Mạ, Xtiêng, Chơro, Khmer Nam Bộ</i>.


Thuộc ngữ hệ Thái–Ka Đai, có: <i>Tày, Nùng, Cao Lan, Thu Lao, Thái Đen, Thái Trắng, Thái</i>


<i>Đỏ, Thái Thanh, Thái Dọ, Thái Hàng Tổng, Lào, Lự, Tày Nặm, Pa Dí, Giáy, Bố Y, Tu Dí, Pu Nà,</i>
<i>Tống, Thuỷ, Laha, La Chí, Pupéo, Cơ Lao, Nùng Vẻn</i>.


Thuộc ngữ hệ Mèo–Dao (Hmong–Mien), có: <i>Mông, Na Mẻo, Pà Thẻn, Miền (Dao Đỏ, Dao</i>


<i>Đeo Tiền, Dao Cooc Ngáng, Dao Ôgang, Dao Quần Chẹt, Dao Đại Bản, Dao Tiểu Bản...), Mùn</i>
<i>(Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao áo Dài, Dao Họ, DaoTuyeenr, Dao Làn Tẻn,...)</i>


Thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), có: <i>Chăm Đơng (Chăm Ninh – Bình Thuận), Chăm</i>


<i>Tây (Chăm An Giang, Tây Ninh), Êđê, Giarai, Raglai, Hroi, Churu</i>.


Thuộc ngữ hệ Hán–Tạng, có: <i>Hoa, Lơlơ, Hà Nhì, La Hủ, Sila, Cống, Xá Phó, Phù Lá</i>.


Trong các ngơn ngữ trên, chỉ một số ngơn ngữ có chữ viết cổ truyền, đó là các chữ: Chữ
Nơm Tày; các loại chữ Thái cổ ở Tây Bắc, Quỳ Châu, Man Thanh, Lai Pao; chữ Hán; chữ viết tự
dạng Sanscrit của Khmer; chữ Nôm Nùng; chữ Chăm cổ; chữ viết tự dạng Sanscrit của Lào;
chữ Nôm Dao; chữ Nôm Cao Lan.


Đặc điểm nổi bật của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là sống đan xen nhau khiến cho


trạng thái đa ngữ xã hội là trạng thái phổ biến ở các vùng dân tộc thiểu số. Tiếng Việt được coi
là <i>ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc</i>. Bên cạnh đó, một số ngơn ngữ như tiếng Thái, tiếng


Tày, tiếng Nùng,...cũng được coi là <i>ngôn ngữ vùng</i>, tức là phương tiện giao tiếp giữa các dân


tộc cùng chung sống trong vùng nào đó.


Nói đến chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945, cần đề cập đến
ba mảng sau đây:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

– Chính sách đối với tiếng Việt;
– Chính sách đối với các ngoại ngữ


<i><b>2.2. Chính sách đối với ngơn ngữ của các dân tộc thiểu số</b></i>



Đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương tôn trọng
tiếng mẹ đẻ của các dân tộc, bảo đảm sự phát triển tự do và bình đẳng của tất cả các ngôn
ngữ dân tộc ở Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng khi mới thành lập (1930) đã đề ra
chính sách "đoàn kết dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng và tương trợ lẫn nhau để
giành lại độc lập và hạnh phúc chung cho các dân tộc". Chính cương của Đảng năm 1951 ghi
rõ: "Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,...
Cải thiện đời sống cho các dân tộc ít người, giúp đỡ họ tiến bộ về mọi mặt, bảo đảm để họ
tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo dục ở các địa phương".


Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ thơng qua ngày 9/11/1946, có viết:


– "Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình"
(điều thứ 15).


– "Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước tồ án" (điều thứ 66).


Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Chủ tịch nước công bố ngày
01/01/1960, viết chi tiết hơn:


– "Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết,
phát triển văn hố dân tộc của mình" (điều 3).


– "Tồ án nhân dân bảo đảm cho cơng dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thuộc các
dân tộc thiểu số có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Tồ án" (điều 102).


Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, viết:


– "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục,
tập quán, truyền thống và văn hố tốt đẹp của mình" (điều 5).


– "Tồ án nhân dân bảo đảm cho cơng dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tồ án" (điều 60).


Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992 bổ sung thêm như sau:
– "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hố tốt đẹp của mình" (điều 5).


– "Tồ án nhân dân bảo đảm cho cơng dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tồ án" (điều
133).


<i>Luật Phổ cập giáo dục tiểu học</i> ban hành ngày 06/8/1991, khẳng định:


– "Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với
tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học".



<i>Luật Giáo dục tiểu học</i> ngày 10/12/1998 viết rõ hơn: "Nhà nước tạo điều kiện để người dân
tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết
của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ".


Các chỉ thị,nghị quyết của Đảng và Chính phủ đều nhằm vào thực hiện ba vấn đề:
A. Cải tiến và xây dựng chữ viết cho các dân tộc thiểu số.


Quyết định của Phủ Thủ tướng số 153-CP ngày 20/8/1969 ghi rõ:


"Dân tộc thiểu số nào chưa có chữ viết riêng nếu có đủ điều kiện cần thiết sau đây thì được
xây dựng và sử dụng chữ viết của dân tộc mình:


a) Dân số tương đối đông, so với các dân tộc anh em khác.
b) Cư trú tương đối tập trung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

d) Có vốn từ ngữ tương đối phong phú.


Dân tộc thiểu số nào đã có chữ viết riêng nhưng nếu xét thứ chữ viết khơng thuận lợi cho
sự tiến bộ của mình, thì có thể cải tiến chữ viết cũ, hoặc xây dựng chữ viết mới thích hợp hơn.


Dân tộc thiểu số nào không đủ điều kiện xây dựng chữ viết riêng nhưng thấy cần thiết có
chữ để ghi tiếng nói của mình, thì có thể dùng chữ phổ thơng để phiên âm".


Quyết định của Hội đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu
số, số 53-CP ngày 22/02/1980 viết:


"Nhiều dân tộc thiểu số chưa có chữ viết có yêu cầu xây dựng bộ vần chữ riêng để có thể
ghi tiếng nói của dân tộc mình. Một số dân tộc thiểu số có chữ viết lối cổ muốn có chữ viết mới
theo chữ cái Latin cho gần gũi với chữ phổ thông. Những yêu cầu này cần được coi trọng, và
từng bước giải quyết".



"Để việc dạy và học chữ dân tộc và chữ phổ thông được dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện
cho cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào người Kinh muốn học chữ dân tộc, cần xây
dựng mới hoặc cải tiến chữ viết dân tộc theo bộ vần gần gũi với bộ vần chữ viết phổ thơng".


B. Sử dụng tiếng nói và chữ viết dân tộc sao cho thích hợp, hiệu quả.
Quyết định của Phủ Thủ tướng số 153-CP, ngày 20/8/1969 quy định rõ:
"Chữ dân tộc cần được sử dụng trong phạm vi và với mức độ sau:


a) Trong việc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá ở vùng người dân tộc đã có chữ viết
riêng. Trong bổ túc văn hố, nơi nào khơng biết hoặc ít biết tiếng phổ thơng thì cho học xen
kẽ chữ dân tộc với tiếng và chữ phổ thông ở các lớp cấp 1. Từ cấp II trở lên thì học hồn tồn
bằng tiếng Việt và chữ phổ thơng. Nơi nào quần chúng muốn và có thể học thẳng tiếng và chữ
viết phổ thơng thì trong xoá nạn mù chữ cũng như trong bổ túc văn hố nên dạy tiếng và chữ
phổ thơng, nhưng chú ý giảng bằng tiếng dân tộc để người học hiểu mau và chắc, đồng thời
nên cho họ học thêm bộ vần chữ dân tộc để họ đọc được sách báo viết bằng chữ dân tộc.


b) Các trường phổ thông trong vùng dân tộc có chữ viết phổ thơng cần cho học sinh lớp vỡ
lòng và cấp I học xen kẽ chữ dân tộc với tiếng và chữ phổ thông và chú ý cho học sinh làm
quen với tiếng và chữ phổ thông càng sớm càng tốt. Ở cấp II và III, chủ yếu là dạy tiếng và
chữ phổ thông, đồng thời có dạy mơn ngữ văn dân tộc.


c) Trên các lĩnh vực văn hố, văn nghệ, thơng tin báo chí v.v... nên sử dụng rộng rãi tiếng
và chữ dân tộc ở những nơi có đơng đảo đồng bào dân tộc.


d) Nhân dân các dân tộc thiểu số đã có chữ viết riêng thì có quyền dùng chữ dân tộc trong
việc ghi sổ sách, viết thư và làm đơn từ gửi các cơ quan Nhà nước; ở những nơi mà hầu hết
đồng bào thuộc một dân tộc, và cán bộ nhân dân đã biết chữ dân tộc thì cơng văn giấy tờ từ
huyện xuống xã nên dùng chữ dân tộc".



Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 53-CP, ngày 22/02/1980 đề ra nhiệm vụ cụ thể
hơn:


"Trong công tác thông tin, tuyên truyền và cơng tác văn hố của Nhà nước ở vùng của
đồng bào dân tộc thiểu số phải cố gắng kết hợp sử dụng tiếng, chữ dân tộc, giúp cho đồng bào
tiếp thu được dễ dàng, nhanh chóng.


Trong giao dịch thư tín và trong đơn từ quan hệ với các cơ quan Nhà nước đồng bào dân
tộc thiểu số được dùng chữ viết dân tộc, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận và
giải quyết tốt những đơn từ đó".


Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển kinh
tế–xã hội miền núi, số 525-TTg ngày 02/11/1993 viết: "Tiếp tục phát triển phát thanh và
truyền hình ở miền núi và vùng dân tộc: hết năm 1995, hồn chỉnh việc phủ sóng truyền hình
cho các huyện. Nâng cao chất lượng các buổi phát thanh bằng tiếng dân tộc.".


C. Duy trì bảo vệ ngơn ngữ và văn hố dân tộc.


Trong bài <i>Các ngơn ngữ nguy cấp và việc bảo tồn sự đa dạng văn hố, ngơn ngữ tộc người</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

hoặc khơng được truyền lại, đang nằm bên bờ của sự tiêu vong. Căn cứ vào sức sinh tồn,
những điều kiện xã hội-ngôn ngữ học, ông chia các những nguy cấp ở Việt Nam thành 5
nhóm:


Nhóm thứ nhất bao gồm các ngơn ngữ hầu như đã bị mất, hiện nay chỉ còn rất ít người sử


dụng (trên dưới 10 người). Đó là các ngôn ngữ như: tiếng <i>Cơlao đỏ</i> ở Trùng Sán, Hồng SuPhì


(người Cơlao đỏ đã chuyển sang nói tiếng Quan Hoả); Tiếng <i>Tống</i> ở huyện Yên Sơn, tỉnh



Tuyên Quang (người Tống hiện được xếp vào dân tộc Dao); Tiếng <i>Thuỷ</i> ở Chiêm Hoá, Tuyên


Quang (người Thuỷ cũng được coi là thuộc dân tộc Dao); Tiếng <i>Ơđu</i> ở Con Cng, tỉnh Nghệ


An (hầu hết người Ơđu chuyển sang nói tiếng Thái, Khơ mú, hiện chỉ còn vài người nhớ ngơn


ngữ này); Tiếng <i>Tu Dí</i> (Bố Y) ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai (người Tu Dí chuyển sang


nói tiếng Quan Hoả).


Nhóm thứ hai gồm các ngơn ngữ nguy cấp thực sự, hiện chỉ còn trên, dưới 100 người sử
dụng. Đó là: tiếng Pu Péo, tiếng Cơlao Trắng ở Đồng Văn – Hà Giang; tiếng La Chí ở Hồng Su
Phì – Hà Giang; tiếng Laha ở Thuận Châu – Sơn La; tiếng Ta Mit ở Than Uyên – Lào Cai; tiếng
Nùng Vẻn ở Hà Quảng – Cao Bằng ; tiếng Đan Lai, Li Hà, Tày Poong ở Con Cuông – Tân Kì –
Nghệ An; tiếng Mã Liềng, Cọi (Krih) ở Hương Khê – Hà Tĩnh; tiếng Rục, Mày, Sách ở Tun
Hố – Quảng Bình; tiếng Arem ở Bố Trạch – Quảng Bình.


Nhóm thứ ba gồm các ngơn ngữ có số người sử dụng trên dưới một ngàn người, phạm vi
sử dụng tương đối hẹp, chủ yếu trong giao tiếp gia đình, có xu thế bị mất ở thế hệ trẻ, chịu áp
lực rõ rệt từ các ngơn ngữ có vị thế cao hơn. Đó là các ngơn ngữ như Mảng, Kháng, Xinh Mun


thuộc dịng Mon-Khmer và các ngơn ngữ thuộc họ Tạng Miến như: <i>Cống, Sila, Xá Phó, Phù Lá,</i>


<i>La Hủ</i>.


Nhóm thứ bốn gồm các ngơn ngữ có số lượng người sử dụng từ vài ngàn đến chục ngàn
người, chủ yếu được sử dụng trong giao tiếp gia đình thuộc mọi thế hệ, nhưng một bộ phận có


xu thế thay bằng ngơn ngữ khác. Đó là tiếng <i>Nà Mẻo</i> ở Tràng Định tỉnh Lạng Sơn và Sơn



Dương tỉnh Tuyên Quang; tiếng <i>Pà Thẻn</i> ở Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang và ở Bắc Quang tỉnh


Hà Giang; tiếng Lôlô ở Bảo Lộc tỉnh Cao Bằng và ở Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang.


Nhóm thứ năm gồm các ngơn ngữ có từ một chục ngàn đến vài ba chục ngàn người sử
dụng, vẫn được các thành viên trong cộng đồng sử dụng trong giao tiếp hàng ngày và truyền
lại cho thế hệ sau. Tuy nhiên, các ngơn ngữ này có xu thế dễ bị "hồ" vào các ngơn ngữ có vị
thế cao hơn. Đó là các ngơn ngữ như Hà Nhì, Giáy, Khơ mú, Chơro, Churu, Pakơ, Tà Ơi.


Ngơn ngữ dân tộc là biểu hiện của bản sắc văn hoá dân tộc. Duy trì và bảo vệ ngơn ngữ
các dân tộc là duy trì và bảo vệ bản sắc văn hố dân tộc, một cơng việc có ý nghĩa nhân bản
sâu sắc, Nguyễn Văn Lợi viết: "Mất đi sự đa dạng ngơn ngữ cũng có nghĩa mất đi sự đa dạng
về trí tuệ. Mỗi một ngơn ngữ là cơng cụ độc nhất vơ nhị để phân tích, tổng hợp, tri nhận thế
giới bên ngoài, tạo nên tri thức, sự đánh giá của cộng đồng người nói về thế giới. Chúng ta


quý trọng và tìm mọi cách giữ gìn các nguồn gien q của các lồi <i>sao la, bị xám, tê giác một</i>


<i>sừng</i>,... Ở Việt Nam, chúng ta cũng quý trọng và ra sức giữ gìn ngơn ngữ các dân tộc, những


nguồn gien q của kho tàng ngơn ngữ, văn hố, văn minh nhân loại. Bảo vệ môi trường, sinh
thái tự nhiên là nhiệm vụ cấp bách; bảo vệ môi trường, sinh thái văn hố cũng vơ cùng quan
trọng. Đối với lồi người, các ngơn ngữ đều có giá trị nhân văn như nhau: Kho tàng các ngôn
ngữ thế giới là tài sản quý báu của nhân loại" (<i>Bài đã dẫn, trang 49</i>).


Quyết định của Hội đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu
số, số 53-CP ngày 22/02/1980 viết: "Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt
Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước".


Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển Kinh
tế – Xã hội miền núi, số 525-TTg ngày 02/11/1993 cũng viết: "Tiếp tục duy trì từng bước phát


triển nâng cao các hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng, khai thác và bảo tồn văn hoá lâu
đời của cộng đồng các dân tộc. Nghiên cứu khôi phục và nâng cao các lễ hội truyền thống lành
mạnh".


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, con người Việt Nam".


Như ta biết, muốn duy trì và bảo vệ ngơn ngữ, văn hố dân tộc thì trước hết phải duy trì
và bảo vệ chính những tộc người nói những ngơn ngữ đó. Vì vậy, vấn đề duy trì và bảo vệ
ngơn ngữ văn hố khơng thể tách rời vấn đề phát triển dân tộc mà muốn duy trì và phát triển
dân tộc thì trước hết phải phát triển kinh tế. Trong bài "Tình hình một số ngơn ngữ dân tộc


nguy cấp ở Việt Nam và những luận cứ chính sách đối với các ngơn ngữ ấy"(11)<sub> sau khi phân</sub>


tích tình hình một số ngôn ngữ dân tộc được coi là nguy cấp, Trần Trí Dõi cho rằng:


– "Việc thúc đẩy nền kinh tế–xã hội của các dân tộc và nhóm tộc người có ngôn ngữ bị suy
giảm là một nhu cầu bức bách. Muốn cho tộc người Arem chẳng hạn không suy giảm dân số
với tỉ lệ 1% năm, đó là vấn đề sản xuất, đó là vấn đề y tế v.v... mà cả cộng đồng phải giải
quyết. Cũng vậy, muốn những người Ơđu có điều kiện duy trì tiếng mẹ đẻ của mình, cộng
đồng nhỏ bé của họ hiện nay phải được phát triển, phát triển tới mức họ có nhu cầu dùng
tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hàng ngày.


– Phải nâng cao chất lượng tiếng mẹ đẻ của họ trong giao tiếp cộng đồng. Cách tốt nhất
để làm được điều này là duy trì tiếng mẹ đẻ trong hoạt động văn hố của cả dân tộc... Chính
văn hố truyền thống hay bản sắc văn hoá của các dân tộc là cái nền tốt nhất để lưu giữ ngơn
ngữ của họ. Vì thế, để đảm bảo ngôn ngữ của các dân tộc có nguy cơ bị suy thối khơng bị
mai một, một công việc tốt nhất là khơi dậy và làm sống lại hoạt động văn hố truyền thống
của chính họ" (<i>Sách đã dẫn, trang 98</i>).



Tại hội nghị quốc tế về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể các dân tộc do UNESCO tổ chức
tại Hà Nội, tháng 3/1993, các đại biểu đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Chính phủ Việt
Nam về bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số:


– Cung cấp tài chính kịp thời cho chương trình quốc gia: "Kho tàng chung di sản văn hoá
phi vật thể của các tộc người ở Việt Nam".


– Ở cấp độ nhà nước, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và khơi phục kho tàng văn hoá phi vật thể
của các dân tộc thiểu số. Những lĩnh vực cần được tập trung chú ý là: khôi phục các lễ hội của
các dân tộc thiểu số, thu thập với sự trợ giúp của các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn tư liệu về
âm nhạc, múa, văn hố dân gian của các dân tộc.


– Khơi phục lại việc dạy ngôn ngữ và chữ viết các dân tộc mà đã bị ngừng trệ do chiến
tranh, ở các trường trung học và tiểu học.


– Dạy trẻ em dân tộc về lịch sử và văn minh của các tộc người.


– Mở rộng các chương trình truyền thanh, truyền hình về văn hoá dân tộc thiểu số; tổ chức
phát thanh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số.


– Tiếp tục thu thập, bảo tồn và phổ biến các văn bản viết bằng chữ cổ của các dân tộc
thiểu số.


Rõ ràng, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với ngôn ngữ của các
dân tộc thiểu số khác hẳn chính sách của bọn thực dân và những chính quyền thân Pháp, thân
Mĩ trước đây. Như ta biết, thực dân Pháp khi cai trị nước ta, đã tạo chữ viết cho một số dân tộc
ở Tây Nguyên như: chữ Ê Đê, chữ Ba Na, chữ Gia Rai,... Nhưng mục đích của thực dân Pháp là
chia để trị, là đồng hoá các dân tộc ở Việt Nam phải theo Pháp cho nên chúng tổ chức dạy chữ
dân tộc cho người dân tộc mà không cho họ học tiếng Việt, không cho học tiếng Việt nhưng lại
bắt họ học tiếng Pháp. Chính quyền Ngơ Đình Diệm thì ngược lại, buộc các dân tộc thiểu số


học tiếng Việt mà không cho họ học tiếng của họ. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, nghe theo


lời Mĩ, đã tổ chức chế độ giáo dục song ngữ. <i>Viện Ngôn ngữ học mùa hè</i> (SIL(12)<sub>) đã tạo ra</sub>


nhiều chữ viết theo mẫu tự La tinh cho các dân tộc thiểu số như: Gia Rai, Cơ Ho, Raglai,
Mnơng, Bru–Vân Kiều, Katu, Giẻ–Triêng, Tà Ơi, Mạ, Co, Chơro, Churu. Tuy nhiên, mục đích
chính của Mĩ Thiệu là tuyên truyền chống cộng và truyền bá đạo Tin Lành.


Nhìn chung, có thể khẳng định rằng chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam
đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là đúng và căn bản. Nó đã đáp ứng được các vấn đề dân
tộc và ngơn ngữ ở Việt Nam trong cơng cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng tổ quốc. Tuy


nhiên trong quá trình thực hiện vẫn cịn nhiều điều bất cập. Nguyễn Như Ý trong bài <i>Những</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

hẳn các kế hoạch, các chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp cụ thể cùng các hình
thức tổ chức thực hiện thích hợp với từng khu vực, từng dân tộc, đặc biệt là thiếu hẳn một đội
ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức và phương pháp, sau cùng là một chế độ kiểm tra,
đánh giá ở cấp Nhà nước, để triển khai".(13)


Từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, Trần Trí Dõi rút ra là vấn đề giáo dục


ngôn ngữ "<i>phải được đặt trong nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng nền giáo dục ấy. Chính</i>


<i>nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng giáo dục song ngữ nhiều khi là yếu tố quyết định chi phối</i>
<i>hoạt động giáo dục song ngữ. Trong thực hiện giáo dục song ngữ, khi ngôn ngữ thứ hai là</i>
<i>tiếng mẹ đẻ của người thụ hưởng thì lợi ích văn hố là lợi ích nổi trội nhất. Nếu khơng nắm bắt</i>
<i>đầy đủ lợi ích này để nhận biết đầy đủ tính đa dạng của mục đích thụ hưởng thì việc xây dựng</i>
<i>một chương trình giáo dục ngơn ngữ sẽ ít khả năng thu được thành công</i>".(14)


Sau khi nghiên cứu thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc


Việt Nam, Trần Trí Dõi đã đưa ra một số nhận xét đáng chú ý: "... tiếng Thái của người Thái ở
Việt Nam là một ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số chứ không phải là một ngơn ngữ có chức
năng ngơn ngữ quốc gia. Vì thế, sự phát triển đa dạng của nó theo từng phương ngữ là điều
tất yếu và khơng ai có quyền ngăn cản nó. Do đó, việc thống nhất chữ viết trong sự đa dạng
phương ngữ là một điều khó có thể trở thành hiện thực"(15)<sub>. Ơng viết tiếp: "... Khi bày tỏ ý kiến</sub>


thể hiện mục đích tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ, người Thái cho rằng họ học là để góp phần
bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc... Bởi vì chỉ có chữ cổ truyền thống của người Thái
mới là thứ văn tự thoả mãn đích thực vai trị đó. Chúng tơi nghĩ rằng, các kiểu chữ cổ truyền
hiện có ở các Mường Thái, chỉ cần bổ sung thêm một vài chi tiết, sẽ là văn tự tốt nhất được sử


dụng trong giáo dục tiếng mẹ đẻ của dân tộc Thái" (<i>Sách dã dẫn, trang 231</i>). Cuối cùng, ơng


kiến nghị:


– Các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương phải có kế hoạch từng bước ổn định,
phát triển kinh tế–xã hội vùng dân tộc miền núi.


– Thay vì lấy tiêu chí ngoại ngữ có tính hình thức để thăng ngạch cán bộ cơng chức, Nhà
nước có thể coi trình độ sử dụng tiếng dân tộc nơi họ công tác làm chứng chỉ thay thế khi thực
hiện cơng việc tổ chức này. Ngồi ra, cũng nên coi việc người cán bộ ở vùng dân tộc thiểu số
sử dụng được nhiều ngôn ngữ dân tộc khác nhau là một thành tích cần được khuyến khích
trong hoạt động của họ.


– Xây dựng một kế hoạch khả thi trong hoạt động giáo dục tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân
tộc mà trước hết là chuẩn bị một đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng cho công việc ấy.


– Xây dựng một đề tài nghiên cứu để xác lập chủ thuyết khoa học cho vấn đề dạy tiếng mẹ
đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số.



<i><b>2.3. Chính sách đối với tiếng Việt</b></i>



1. Tuy là quốc gia đa dân tộc, nhưng người Kinh chiếm 85% dân số cả nước, các dân tộc ở
Việt Nam lại vốn có truyền thống đồn kết cùng nhau. Vì thế, sau khi giành được quyền độc
lập dân tộc, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khẳng định ngay vị thế của tiếng Việt trong
nước Việt Nam mới. Như ta biết, trước Cách mạng tháng Tám, tiếng Pháp giữ vị trí ngơn ngữ
chính thức ở Việt Nam, được sử dụng trong hành chính, và giáo dục. Tiếng Việt tuy đã phát
triển nhưng cũng chỉ được dùng trong báo chí, văn học nghệ thuật mà thôi.


Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, tiếng Việt
vươn lên vị thế của ngơn ngữ quốc gia, ngơn ngữ chính thức của Việt Nam. Từ đây, tiếng Việt
được sử dụng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của người Việt Nam, từ cơng văn, giấy tờ hành
chính ở trung ương và địa phương đến giáo dục, văn hoá và khoa học, từ cơng sở, trường học
đến tồ án, qn đội đều sử dụng tiếng Việt. Đặc biệt là, ngay từ đầu, các trường đại học đều
dùng tiếng Việt để giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam ý
thức rõ rằng "những nhu cầu về kinh tế sẽ tự quyết định ra một ngơn ngữ chung cho tồn
quốc, ngơn ngữ mà đa số người vì lợi ích liên hệ mậu dịch sẽ thấy là có lợi nếu biết được ngơn


ngữ đó"(16)<sub>. Vì vậy, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam rất thực tế trong lập pháp ngôn</sub>


ngữ. Trong Hiến pháp của nước ta chưa hề sử dụng thuật ngữ <i>ngôn ngữ quốc gia</i>. Nhưng vị


thế ấy của tiếng Việt được thể hiện ở những việc làm cụ thể sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

– Điều thứ 18 trong Hiến pháp năm 1946 quy định: "Người ứng cử phải là người có quyền
bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và <i>phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ</i>".


– Sắc lệnh 19 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày
08/9/1945, ra lệnh: "Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi
người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết


chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam trên 8 tuổi mà không biết đọc và biết viết
chữ quốc ngữ đó sẽ bị phạt tiền".


– Sắc lệnh 20 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày
08/9/1945 ra lệnh: "Trong tồn cõi Việt Nam, sẽ thiết lập cho nơng dân và thợ thuyền những
lớp học bình dân buổi tối. Trong hạn 6 tháng, làng nào và đô thị nào cũng phải có ít ra là một
lớp học dạy ít nhất là 30 người".


Không dùng thuật ngữ <i>ngôn ngữ quốc gia</i>, các văn bản của nhà nước chỉ gọi tiếng Việt và


chữ quốc ngữ <i>là tiếng và chữ phổ thông</i>. Quyết định của Hội đồng Chính phủ, số 53-CP ngày


22/02/1980 viết: "Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc
trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt
kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật, v.v... tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc. Vì vậy, mọi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học
tập và sử dụng tiếng và chữ viết phổ thông".


Mặc dù sau cách mạng nhà nước chỉ đạo "tất cả các khoa học đều dạy bằng tiếng Việt", từ
phổ thông đến đại học, nhưng về lập pháp ngơn ngữ thì Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (ngày
06/8/1991) mới quy định:


"Giáo dục tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học".


Thuật ngữ "ngơn ngữ chính thức" chỉ được dùng trong <i>Luật giáo dục tiểu học</i> ngày
10/12/1998:


"Tiếng Việt là ngơn ngữ chính thức dùng trong nhà trường".



2. Xác lập vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt, Đảng và Nhà nước ta đồng thời chỉ ra


phương hướng phát triển của tiếng Việt. Đó là <i>dân chủ hố, quần chúng hố</i>.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thổi bùng niềm tự hào và tình yêu đối với tiếng Việt. Người viết ;
"Tiếng nói là thứ của cải vơ cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ
gìn nó, q trọng nó nhằm làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà khơng
dùng, lại đi mượn của nước ngồi, đó chẳng là đầu óc hay ỷ lại hay sao?"(17)


Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã có nhiều cuộc vận động nhằm


phát triển tiếng Việt. Trước hết, đó là <i>cuộc vận động cải tiến chữ quốc ngữ</i>. Đề cương văn hoá


Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương coi cải tiến chữ quốc ngữ là "nhiệm vụ cần kíp của
những nhà văn hố Mác-xít Đơng Dương và những nhà văn hố Việt Nam". Tháng 9 năm
1960, Hội nghị về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ đã được tổ chức tại Hà Nội. Hội nghị đã thành
lập <i>Ban nghiên cứu cải tiến chữ quốc ngữ</i>. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề có nên cải tiến chữ
Quốc ngữ hay không và nếu cải tiến thì cải tiến như thế nào vẫn cịn đang được tranh luận.


Thứ hai là cuộc vận động <i>giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt</i> ngay khi đang tiến hành


cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, Nhà nước đã tổ chức Hội nghị bàn về vấn đề giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt từ ngày 07–10/02/1966. Ba khâu cần phải làm để giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt là:


– Giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta
– Nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta


– Giữ gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn nghệ, chính


trị, khoa học, kĩ thuật,...).


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Thứ ba là cuộc <i>vận động chuẩn hoá tiếng Việt</i>. Sau khi đất nước thống nhất, cuối năm
1979 đầu những năm 1980, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học
Giáo dục, Bộ Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt và đã


thành lập hai Hội đồng: <i>Hội đồng chuẩn hố chính tả</i> do Giáo sư Phạm Huy Thơng làm chủ tịch


và <i>Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ</i> do Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn làm chủ tịch. Kết quả là


<i>Quyết nghị</i> của Hội đồng chuẩn hố chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban
hành ngày 01/7/1983. Trước đó, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Giáo dục cũng đã
thông qua <i>Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục</i> (ngày
30/11/1980). Trên cơ sở đó, ngày 05/3/1984, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã ra quyết định số


240-QĐ ban hành <i>Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt</i> áp dụng cho các sách


giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.


Để bảo vệ tiếng Việt, Nhà nước cũng có những văn bản nhằm uốn nắn những cách sử dụng
tiếng Việt chưa hợp lí. Nghị định của Chính phủ số 194-CP ngày 31/12/1994 về hoạt động
quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam quy định:


– Tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo phải là tiếng nói và chữ viết Việt Nam, trừ các
trường hợp:


a) Những sách báo, ấn phẩm được phép xuất bản bằng tiếng nước ngoài.
b) Những chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng nước ngồi.


c) Những nhãn hiệu hàng hố viết tắt và viết bằng tiếng nước ngoài. Tên giao dịch quốc tế


của các cơ sở sản xuất kinh doanh–dịch vụ đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho
phép. Những từ ngữ đã được quốc tế hoá hoặc những từ ngữ mà tiếng Việt không thay thế
được.


d) Nếu dùng cả tiếng nói và chữ viết nước ngồi phải:


– Viết chữ Việt Nam trước, phía trên, kích thước lớn hơn chữ nước ngoài.
– Đọc tiếng Việt Nam trước, tiếng nước ngoài sau.


Quy chế lưu hành, kinh doanh phim, băng đĩa hình, băng đĩa nhạc, cho thuê xuất bản
phẩm, hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hố nơi cơng cộng, quảng cáo, viết, đặt khẩu hiệu
ban hành kèm theo Nghị định số 87-CP ngày 12/12/1995 có điều 29 như sau:


"Biển hiệu được thể hiện dưới các hình thức bảng, biểu, hộp đèn, lưới đèn hoặc các hình
thức khác. Trên biển hiệu phải ghi đầy đủ tên gọi bằng chữ Việt Nam đúng với quyết định
thành lập hoặc giấy phép kinh doanh của cơ quan có thẩm quyền, khơng được viết tắt và phải
có những nội dung chủ yếu theo quy định tại các điều 30, 31. Quy chế này cho từng loại biển
hiệu. Đối với các tổ chức kinh tế muốn thể hiện tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế, tên chữ
nước ngồi phải ghi ở phía dưới, kích thước nhỏ hơn chữ Việt Nam, màu sắc, ánh sáng không
được nổi bật hơn chữ Việt Nam".


3. Xác lập vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt, Đảng và Nhà nước ta còn đề ra nhiệm
vụ dạy và học tiếng Việt cho người Việt và người các dân tộc khác.


Cùng ngày 8 tháng 2 năm 1945, ngoài hai sắc lệnh 19 và 20 đã nói ở trên, Chủ tịch Chính
phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hồ cịn ra sắc lệnh số 17, thành lập Nha bình dân học


vụ, chuyên lo việc học cho nhân dân, trực thuộc bộ giáo dục. Sau khi <i>Luật phổ cập giáo dục</i>


<i>tiểu học</i> được ban hành, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Thông tư số 14-GDĐT ngày 05/8/1997


hướng dẫn tiêu chuẩn và thể thức kiểm tra, đánh giá kết quả chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học.


Theo UNESCO, nền giáo dục Việt Nam đã giúp cho trên 15,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
UNESCO đánh giá thành tựu này như sau: "Việc thanh toán được nạn mù chữ là một thành tựu
nổi bật ở Việt Nam. Đó là kết quả của các hành động, chính sách, chiến lược khơng ngừng


cách mạng của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam"(19)<sub>.</sub>


Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước Việt Nam còn quan tâm nhiều
hơn nữa. Quyết định của Phủ thủ tướng số 153-CP ngày 20/8/1969 viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ngay khi mới thành lập (1956), ở Đại học Tổng hợp Hà Nội đã có bộ phận chuyên dạy


tiếng Việt cho người nước ngồi, sau đó phát triển thành <i>Khoa tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam</i>


<i>cho người nước ngoài</i> ở Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Ngồi ra,
nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu ở Việt Nam cũng mở các Trung tâm dạy tiếng Việt
cho người nước ngồi.


Trên Đài truyền hình Việt Nam cũng đã có chương trình dạy tiếng Việt cho đồng bào Việt
Nam ở xa Tổ quốc.


Như vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt
ở trong nước cũng như Kiều bào ở xa Tổ quốc, cho đồng bào thuộc các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam cũng như người nước ngồi.


<i><b>2.4. Chính sách đối với tiếng nước ngoài</b></i>



Sau Cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta vẫn duy trì việc dạy và học tiếng Pháp, tiếng Anh,


đồng thời đào tạo đội ngũ giáo viên để ngành giáo dục dạy tiếng Nga, tiếng Hán ở nhà trường.
Năm 1968, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ra chỉ thị 43-TTg và tiếp đó, năm 1972 lại ra quyết
định 251-TTg về việc tăng cường công tác dạy–học ngoại ngữ trong các trường phổ thơng.
Nhà nước đã chính thức xác nhận ngoại ngữ là "một môn học phổ thông cơ bản trong hệ thống
chương trình học của các trường phổ thơng từ cấp 2 trở lên". Quan điểm này hồn toàn phù
hợp với xu thế chung của sự phát triển nền giáo dục phổ thông hiện đại. Theo Bùi Hiền, trên
thế giới, người ta cho rằng "ngoại ngữ cùng với tiếng mẹ đẻ và tốn học hợp thành ba mơn trụ
cột trong chương trình giáo dục phổ thơng, bởi vì cả ba mơn học này chẳng những tự nó có
chức năng và nhiệm vụ trang bị cho học sinh những cơ sở khoa hoc, những tri thức cần thiết
về các đối tượng nhận thức trong thế giới khách quan thuộc lĩnh vực chun ngành ấy, mà các
mơn học này cịn là phương tiện, là công cụ rất quan trọng giúp cho học sinh đi sâu hơn, nắm
chắc hơn các tri thức cơ sở của các chuyên ngành khác, giúp cho việc phát triển năng lực trí
tuệ của học sinh được thuận lợi hơn. Thật vậy, với toán học và tiếng Việt ai cũng thấy trình độ
hiểu biết về hai mơn này càng sâu và càng rộng bao nhiêu thì khả năng tìm hiểu và khám phá
để chiếm lĩnh nền tảng khoa học của các đối tượng tự nhiên và xã hội nói chung càng lớn bấy
nhiêu, bởi vì chúng chính là những công cụ hàng đầu của nhận thức đối với thế giới. Cịn ngoại
ngữ, nghĩa là tiếng nói của những dân tộc khác (mà đó thường lại là những ngơn ngữ phát
triển cao của các dân tộc có nền văn hố lớn có những cống hiến vĩ đại cho nền văn hoá của
cả nhân loại như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp,...) được xếp ngang hàng với tiếng mẹ đẻ và


toán học,..."(20)<sub>. Trước năm 1973, Nhà nước đã cho thành lập hai trường đại học để dạy ngoại</sub>


ngữ và một trung tâm nghiên cứu việc dạy ngoại ngữ. Hiện nay, có các trường đại học ngoại
ngữ là: Đại học Ngoại ngữ Hà Nội trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; Đại học Ngoại ngữ thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Ngoại ngữ quân sự, Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng, Đại học
Ngoại ngữ TP. Hồ Chí Minh và nhiều khoa ngoại ngữ ở các trường đại học và cao đẳng khác.
Nhà nước cũng cho phép nhiều trung tâm đào tạo tiếng của nước ngoài hoặc liên kết với nước


ngoài hoạt động. Theo Trần Thị Lan(21)<sub>, ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, chỉ riêng tiếng Anh con số</sub>



này cũng có tới vài chục có 100% vốn nước ngoài hoạt động (Hội Đồng Anh, ACET, Apollo,
Language Link, v.v...). Không những tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Hán được dạy với
tư cách là ngoại ngữ mà nhiều thứ tiếng khác cũng đang được dạy ở các trường đại học và
trung tâm ngoại ngữ ở Việt Nam, như: tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Italy, tiếng Tây
Ban Nha, tiếng Malayu, tiếng Indonesia, tiếng Thái Lan, thậm chí cả tiếng Arập nữa.


Việc dạy học ngoại ngữ ở trường phổ thơng Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn:
– Từ 1956 đến năm 1975: Ở miền Bắc, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc được dạy học phổ
biến trong các trường cấp III và ở một số trường cấp II, tiếng Anh và tiếng Pháp cũng được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường, nhưng với quy mô nhỏ hơn; ở miền Nam, tiếng Anh và
tiếng Pháp được dạy học trong các trường phổ thông, chủ yếu ở các thành phố lớn, tiếng
Trung Quốc cũng được dạy nhưng với quy mô nhỏ.


– Từ năm 1975 đến nay: Cả 4 thứ tiếng trên được dạy học ở trường Trung học cơ sở (cấp
II) và trường Trung học phổ thông (cấp III) theo chương trình thống nhất trên phạm vi cả
nước(22)<sub>.</sub>


Vị thế của tiếng Anh trên thế giới càng ngày càng được đề cao. Tiếng Anh là ngơn ngữ
chính thức của hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Theo David Crystal trong cuốn


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

những người dùng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai là 235 triệu. Còn theo Eddie Ronowiez và


Collin Yallop trong cuốn <i>English: One language, different cultures</i> thì tổng số người nói tiếng


Anh bản ngữ và không bản ngữ là khoảng hơn 2 tỉ người(23)<sub>. Do nhu cầu giao lưu, hội nhập với</sub>


thế giới, từ những năm 1985–1986 ở Việt Nam đã bùng lên phong trào học tiếng Anh. Năm
1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị 422-TTg về đào tạo ngoại ngữ cho cán bộ cơng chức
chính phủ. Chương trình thí điểm được tiến hành trong hai năm tại Hà Nội dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ Nội Vụ, Học viện Hành chính Quốc gia và Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, sau đó được


triển khai rộng rãi tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước dưới sự giám sát trực tiếp của Ban


tổ chức chính quyền các tỉnh hoặc vụ đào tạo của các bộ (<i>xem thêm: Trần Thị Lan, 2006</i>).


Hiện nay, Việt Nam có chương trình thi công chức: thi tuyển công chức, thi nâng ngạch công
chức, thi chuyên viên chính, thi chuyên viên cao cấp, trong đó ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng
Anh) là một trong ba môn thi.


Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải nghiên cứu kĩ nhu cầu sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam
hiện nay và tương lai, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch tổng thể trong giáo dục ngoại ngữ.
Cần căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế–xã hội của cả nước và đặc điểm khác nhau của các
vùng miền mà điều chỉnh cơ cấu ngoại ngữ, tránh khuynh hướng chỉ dạy một ngoại ngữ. Với
giáo dục phổ thông, nên chọn ngoại ngữ nào và bắt đầu cho học ngoại ngữ từ lớp mấy. Những
vấn đề đào tạo đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ; xây dựng chương trình, giáo trình; phương
pháp kiểm tra đánh giá; phương án trang bị cơ sở vật chất và thiết bị dạy học ngoại ngữ; quy
định về phân cấp quản lí việc dạy học, kiểm tra, đánh giá và cấp văn bằng chứng chỉ cơng
nhận trình độ ngoại ngữ... cần phải nghiên cứu và triển khai thực hiện.Trong hệ thống giáo
dục của nhà nước, từ phổ thông đến đại học phải sử dụng tiếng Việt làm phương tiện giảng
dạy. Tuy nhiên, có thể dùng một ngoại ngữ nào đó để giảng dạy một số môn học hoặc chuyên
đề trong một số loại lớp học, khố học nào đó, nhưng có cần đưa vấn đề này vào Luật giáo
dục hay khơng thì phải cân nhắc kĩ.


______________


(1) <b><sub>Nguyễn Tài Cẩn</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Ảnh hưởng Hán văn Lí Trần qua thơ và ngơn ngữ thơ Nguyễn Trung</sub></i>


<i>Ngạn</i>. Nxb Giáo dục, H., 1998.


(2) <b><sub>Nguyễn Thiện Giáp</sub></b><sub>: </sub><i><sub>Từ vựng tiếng Việt</sub></i><sub>, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản,</sub>



năm 1978, trang 110. Năm 1985, giáo trình này đã được sửa chữa, bổ sung và với tên mới là
Từ vựng học tiếng Việt, được Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp xuất bản năm 1985,
Nxb Giáo dục tái bản các năm 1998, 1999, 2000, 2002, 2005.


(3)<b><sub>Lê Xảo Bình & Vi Thụ Quan</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Mối quan hệ giữa âm Hán Việt và phương ngữ tiếng Hán</sub></i>
<i>nhìn từ đặc điểm âm đầu</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số 10/2005, trang 25–34.


(4)<b><sub>Phan Huy Chú</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Lịch triều hiến chương loại chí. Khoa mục chí</sub></i><sub>. (bản dịch, tập 3). Nxb Sử</sub>


học, H., 1961.


(5)<sub> Phủ chúa Trịnh.</sub>


(6)<i><sub>Tạp truyện</sub></i><sub> là các truyện Nôm lục bát. </sub><i><sub>Bỉ ngữ</sub></i><sub> là tục ngữ ca dao</sub>


(7)<sub> Dẫn theo </sub><b><sub>Đinh Gia Khánh; Bùi Duy Tân & Mai Cao Chương</sub></b><sub>: </sub><i><sub>Văn học Việt Nam thế kỉ</sub></i>


<i>thứ X–nửa đầu thế kỉ XVIII</i>, (tập 2), Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, H., 1992, trang
35.


(8)<sub> Dẫn theo </sub><b><sub>Sơn tùng Hoàng Thúc Trâm</sub></b><sub>: </sub><i><sub>Quốc văn đời Tây Sơn</sub></i><sub>, Nxb Vĩnh Bảo, Sài Gòn,</sub>


1950. Tuy bức chiếu này còn lổn nhổn tiếng Việt và tiếng Hán, nhưng là một bằng chứng quý
báu về văn bản đầu tiên dùng tiếng Việt trong công văn của nhà nước. Theo ngơn ngữ hiện đại
thì, đây là: "Chiếu truyền cho thầy La Sơn Nguyễn Thiếp được biết.
Ngày trước giao cho thầy về Nghệ An xem đất làm kinh đô cho kịp dịp này (ta) trở về. Sao về
tới đó chưa thấy xong việc nhỉ? Cho nên (ta) hãy về kinh thành Phú Xuân cho quân lính nghỉ


ngơi đã.



Vậy (khi tiếp được) chiếu (này) ban xuống, thầy nên sớm cộng tác với Trấn Thủ Thận lo liệu
việc đó, xem đất xây dựng kinh đơ ở hành cung Phú Thạch (thì) sao cho phía sau gần núi,
chính giữa (thì) ở lẫn với dân, hay là đâu là đất tốt có thể xây dựng kinh đơ (thì) tuỳ con mắt
đạo pháp của thầy định đoạt, sớm sớm làm cho chóng xong. Giao cho Trấn thủ Thận sớm
dựng cung điện, trong vòng ba tháng phải xong, để (ta) tiện ngự về. Thầy chớ lơ là việc ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Ngày mồng 1 tháng 6 năm Thái Đức thứ 11 (Thái Đức là niên hiệu của Nguyễn Nhạc từ 1778
đến 1793).


(9)<sub> Dẫn theo </sub><b><sub>Nguyễn Phú Phong</sub></b><sub>: </sub><i><sub>Việt Nam: Chữ viết, Ngôn ngữ và Xã hội</sub></i><sub>, Đại học Sư</sub>


phạm TP Hồ Chí Minh, 2005, trang 58–59


(10) <b><sub>Nguyễn Kim Thản; Nguyễn Trọng Báu & Nguyễn Văn Tu</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Tiếng Việt trên đường</sub></i>
<i>phát triển</i>. Nxb Khoa học Xã hội, 1982, trang 8.


(11) <b><sub>Trần Trí Dõi</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Ngơn ngữ và sự phát triển văn hố xã hội</sub></i><sub>. Nxb Văn hố Thơng tin, Hà</sub>


Nội.


(12)<sub> SIL: dạng tắt của </sub><i><sub>Summer Institute of Linguistics</sub></i><sub>, University of North Dakota –</sub>


Vietnam Branch.


(13)<b><sub>Viện Ngôn ngữ học</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Những vấn đề chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam</sub></i><sub>. Nxb Khoa học Xã</sub>


hội, H., 1993, trang 30.


(14)<b><sub>Trần Trí Dõi</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Chính sách ngơn ngữ văn hố dân tộc ở Việt Nam</sub></i><sub>. Nxb Đại học Quốc gia</sub>



Hà Nội, 2003, trang 56–57.


(15)<b><sub>Trần Trí Dõi</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Thực trạng giáo dục ngơn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc</sub></i>
<i>Việt Nam: Những kiến nghị và giải pháp</i>. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, trang 225.


(16)<i><sub>Mác, Angghen, Lênin bàn về ngôn ngữ</sub></i><sub>. Nxb Sự thật, Hà Nội 1962, trang 95.</sub>
(17)<b><sub>Hồ Chí Minh</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Về cơng tác văn hố văn nghệ</sub></i><sub>. Nxb Sự thật, H., 1971, trang 60.</sub>


(18) <b><sub>Phạm Văn Đồng</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ</sub></i><sub>. Nxb Văn</sub>


học, H., 1973, trang 159.


(19)<sub> Dẫn theo </sub><b><sub>Joseph Lo Bianco</sub></b><sub>: </sub><i><sub>Viet Nam: Quoc ngu, Colonialism and Language Policy</sub></i><sub>, in</sub>


trong <i>Language planning and policy: East Asian perspectives</i>, Nxb Curzon, 2002 (bản dịch:


Phạm Văn Lam)


(20) <b><sub>Bùi Hiền</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Phương pháp hiện đại dạy–học ngoại ngữ</sub></i><sub>. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,</sub>


1997, trang 24.


(21) <b><sub>Trần Thị Lan</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Tổng quan về phương pháp giảng dạy ngoại ngữ và sơ lược tình hình</sub></i>
<i>giảng dạy ngoại ngữ tại Việt Nam</i>. In trong <i>Những vấn đề ngôn ngữ học</i>. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2006


(22)<b><sub>Lê Anh Tâm</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Dạy học ngoại ngữ ở trường phổ thông: thực trạng và giải pháp</sub></i><sub>. Tạp chí</sub>


Ngơn ngữ và Đời sống, số 4/2005.



(23)<b><sub>Phan Văn Quế</sub></b><sub>. </sub><i><sub>Tiếng Anh có trở thành một ngơn ngữ tồn cầu?</sub></i><sub>. Tài liệu Hội thảo khoa</sub>


học <i>Dùng tiếng nước ngoài làm chuyển ngữ (ngơn ngữ giảng dạy) trong q trình hội nhập</i>.
Viện Đại học Mở Hà Nội, 2005.


<b>Thư mục nghiên cứu</b>


1. <b>Đinh Lê Thư</b> (chủ biên); <b>Trần Thanh Pôn; Nguyễn Khắc Cảnh & Đinh Lư Giang</b>.


<i>Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long</i>. Nxb Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, 2005.


2. <b>Đồn Thiện Thuật; Mai Ngọc Chừ</b>. <i>Tiếng Dao</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H., 1991.


3. <b>Đoàn Văn Phúc</b>. <i>Ngữ âm tiếng Ê Đê</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H., 1996.


4. <b>Đoàn Văn Phúc</b>. <i>Từ vựng các phương ngữ Ê Đê</i>. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1998.


5. <b>Hồng Văn Ma, Lục Văn Pảo & Hồng Chí</b>. <i>Ngữ pháp tiếng Tày Nùng</i>. Nxb Khoa
học Xã hội, H., 1971.


6. <b>Hoàng Văn Ma & Solnceva, N.V.</b>. <i>Tiếng La Ha</i>, 1986 (bằng tiếng Nga).


7. <b>Hoàng Văn Ma; Nguyễn Văn Tài & Hoàng Tuệ</b>. <i>Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và</i>
<i>chính sách ngơn ngữ</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H., 1984.


8. <b>Hoàng Văn Ma & Vũ Bá Hùng</b>. <i>Tiếng Pu Péo</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H., 1992.


9. <b>Hồng Văn Ma & Tạ Văn Thơng</b>. <i>Tiếng Bru Vân Kiều</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H.,
1998.



10. <b>Joseph Lo Bianco</b>. <i>Viet Nam: Quoc Ngu, Colonialism and Language Policy</i>, in trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

11. <b>Lê Quang Thiêm</b>. <i>Về vấn đề ngơn ngữ quốc gia</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số 1/2000.


12. <b>Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam; Hội Ngôn ngữ học Việt Nam </b>
<b>& Viện Đại học mở Hà Nội</b>. <i>Tài liệu Hội thảo khoa học Dùng tiếng nước ngoài làm chuyển </i>
<i>ngữ (ngơn ngữ giảng dạy) trong q trình hội nhập</i>. Hà Nội, 2005.


13. <b>Lý Toàn Thắng & Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Về sự phát triển của ngôn ngữ các dân tộc thiểu </i>
<i>số ở Việt Nam trong thế kỉ XX</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số 2/2001.


14. <b>Nguyễn Hữu Hồnh & Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Tiếng Ka Tu</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H.,
1998.


15. <b>Nguyễn Kim Thản; Nguyễn Trọng Báu & Nguyễn Văn Tu</b>. <i>Tiếng Việt trên đường </i>
<i>phát triển</i>. Nxb Khoa học Xã hội, H., 1982.


16. <b>Nguyễn Phú Phong</b>. <i>Việt Nam: Chữ viết, Ngôn ngữ, Xã hội</i>. Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh, 2005.


17. <b>Nguyễn Thiện Giáp</b> (chủ biên); <b>Đoàn Thiện Thuật & Nguyễn Minh Thuyết</b>. <i>Dẫn </i>
<i>luận ngôn ngữ học</i>. Nxb Giáo dục, H., 1994 (tái bản lần thứ 10 năm 2004).


18. <b>Nguyễn Văn Khang</b>. <i>Kế hoạch hố ngơn ngữ – Ngơn ngữ học xã hội vĩ mô</i>. Nxb Khoa
học Xã hội, H., 2003.


19. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Sinh thái ngôn ngữ và sự phát triển xã hội</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số
4/1994.



20. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Vị thế của tiếng Việt ở nước ta hiện nay</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số
4/1995.


21. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Tộc danh của một số dân tộc Nam Trung Quốc và Đông Nam A. Vấn</i>
<i>đề tên gọi Giao Chỉ</i>, trong <i>Việt Nam: Những vấn đề ngơn ngữ và văn hố</i>. Hội Ngơn ngữ học
Việt Nam & Đại học ngoại ngữ Hà Nội, 1993.


22. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Bảo tồn sự đa dạng văn hố ngơn ngữ tộc người, Dân tộc và thời </i>


<i>đại</i>. Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1999.


23. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Một số vấn đề về chính sách ngơn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta </i>
<i>hiện nay, Dân tộc học</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số 3/1999.


24. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Các ngôn ngữ nguy cấp và việc bảo tồn sự đa dạng văn hố, ngơn </i>
<i>ngữ tộc người ở Việt Nam</i>. Tạp chí Ngơn ngữ, số 4/1999.


25. <b>Nguyễn Văn Lợi</b>. <i>Một số vấn đề về chính sách ngơn ngữ ở các quốc gia đa dân tộc</i>.
Tạp chí Ngơn ngữ, số 1/2000.


26. <b>Trần Trí Dõi</b>. <i>Nghiên cứu ngơn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam</i>. Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 1999.


27. <b>Trần Trí Dõi</b>. <i>Ngơn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội</i>. Nxb Văn hố Thơng tin, H.,
2001.


28. <b>Trần Trí Dõi</b>. <i>Chính sách ngơn ngữ văn hố dân tộc ở Việt Nam</i>. Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003.


29. <b>Trần Trí Dõi</b>. <i>Thực trạng giáo dục ngơn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía bắc </i>


<i>Việt Nam</i>. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.


30. <b>Viện Ngơn ngữ học</b>. <i>Những vấn đề chính sách ngơn ngữ ở Việt Nam</i>. Nxb Khoa học
Xã hội, H., 1993.


31. <b>Viện Ngơn ngữ học</b>. <i>Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tộc</i>.
Nxb Khoa học Xã hội, H., 1997.


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

×