Tải bản đầy đủ (.docx) (156 trang)

TONG HOP KIEN THUC HOA HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 156 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHỮNG KIẾN THỨC TỔNG HỢP HÓA HỌC</b>


Con người là sự tổng hoà các mối quan hệ trong xã hội, nhưng cũng là sự tổng hoà của
những nguyên tử hợp thành. Hoá học là một chuyên ngành có bề dầy lịch sử, cũng là một
nghành khoa học có nhiều ứng dụng trong cuộc sống con người.


Trong rất nhiều lần lang thang trên mạng, tôi nhận thấy có nhiều bài bài viết về hố học
rất hay từ những trang web: www.hoahocvietnam.com; www.h2vn.com;


www.hoahocphothong.com....Những kiến thức này rất có ícj cho những người đang dạy
hố, cũng như đang học mơn hố và cũng là những kiến thức cho những học sinh hướng
nghiệp, có thể định hứơng cho tương lai của mình…


Tơi đã tập hợp thành ebooks điện tử với tựa đề là “ Những kiến thức tổng hợp hoá học”
nhằm mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11-2007. Nội dung cuốn sách này gồm:


- Lịch sử hình thành hố học


- Gần 100 bài viết về Cơng nghệ hố và những ứng dụng của hoá học trong
cuộc sống đời thường


- Một số bài viết về các nhà hoá học


- Một số kinh nghiệm trong việc giải bài toán hoá học


- Những phần mềm sử dụng trong việc soạn và giảng hoá học
….


Dự kiến trong lần biên soạn thứ 2, tơi sẽ đưa vào lý thuyết và bài tập hố học cấp 3.
Trong q trình biên soạn, chắc chắn có nhiều thiếu sót về nội dung, mặt kỹ thuật trình
bày, do thời gian có hạn, việc tập hợp tài liệu cũng cịn có nhiều sự hạn chế.Rất mong sự
giúp đỡ thêm của các đồng nghiệp để hoàn thiện cuốn sách điện tử này ngày càng tốt


hơn.


Thời gian bắt đầu biên tập: 18-11-2007
Thời gian hoàn thành: 19-11-2007


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Lời nói đầu</b>



Mục đích u cầu của sách Lịch sử Hóa học là nghiên cứu và
trình bài q trình tích lũy các kiến thức hóa học trong lịch sử
tiến lên của lồi người. Nói cụ thể hơn đó là nghiên cứu và
trình bài sự tiến hóa các tư tưởng hóa học, các thành cơng lớn
trong cơng nghiệp hóa học.


Đối với sinh viên học mơn hóa học, sau khi nghiên cứu sách
Lịch sử Hóa học, họ sẽ nhận thấy các kiến thức hóa học của
mình được bổ sung và hệ thống hóa sâu sắc về bề rộng, bề
sâu rõ rang và lí thú hơn, về nhiều phát minh hóa học, sẽ rút
ra được nhiều kinh nghiệm thành công và thất bại cho cách suy nghĩ, cách làm việc của mình
trong nghiên cứu khoa học nói chung, trong nghiên cứu hóa học nói riêng. Sách Lịch sử Hóa
học có một ý nghĩ không nhỏ về giáo dục tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, ví dụ như khi xem
xét sự phát triển các sự kiện của hóa học trong mối quan hệ với xã hội, với các ngành khoa
học khác.


Sách Lịch sử Hóa học cịn nêu lên gương những nhà hóa học tên tuổi, những gương lao
động nghiêm túc bậc thầy trong nghiên cứu hóa học, giúp có được những hiểu biết rộng rãi
để đánh giá đúng nhiều vấn đề, nhiều nhân vật, và biết được cần phải có sự kế thừa liên tục
trong nghiên cứu khoa học từ thế hệ này đến thế hệ khác thì ngành hóa học mới có thể hình
thành.


Ngồi ra sách Lịch sử Hóa học cịn giúp cho giáo viên đại học cũng như trung học có đủ tư


liệu để tổ chức những buổi nói chuyện ngoại khóa gây cho học sinh nhiều hứng thú khi học
hóa học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

phát triển theo phương hướng khá ổn định và thuận lợi, thì hóa học khơng có được cái may
mắn đó. Các hoạt động hóa học trong giai đoạn đầu tiên qua cả ngàn năm được tiến hành
khơng mục đích u cầu rõ rệt mà lại còn bị lợi dụng để phục vụ những mục đích tơn giáo và
chính trị. Cho mãi đến thế kỉ 17 hóa học thực sự vươn lên thành một khoa học độc lập.


Lịch sử hóa học bắt đầu từ thời điểm nào? Sự phân chia Lịch sử Hóa học thành thời kì như
thế nào? Sự trình bày như thế nào cho hợp lý qua các thời gian ngắn dài rất khác nhau…
Chúng ta không thể nghiên cứu Lịch sử Hóa học như một đối tượng cô lập, mà phải xem xét
trong bối cảnh lịch sử có các ngành hoạt động xã hội khác như về chính trị, kinh tế, văn
hóa… Chúng tơi nhận thức được rằng vấn đề chủ yếu cần được giải quyết ngay từ đầu là sự
phân chia đúng các thời kì của lịch sử hóa học để tạo điều kiện thuận lợi cho sự trình bày
cũng như sự tiếp thu nội dung.


Sự phát triển của hóa học ngày càng phức tạp vì hóa học đã có đầy đủ cơ sở hiện đại về cả
lý luận và thực nghiệm chặt chẽ, cả hai kết hợp dần dần tự phân hóa thành một số phân
ngành cơ bản rồi chuyên ngành đi sâu. Khi hóa học được nghiên cứu kết hợp với các khoa
học khác có liên quan như vật lý, sinh học,… thì bắt đầu xuất hiện một số khoa học liên
ngành như hóa lý, sinh hóa, địa hóa… Đồng thời báo và tạp chí hóa học cũng ra đời với số
lượng và chất lượng mỗi ngày càng tăng rất nhanh.


Như vậy nổi lên một vấn đề rất quan trọng là lựa chọn và trình bày các thơng tin như thế nào
để nhận thấy được có một sự phát triển liên tục của hóa học, đồng thời nắm được một số
vấn đề lớn, trọng tâm của mỗi thời kì, triánh tản mạn. Chúng tôi chủ trương tinh giản các
thông tin, và trình bày có hệ thống, có trọng tâm, trọng điểm, nhằm đảm bảo sự tiếp thu và
nhớ dễ dàng. Đặc biệt chúng tôi bắt buộc phải tinh giản rất nhiều ở thế kỉ 20 mà hóa học
trong thời kì này lại phát triển như vũ bão và mn hình mn vẻ.



Chúng tơi lấy ngun tử làm “trung tâm” và chọn các vấn đề chủ yếu có liên quan đến


nguyên tử (ví dụ electron, hạt nhân nguyên tử…) rồi chi tiết hóa từng vấn đề đó tùy theo mức
độ phát triển của khoa học trng từng thời kì (ví dụ thành phần hạt nhân ngun tử, vỏ


electron của nguyên tử, liên kết hóa học, đồng vị).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

lai”.


Chúng tôi rất biết ơn giáo sư Nguyễn Thạc Cát, đã để cơng đọc tồn bộ bản thảo, đã góp
cho chúng tơi một số ý kiến lớn quý bào nhằm nâng cao them chất lượng của sách một cách
rõ ràng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>CHƯƠNG I: SỰ PHÂN CHIA CÁC THỜI KÌ LỚN CỦA</b>


<b>LỊCH SỬ HĨA HỌC</b>



Sự phân chia các thời kì lớn của Lịch sử Hóa học khơng thật
giống nhau giữa các sách, thậm chí có những sách cuối
những năm 70 đầu những năm 80 còn né tránh các vấn đề
này! Chúng tơi thấy cần thiết có sự phân chia này, và đã tìm ra
một sự phân chia tương đối hợp lí như sau:


Tuy ngày nay đã có định nghĩa rõ ràng: Hóa học là mơn khoa
học nghiên cứu các chất và sự biến hóa của chúng, nhưng hóa học chỉ được coi là một mơn
khoa học chính thức từ khi có mục đích u cầu xác định và có đối tượng riêng. Tính chất
độc lập của hóa học chỉ mới thể hiện vào giữa thế kỷ 17 mà thôi. Tuy vậy không thể cho rằng
Lịch sử Hóa học bắt đầu từ thời điểm này. Từ hang thiên niên kỷ trước cơng ngun đã có
nhiều “nơi” văn minh trên thế giới. Nhiều di vật cổ tìm thấy chứng minh rằng từ thời thượng
cổ 7000 – 8000 năm trước cơng ngun con người đã có những “hiểu biết hóa học” nhất
định. Chẳng hạn như về đồ trang sức bằng vàng, bạc, gốm, thủy tinh thô sơ, sơn màu và


thuốc nhuộm, tên và lưỡi giáo bằng đồng hoặc sắt…, về chất này chất khác và cách chế biến
sử dụng.


Khảo cổ học Việt Nam cũng đã phát hiện được nhiều di vật cổ tương tự như trang sức bằng
vàng, bạc, đồ gốm (gạch, ngói, chum, vại…), mũi tên, lưỡi giáo bằng đồng, sắt. Có trống
đồng Ngọc Lũ của văn hóa Đơng Sơn, thời Hùng Vương, đúc đẹp, tinh vi được thế giới đánh
giá cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tổng hợp lại, chúng ta chia được lịch sử hóa học làm 5 thời kì lớn như sau:
1. Thời kì cổ đại: từ thượng cổ đến hết thế kỉ thứ 3 sau công nguyên.


2. Thời kì giả kim thuật: từ thế kỉ thứ 4 đến đầu thế kỉ 16.


3. Thời kì hóa y học và hóa kỹ thuật: từ đầu thế kỉ 16 đến thế kỉ 17.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>CHƯƠNG II: THỜI KÌ CỔ ĐẠI</b>



Một số sách Lịch sử Hóa học ngay ở những trang đầu đặt câu hỏi: Danh từ “Chimi” (hóa học)
xuất hiện lúc nào? Có định nghĩa ban đầu như thế nào? Các lời giả đáp khác nhau được đưa
ra, nhưng tất cả đều không dựa trên những cơ sở rõ ràng. Có lẽ đáng chú ý nhất là câu
chuyện kể lại của nhà giả kim thuật có tên tuổi Zơsime (Zosime). Zôsime được coi là nhà giả
kim thuật đầu tiên, sống khoảng nửa sau thế kỉ thứ 3. Ông đã kể lại rằng vào thế kỉ thứ 3
trước công nguyên, tại Memphit (Memphis) thủ đô Ai Cập cổ đại trong đền thờ thần Ai Cập
Phơta (Phta) có một khu đặc biệt dành cho hoạt động của một nghệ thuật thiêng liên do các
thiên thần truyền lại cho con người. Như vậy, có thể nói rằng lúc ban đầu hóa học được coi
là một nghệ thuật thiêng liên do các thiên thần truyền lại cho các giáo sĩ Ai Cập cổ đại.


<b> 1. Những di vật và hiểu biết hóa học thời kì cổ đại</b>


Các giáo sĩ tơn giáo bí mật nghiên cứu điều chế nhân tạo ngọc


quý, kim loại quý, vàng, bạc, thuốc nhuộm đẹp, thuốc thánh
chữa bệnh, ướp xác người… dùng những kí hiệu tượng trưng,
khinh thường sự quan sát thiên nhiên và sự tổ chức làm thí
nghiệm. Sau khi Ai Cập bị Hi Lạp xâm chiếm (năm 323 trước
công nguyên) một phần “nghệ thuật thiêng liêng” bị lọt ra ngoài
từ các đền thờ Phơta, Ozirit (Oziris), Jziđô (Jzido)… và được phổ


biến rộng ra dần…


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ngồi ra cịn có những tư liệu ghi chép trên những tấm đá, tấm đất sét nung, thanh tre non,
giấy lao sậy (papirút Ai Cập). Một papirút có tiếng nhất là papirút Ebe (Eber), còn lưu trữ ở
thư viện Trường Đại học Lepzic (Leipzig) viết khoảng 1600 năm trước công nguyên, phần
chính nói về y học, về thuốc chữa bệnh. Cịn có thể kể thêm tác phẩm của một số tác giả thi
sĩ, sư gia, (truyện “Iliat và Ođixê” của Hôme (Homere) về chiến tranh thành Tơroa (Troie)
khoảng 1200 năm trước công nguyên), triết gia (bộ “Bách khoa toàn thư” của Pơlin (Pline)
viết khoảng thế kỉ 1 trước cơng ngun),…


Các di vật ở trên được tìm thấy ở những nơi đã có một trình độ văn minh nào đó ở thời cổ
đại, tại khu vực rộng lớn Á – Âu – Bắc Phi, đã xuất hiện dần dần trước sau nhau một ít các
nền văn minh: Trung Quốc (sớm nhất), Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hi Lạp, La Mã (muộn
nhất). Từ thời xa xưa người Trung Hoa đã biết sản xuất gồ gốm, một số kim loại, đúc


chuông, tượng, chế thuốc nhuộm (inđigô,…), thuốc chữa bệnh, sản xuất đường, nấu rượu từ
các hạt,… Ấn Độ cũng có những di vật tương tự mới được phát hiện gần đây, có những đồ
gốm, đồ đồng niên đại khoảng 3000 năm trước công nguyên.Khu vực Lưỡng Hà có những
tấm đất sét khắc chữ hình nêm từ 3000 năm trước cơng ngun ghi lại cách sản xuất các
kim lại, sắt, đồng, bạc, chì từ quặng, có những tượng múa tơn giáo, từ 4000 năm trước công
nguyên! Ở Việt Nam, nước Văn Lang, thời các vua Hùng, cũng biết sản xuất đồ gốm, nấu
đồng, luyện sắt, đúc chuông, tượng, trống đồng, vũ khí…



Nền văn minh Ai Cập cổ đại được nghiên cứu và hiểu biết nhiều nhất. Trước khi bị Đế quốc
Hi Lạp xâm chiếm, Ai Cập độc lập có các triều đại được xây dựng nên từ 7000 năm trước
cơng ngun, là nước có kỹ thuật tiên tiến của thế giới ngày xưa, các nghề thủ công đạt tới
trình độ cao do trong chế độ chiếm hữu nơ lệ của Ai Cập, có sự phân cơng lao động giữa các
thợ thủ công và sự chuyên môn hóa sản xuất. Ai Cập cổ đại biết nung gạch từ 6000 năm
trước công nguyên, biết tinh chế vàng bạc, sản xuất đồ gốm, chế thuốc nhuộm (thuốc nhuộm
thực vật inđigô, nghệ, quỳ,… thuốc nhuộm vô cơ như hồng hoàng, minium,…) chế rượu bia,
rượu nho, dấm, các loại thuốc chữa bệnh (thuốc viên, thuốc xoa, thuốc bó,…) có kỹ thuật
ướp xác người chu đáo từ 3000 năm trước công nguyên…, trong kim tự tháp Khuphu
(Khufu) 2900 năm trước cơng ngun đã tìm thấy dao trổ bằng thép được chôn theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>2. Những lý thuyết của các Triết gia cổ Hi Lạp – La Mã</b>


Trong thời Cổ Đại, dân tộc Hi Lạp nổi bật lên ở khả năng tổng quát hóa. Họ có nhiều nhà triết
học mạnh dạn xây dựng nên những lý thuyết tổng qt để giải thích các hiện tượng mn
hình mn vẻ khơng ngừng diễn ra xung quanh mình. Đáng chú ý nhất có thuyết các chất
đầu hay nguyên tố của mọi vật, có thuyết nguyên tử về cấu tạo gián đoạn của vật chất.
Thuyết các nguyên tố được hình thành như sau:


Nhà triết học Talet (Thales) ở thành phố Milê (Milet) sống ở thế kỉ thứ 7 sang thế kỉ thứ 6
trước công nguyên, đã suy nghĩ và kết luận rằng nước là nguyên lí, là chất đầu, là ngun tố
của tất cả: “Khơng có gì có thể xuất phát từ khơng có gì, tất cả xuất phát từ nước và rồi trở
lại về nước”. Đung nóng nước thấy nước biến thành khơng khí (hơi nước), cho bay hơi nước
(nước biển) thu được đất (muối). Anaximen (Anaximène) sống khoảng giữa thế kỉ thứ 6
trước cơng ngun cho khơng khí là chất đầu. Xênơphan (Xenophane) cùng thế kỉ cho đất và
nước là chất đầu. Hêraclit (Heraclite) (540 – 480 trước công nguyên) coi lửa là chất đầu.


Empêđôc (Empédocle) (490 – 430 trước công nguyên) tổng hợp thành thuyết các nguyên tố:
nước, không khí, đất, lửa là 4 chất đầu, là 4 nguyên tố tạo nên mọi vật. Mọi vật thể đều được
tạo nên từ chúng theo những tỉ lệ khác nhau.



Chúng ta lưu ý rằng, nguyên tố ở đây nghĩa là thứ đầu tiên, không kể là vật chất hay phi vật
chất.


Gần như đồng thời với thuyết các nguyên tố, ra đời thuyết nguyên tử. Một vấn đề to lớn là
xét xem vật chất có cấu tạo như thế nào, có thể chi nhỏ mãi vơ cùng khơng giới hạn, hay có
giới hạn?


Lơxip (Leucipe) ở thế kỉ thứ 5 trước công nguyên là tác giả của thuyết ngun tử. Ơng ch
rằng vật chất có thể chia nhỏ dần đi đến những phần tử không thể chia nhỏ hơn được nữa,
gọi chúng là các nguyên tử. Có các ngun tử của nước, khơng khí, đất, lửa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

khơng có gì cả hoặc cịn lại cái gì đó. Trong trường hợp thứ nhất, vật chất chỉ có một sự tồn
tại ảo tưởng mà thôi; trong trường hợp thứ hai, người ta đặt câu hỏi: cịn lại gì vậy? Câu trả
lời logic nhất là có sự tồn tại các nguyên tố thật sự, không chia được, không chỉ được gọi là
các nguyên tử”. Ông quan niệm các nguyên tử của các nguyên tố có kích thước và hình
dạng nhất định, giải thích được sự khác nhau về tính chất của các nguyên tố. Những chất
thực tế ta thấy là những liên kết của các nguyên tử đó, nếu có sự thay đổi liên kết thì có thể
làm chất này biến thành chất khác.


Lơxip và Đêmôcrit là 2 nhà duy vật hồn tồn, khơng chấp nhận có sự tham gia một vị thần
thánh nào trong mọi hiện tượng trong vũ trụ.


Platôn (Platon) (429 – 349 trước công nguyên), một triết gia có
tên tuổi lớn, trong sách Timê (Timée) của mình, bác bỏ tính
chất vật chất, bác bỏ thuyết nguyên tử, trình bày thuyết các ý
của mình: một thượng đế đã xây dựng trật tự của thế giới
bằng ngun tố nước, khơng khí, đất, lửa đã tạo ra 4 loại sinh
vật ứng với 4 nguyên tố đó là: loại thứ nhất gồm các thần tạo
nên tia lửa, loại thứ hai gồm các động vật có cánh sống trong


khơng khí, loại thứ ba gồm các động vật sống trong nước, loại
thứ tư gồm các động vật sống trên cạn.


Arixtôt (Aristotle) (384 – 322 trước cơng ngun), học trị của
Platơn, khơng coi nặng như thầy vấn đề nghiền ngẫm các ý, mà chú ý nhiều đến việc nghiên
cứu thiên nhiên, đến các con vật và các cây cỏ. Ông bác bỏ thuyết nguyên tử, thừa nhận vật
chất có thể chia vơ hạn, thừa nhận có 4 ngun tố nước, khơng khí, đất, lửa, tuy nhiên quan
niệm nhau từng cặp: khơ - ẩm, nóng – lạnh, 4 tính chất nguyên thủy ấy kết hợp từng cặp một
thành các nguyên tố nước, khơng khí, đất, và lửa theo sơ đồ này.


nóng + khơ = lửa
nóng + ẩm = khơng khí
lạnh + khơ = đất


lạnh + ẩm = nước


Hệ thống ngun tố - tính chất ngun thủy của Arixtơt được trình bày trong hình. Sự khác
nhau giữa các chất là do tỉ lệ phối hợp các tính chất nguyên thủy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

tạo thành khơng khí, đồng thời nước trả lạnh cho lửa, thu khô của lửa, tạo thành đất!


Từ đây, Arixtôt rút ra kết luận là: “Hồn tồn có khả năng biến đổi chất này thành chất khác!”.
Kết luận này đã thống trị tai hại trong hóa học một thời gian rất dài, gần 2000 năm với trào
lưu giả kim thuật.


Dân tộc La Mã có óc thực tế hơn là óc suy luận, cho nên họ chỉ tiếp thu các tư tưởng triết
học của dân tộc Hi Lạp, khơng đóng góp được gì thêm giúp phát triển lý thuyết vừa trình bày.


<b>Vài nét về Nhà trường Alêcxanđri (Alexandrie) </b>



Trong khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời kì cổ đại sang thời
kì trung cổ, từ thế kỉ thứ 2 đến thế kỉ thứ 6 sau công nguyên.
Sự hoạt động mạnh mẽ của Nhà trường Alêcxanđri, có ảnh
hưởng khá quan trọng đến sự tiến hóa của các ngành khoa học, trong đó có hóa học.


Năm 323 trước cơng ngun, Hồng đế Hi Lạp, Alêcxanđri vĩ đại sau khi chinh phục được
Ba Tư, Tiểu Á, và nhiều nước Á – Phi, tiến quân chiếm Ai Cập, cho xây dựng ở ngay cửa
sông Nin (Nil) thành phố mới Alêcxanđri làm thủ đô cho nước Ai Cập thuộc Hi Lạp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

bí mật thiêng liêng” của các giáo sĩ trong các đền thờ. Họ hoạt động dựa vào nhiều tà thuật
mê tín, tuy vậy cũng đã được tập hợp một số kiến thức về hóa kỹ thuật thủ cơng.


Nhà trường Alêcxanđri tồn tại đến năm 641 và sau đó ngừng hoạt động hẳn do thành phố
Alêcxanđri bị người Ả Rập tàn phá trong một cuộc bao vây 14 tháng liền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>CHƯƠNG III: THỜI KÌ GIẢ KIM THUẬT</b>



Giả kim thuật là danh từ dịch từ chữ “alchimi”, mà người Ả
Rập sau khi xâm chiếm Ai Cập giữa thế kỉ thứ 7, đặt ra bằng
cách lắp tiền tố “al” của Ả Rập vào từ chimi để chỉ thứ “tiền
hóa học” ngự trị trong thời kì trung cổ ở châu Âu (từ thế kỉ thứ
2 đến thế kỉ thứ 16).


Mục đích chủ yếu của giả kim thuật là tìm hịn đá thần bí biến đổi các kim loại thường thành
vàng. Do vậy có thể tạm định nghĩa hóa học ở thời kì này là “nghệ thuật biến đổi các kim loại
thành vàng”, nhờ hịn đá “thần bí”. Sau đó người ta cịn thêm u cầu tìm ra thuốc thần bí
truyền cho con người sức khỏe, sự trẻ trung, tính bất tử.


Tại sao lại có mục đích tha thiết viển vơng, tìm cách biến các kim loại thành vàng? Nguyên
nhân là do thời trung cổ, ở châu Âu có chế độ xã hội phong kiến phân tán, có sự buôn bán


phát triển khá rộng rãi giữa châu Âu và phương Đơng, nhưng vì giao thơng khó khăn, đường
xa đầy nguy hiểm nên cần vàng là vật liệu quý và nhỏ dễ mang theo để dùng làm vật trao đổi
tương đương. Yêu cầu có nhiều vàng định hướng nghiên cứu cho các nhà giả kim thuật tìm
“ngọc thần bí” có khả năng biến đổi một kim loại bất kì thành vàng. Cơ sở lý thuyết của giả
kim thuật là quan niệm của Aritxtơt chuyển hóa được chất này thành một chất khác, kim loại
này thành kim loại khác.


Về nguồn gốc giả kim thuật, cịn có thể kể thêm lịng tham lam của con người muốn có nhiều
vàng để tạo cho mình một cuộc sống đế vương về vật chất, tham vọng bản thân sống luôn
luôn khỏe mạnh, luôn luôn trẻ trung, sống đời cùng người thân mà khơng bao giờ có cảnh
biệt ly.


<b>Giả kim thuật có một số đặc điểm như sau: </b>


1. Hoạt động bí mật khép kín, có khuynh hướng tà thuật, khơng biết gì đến phương pháp
khoa học.


2. Sử dụng những kí hiệu thần bí và một ngôn ngữ rối rắm cố ý. Truyền các kinh nghiệm cho
nhau theo một đường lối tin cậy mù qng khơng cần cơ sở gì, có sự kiểm tra gì.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Nhìn tổng qt, giả kim thuật có nguồn gốc Hi Lạp – Ai Cập. Nó được Ả Rập tiếp thu khi đến
xâm chiếm Ai Cập giữa thế kỉ thứ 7 rồi đem truyền bá dần sang Tây Âu khi xâm chiếm Tây
Ban Nha đầu thế kỉ thứ 8 (năm 711).


<b>Giả kim thuật đã phát triển theo 3 giai đoạn là:</b>


- Giả kim thuật ỏ Ai Cập thuộc Hi Lạp, từ thế kỉ thứ 4 đến giữa thế kỉ thứ 7.
- Giả kim thuật trong giới Ả Rập, từ giữa thế kỉ thứ 7 đến đầu thế kỉ thứ 13.


- Giả kim thuật trong thiên chúa giáo Tây Âu, từ đầu thế kỉ thứ 13 đến đầu thế kỉ thứ 16.


<b>1. Giả kim thuật ở Ai Cập thuộc Hi Lạp (từ thế kỉ thứ 4 đến giữa thế kỉ thứ 7) </b>


Các nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất trong giai đoạn này là:


Zơsime: đã trình bài cách “cố định thủy ngân” (hóa rắn thủy ngân) cách chế nước thánh cho
nghệ thuật điều chế vàng…


Hecmet ba lần vĩ đại (Hermès Trismégiste) sống vào khoảng đầu cơng ngun, nhiều tài liệu
viết “đóng kín”mang tên ơng và số lượng q nhiều, mấy thế kỉ sau cơng ngun cịn xuất
hiện. Người ta nghi ngờ, tìm hiểu kĩ, nhận ra trong đó cịn thứ cóp nhặt giả tạo.


Ai Cập thuộc Hi Lạp, khơng có kiến thức gì khác mới đáng chú ý.
<b>2. Giả kim thuật trong giới Ả Rập</b>


(từ giữa thế kỉ thứ 7 đến đầu thế kỉ thứ 13)


Các quốc vương Ả Rập có đặc điểm vừa nắm chính quyền lẫn thần quyền. Sau khi xâm
chiếm Ai Cập, họ theo gương chính quyền trước ở Ai Cập tích cực bảo trợ khoa học và nghệ
thuật, thu hút tập trung các nhà bác học, khi đến Tây Ban Nha, người Ả Rập xây dựng
vương quốc Coocđu (Cordoue) độc lập làm thành một trung tâm văn minh Ixlam, thành lập
Trường Đại Học Coocđu có thư viện lớn nhất thời bấy giờ chứa 250.000 sách, giảng dạy các
mơn triết học, tốn, thiên văn, chiêm tinh, y học, giả kim thuật,… tổ chức dịch nhiều tài liệu cổ
điển Hi Lạp sang tiếng Ả Rập. Người Ả Rập chú trọng nhiều nghiên cứu y học, dược học,
tìm, chế biến nhiều thuốc chữa bệnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

hồn thiện nhất, có tỉ lệ kết hợp giữa thủy ngân và lưu huỳnh là tốt nhất. Đây là một đóng
góp thêm của giả kim thuật về mặt lý thuyết


cho hóa học thời bấy giờ. Trong các cơng trình của ơng lần đầu tiên xuất hiện các danh từ
alcati, vitriol, alcohol, alembic, sự mơ tả rõ ràng các lị, các thiết bị dùng trong các phòng


nghiên cứu, cách chế biến chưng cất, kết tinh, thăng hoa… Cách điều chế và tinh chế các
kim loại, cách điều chế axit từ dấm…


Số tài liệu được coi là của ông viết để lại quá nhiều, còn tiếp tục được xuất bản trong nhiều
thế kỉ sau nhưng thực ra có nhiều tác giả khơng phải là của ơng.


Razet (Rhasès), 860-940. Ơng có 2 quyển sách nổi tiếng nhất: “Sách về những bí mật”,
“Sách về bí mật của những bí mật”. Ơng thêm nguyên tố muối làm thành phần thứ 3 trong
cấu tạo kim loại. Ơng nói đến nhiều kĩ thuật chế biến, nhiều dụng cụ thí nghiệm (lị nung,
bình cổ cong, bình kết tinh,…), nhiều hóa chất. Ơng đã mô tả phương pháp dùng vôi sống để
loại nước ra khỏi cồn, thứ cồn lần đầu tiên được chế bằng chưng cất rượu nho.


Avixen (Avicenne), 980-1036 là nhà khoa học Ả Rập lớn cuối cùng, nghiên cứu triết học,
toán, thiên văn, y học, giả kim thuật, nhưng hoạt động nhiều trong lĩnh vực y học. Cơng trình
chính là sách “Quy tắc của khoa y học” – có đề cập đến nhiều chất vô cơ, hữu cơ, và chiếm
vị trí độc tơn về y học của Châu Âu suốt thời kì trung cổ


<b>3. Giả kim thuật ở Tây Âu Thiên Chúa Giáo (từ đầu thế kỉ thứ 13 đến đầu thế kỉ 16)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Thời thịnh vượng nhất của giả kim thuật ở Châu Âu là vào các thế kỉ thứ 13 và 14. Lúc này
nhà thờ thiên chúa giáo chiếm độc quyền văn hóa và nghiên cứu khoa học, trực tiếp là các
tăng lữ, trong các phịng kín đọc sách, ghi chép, nghiên cứu, viết về các khoa học tự nhiên,
đặc biệt chú ý đến môn giả kim thuật. Từ thế kỉ 15, tuy số môn đồ giả kim thuật Châu Âu vẫn
tăng nhưng họ chỉ nhằm điều chế vàng nên giả kim thuật suy tàn dần khơng cịn hi vọng gì
tồn tại…


Những nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất trong giai đoạn này là:


<b>Anbe Lơgrăng (Albert Legrand), 1193-1280, là nhà giả kim thuật người Đức có ảnh hưởng </b>
lớn nhất. Sách của ơng trình bày các thuyết, phần lớn lấy của Aritxtơt, phần thì lấy của người


Ả Rập, ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm quan trọng ái lực hóa học, nêu ra những
thuận lợi của các phương pháp tách (chưng cất, chưng cách thủy, thăng hoa,…), mô tả kĩ
các thiết bị… Ông đã dùng lửa để kiểm tra các mẫu vàng, bạc của các nhà giả kim thuật điều
chế ra, và kết luận vàng, bạc đó đều là giả.


<b>Rơgiơ Bêcơn (Roger Bacon), 1220-1292, là một nhà giả kim thuật người Anh, được mệnh </b>
danh là “tiến sĩ kì diệu” (doctor mirabilis) do có những khả năng xuất sắc. Bêcơn có một trình
độ vượt trình độ thời bấy giờ” ơng cho tóan học có vị trí cơ bản trong các khoa học, một khoa
học nào muốn tiến bộ phải biết kết hợp thí nghiệm với các phương pháp tóan học. Theo ơng
có hai phương pháp nghiên cứu là phương pháp lập luận trừu tượng và phương pháp thí
nghiệm cụ thể; phương pháp thí nghiệm quan trọng vơ cùng, vì nó cần thiết để kiểm tra
những lập luận trừu tượng khơng đủ tin cậy.


Bêcơn học ở Ơcpho (Oxford) nước Anh, tại Pari nước Pháp đỗ tiến sĩ, về ở tu viện


Coocđơliê (Cordeliers) tại Pari ông bắt đầu nghiên cứu khoa học và làm giả kim thuật. Ông
có tư tưởng tiến bộ chống lại triết học kinh viện nên bị các giáo phái nghi ngờ, tìm cách trù
dập, đuổi đi, bắt giam, hành hạ, khủng bố nhiều năm, đến tàn tật khi ông được trả tự do.
Sách “Tấm gương giả kim thuật” của ông trở thành sách giáo khoa thực hành, cho nhiều thế
hệ nhà giả kim thuật sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

cả hai đều vừa là bác sĩ, vừa là nhà giả kim thuật.


Lò chưng cất


Chúng ta hãy đánh giá cơng minh xem, giả kim thuật đã có đóng góp gì có ích cho hóa học.
Nhìn chung đó là một trào lưu đã kìm hãm sự phát triển của hóa học trong một thời gian quá
dài! Nó chạy theo một mục đích mơ hồ, gây lãng phí quá lớn về lao động trí óc và chân tay,
về khối lượng của cải vật chất so với kết quả thu được cho hóa học, tuy vậy có cũng có sự
đóng góp thực tế đáng kể như sau:



- Tập hợp được nhiều hiểu biết thực tế trong phòng thí nghiệm, hồn thiện nhiều kĩ thuật
trong phịng thí nghiệm (nung, chưng cất, hòa tan, lọc, bay hơi, kết tinh, thăng hoa,…).
- Phát hiện được nhiều chất mới: kim loại (Bi, Zn), muối (Hg, NH4+,…), các axit vô cơ H2SO4,


HCl, HNO3, nước cường thủy (đây là một thành tích quan trọng). Đã phân biệt được chất


kiềm bay hơi NH4OH với chất kiềm không bay hơi Na2CO3, phân biệt được 2 cacbonat


Na2CO3 và K2CO3.


Ở Châu Âu, thế kỉ 15, bắt đầu xuất hiện sự chuyên môn hóa những ngành sản xuất nhỏ axit,
kiềm, muối, dược phẩm và một số chất hữu cơ phục vụ các ngành thủ công, nghiên cứu
khoa học bằng thủ công trong những cơng xưởng, phịng thí nghiệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>CAFEIN LÀ GÌ VÀ HOẠT ĐỘNG RA SAO?</b>



Cafein (C8H10N4O2) là tên phổ biến của trimetilxantin ( tên đầy


đủ là 1,3,7-trimethylxanthine hoặc
3,7-dihydro-1,3,7-trimethyl-1H-purine-2,6-dione). Chất này cịn có những cái tên khác như
cà phê, trà, mat-tin (mateine), gua-ra-nai (guaranine), hay
methyltheobromine. Cafein là sản phẩm của một số loại thực
vật, trong đó có hạt cà phê, cây gua-ra-na, cây vơ-ba mát
(yerba máte), cây cacao, và trà. Đối với thực vật, cafein là một thứ thuốc trừ sâu tự nhiên. Nó
làm tê liệt và giết chết sâu bọ ăn thực vật. Phân tử này được chiết xuất lần đầu tiên vào năm
1819, bởi nhà hoá học Pháp, Friedrich Ferdinand Runge.


Nếu là loại tinh khiết, cafein ở dạng bột màu trắng và cực kì đắng. Nó được thêm vào cơla,
và nhiều loại thức uống khác để đem lại một vị đắng thú vị rất đặc biệt. Tuy nhiên, cafein cịn


là một chất kích thích có thể gây nghiện.


Trong cơ thể người ta, nó gây sự kích thích lên các dây thần kinh, nhịp tim, sự hô hấp, làm
thay đổi tính cách con người , và hoạt động cũng giống như một chất lợi tiểu.


Thông thường, một tách cà phê có chứa khoảng 100 mg cafein. Tuy nhiên, khoảng một nửa
dân số của Châu Mĩ dùng 300 mg cafein mỗi ngày, như một liều thuốc thông dụng. Cafein
được dùng dưới dạng cà phê, côla, sơcơla, và trà mặc dù có thể mua nó khá dễ dàng dưới
dạng một chất kích thích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

lượng cafein có thể gây ra ngộ độc cafein. Một số đặc điểm như: nóng tính, thường xun rơi
vào tình trạng bị kích động, làm giảm sự tiểu tiện, gây mất ngủ, mặt đỏ ửng, làm lạnh


tay/chân, bệnh đường ruột, và thỉnh thoảng lại bị ảo giác. Một số người mắc phải các triệu
chứng ngộ độc cafein sau khi dùng khoảng 250 mg mỗi ngày. Đối với người lớn, ước tính
khoảng 13-19 gam, cafein có thể gây chết người. Trong khi được coi là an toàn đối với con
người, cafein có thể rất độc đối với thú ni, như chó, ngựa hay vẹt. Cafein được chứng
mình có thể làm giảm bệnh tiểu đường (dạng II). Ngồi việc dùng cafein như một chất kích
hay là một thói quen, chúng cịn có thể làm thuốc giảm đau đầu khá hiệu quả.


<i>Dương Lưu soạn dịch</i>
<i>(Theo Chemistry About)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>ĐI TÌM THỦY TỔ CỦA CHẤT DẺO </b>



Có lẽ khó mà hình dung ra cuộc sống của chúng ta ngày nay nếu thiếu loại vật liệu khơng thể
thiếu được này. Vậy lồi người được hưởng “đặc ân” này từ bao giờ? Chúng ta hãy đi tìm
thủy tổ của chất dẻo.


Từ thế kỷ XVIII, thành phố Birmingham được coi như một trung tâm của thế giới về sản xuất


khuy: khuy sừng, khuy thủy tinh, khuy xà cừ, khuy trai, khuy đồng… Đã có năm, sản lượng
khuy lên tới 600.000 tấn. Cho nên chẳng lạ gì các nhà phát minh ở nơi đây là những người
đầu tiên lao vào tìm kiếm các vật liệu nhân tạo cho sản phẩm của địa phương mình.


Năm 1862, tại cuộc triển lãm khuy quốc tế, bộ khuya có vẻ đẹp khác thường làm từ vật liệu
mới, giữ bí mật gọi là parksine do nhà phát minh Park tìm ra, đã gây ấn tượng rất mạnh đối
với khách tham quan. 5 năm sau, một người Birmingham khác là Spill “trình làng” một bộ
khuy cịn đẹp hơn thế nữa từ vật liệu gọi là xylonite.


Song đáng tiếc những bộ khuy kiều diễm ấy không chịu được thử thách của thời gian. Chỉ
sau ít lâu, chúng bị mờ đục, biến dạng và nứt vỡ. Tuy vậy, lịch sử đã chứng minh rằng: tuy
thất bại nhưng hai nhà phát minh đã tìm ra một con đường nhân loại chưa từng khai phá. Họ
đã tìm ra nitroxenluloza bằng cách cho axit nitric tác dụng lên bông. Các nhà y học nhậy bén
sử dụng nitroxenluloza vào mục đích của mình: hịa tan nó trong ete, đặt tên là côlôđiông, để
nhỏ vào các vết thương. Ete bay hơi, giọt dung dịch biến thành một lớp màng mỏng, ngăn
cho vết thương khỏi bị nhiễm trùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Ý định tìm một chất biến nitroxenluloza thành dung dịch rắn đã dẫn anh đi qua hang trăm
chất và cuối cùng đến camphor (long não). Ra khỏi khuôn, hỗn hợp nitroxenluloza với
camphor đã trở thành những quả bi-a xinh xắn, vừa đủ sức nặng, lại bóng, đẹp, trơng hấp
dẫn hơn cả những “người anh em” bằng ngà voi. Đã thế, chúng lại nhuộm được thành bất kì
màu gì. Chất liệu ấy, John gọi là xenluloit. Đó là thủ tổ của chất dẻo mà cho đến nay, người
ta vẫn hay dung. Bạn cứ thử ngửi quả bóng bàn, con búp bê hoặc chiếc gọng kính nhựa mà
xem, sẽ thấy thoang thoảng mùi thơm của long não. Xenluloit đấy!


Người cơng nhân trẻ tuổi đã về đích trước trong cuộc thi đua với hanừg chục phịng thí
nghiệm của các trường đại học và viện nghiên cứu. Năm 1870, anh được cấp bằng phát
minh. Hai năm sau, anh đứng ra thành lập nhà máy sản xuất chất dẻo đầu tiên trên thế giới.


Với tài sản lớn trong tay, John Hyatt có điều kiện để nghiên cứu khoa học theo sở thích của


mình. Là nhà kinh doanh thành đạt ông cũng là một nhà phát minh “tầm cở”. Tuy mất khi còn
khá trẻ, nhưng 34 năm sau khi tìm ra xenluloit, ơng đã kịp nhận 200 bằng phát minh nữa.,
trong đó có các phát minh lớn như: các phương pháp tinh chế nước, làm đường từ mía và
nhất là chế tạo ổ bi đũa, một bộ phận quan trọng của ngành cơ khí.


John Hyatt là một tấm gương về say mê học hỏi và làm việc kiên trì.


<i>Tuấn Hồng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Cloral và DDT</b>



Sự clo hoá rượu etylic (ethanol) để điều chế cloral hay triclorandehyd axetic


(trichloroacetladehyde), CCl3CHO, lần đầu tiên được khám phá bởi Justus von Liebig vào
năm 1832: Cl2 + C2H5OH → C2HCl3O + 5HCl


Đó là một chất lỏng khơng màu, linh động, có mùi hắc và độc. Trong nước nó phản ứng tạo
thành dạng hiđrat (2,2,2-tricloro-1-ethanediol – C2H3O2Cl3), một thuốc ngủ/giảm đau mạnh
với tên gọi khác là thuốc “nốc ao” (knockout drops). Đồng thời, đó cũng là một chất phản ứng
quan trọng trong quá trình điều chế thuốc trừ sâu DDT (viết tắt của từ
Dichloro-Diphenyl-Trichloroethane) trong cơng nghiệp.


Sử dụng DDT trong việc kiểm sốt các bệnh lây từ côn trùng đã cứu sống hàng triệu người
trong nửa thế kỷ vừa qua, chủ yếu là qua việc giết hàng loạt muỗi Anophen, một nơi trú ngụ
chính cho sinh vật ký sinh gây bệnh sốt rét. Mặc dù mức độ độc hại của nó đối với động vật
có vú khơng cao nhưng DDT có khả năng gây thối rữa. Sự tích luỹ của nó trong lưới thức ăn
làm nó trở nên một mối nguy hiểm cho các lồi chim cá và do đó nó đã bị cấm bởi Cơ quan
bảo vệ mơi trường của Mỹ từ năm 1972.


Vỏ trứng bị tấn công bởi thuốc trừ sâu dư thừa do quá lạm dụng



<i>Đặng Ngọc Huy</i>


<i><b>hoahocvietnam.com </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>1. Cấu trúc hóa học của chitin</b>


Chitin là polisaccarit mạch thẳng, có thể xem như là dẫn xuất
của xenlulozơ, trong đó nhóm (-OH) ở nguyên tử C(2) được
thay thế bằng nhóm axetyl amino (-NHCOCH3) (cấu trúc I).
Như vậy chitin là poli


(N-axety-2-amino-2-deoxi-b-D-glucopyranozơ) liên kết với nhau bởi các liên kết b-(C-1-4)
glicozit. Trong đó các mắt xích của chitin cũng được đánh số
như của glucozơ:


<b>2. Cấu trúc hoá học của chitosan và một vài dẫn xuất.</b>


Chitosan là dẫn xuất đề axetyl hố của chitin, trong đó nhóm (–NH2) thay thế nhóm


(-COCH3) ở vị trí C(2). Chitosan được cấu tạo từ các mắt xích D-glucozamin liên kết với nhau
bởi các liên kết b-(1-4)-glicozit, do vậy chitosan có thể gọi là poly
b-(1-4)-2-amino-2-deoxi-D-glucozơ hoặc là poly b-(1-4)-D- glucozamin (cấu trúc III).


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>3. Tính chất vật lý của chitin/chitosan.</b>


Chúng tôi nghiên cứu về trạng thái, màu sắc, mùi vị, tính tan của chitin/chitosan trong nước
và trong một vài dung môi khác như: axit, bazơ hoặc trong các dung mơi hữu cơ.


<b>4. Tính chất hố học của chitin/chitosan.</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

N-axetyl-D-glucozamin và nhóm –OH, nhóm -NH2 trong các mắt xích D-glucozamin có nghĩa
chúng vừa là ancol vừa là amin, vừa là amit. Phản ứng hố học có thể xảy ra ở vị trí nhóm
chức tạo ra dẫn xuất thế O-, dẫn xuất thế N-, hoặc dẫn xuất thế O-, N.


- Mặt khác chitin/chitosan là những polime mà các monome được nối với nhau bởi các liên
kết b-(1-4)-glicozit; các liên kết này rất dễ bị cắt đứt bởi các chất hố học như: axit, bazơ, tác
nhân oxy-hóa và các enzim thuỷ phân


4.1.Các phản ứng của nhóm -OH
-Dẫn xuất sunfat.


-Dẫn xuất O-axyl cuả chitin/chitosan.
-Dẫn xuất O–tosyl hoá chitin/chitosan.
4.2. Phản ứng ở vị trí N.


-Phản ứng N-axetyl hoá chitosan.
-Dẫn xuất N-sunfat chitosan.


-Dẫn xuất N-glycochitosan (N-hidrroxy-etylchitosan).
-Dẫn xuất acroleylen chitossan.


-Dẫn xuất acroleylchitosan
4.3. Phản ứng xảy ra tại vị trí O, N.
-Dẫn xuất O,N–cacboxymetylchitosan.
-Dẫn xuất N,O-cacboxychitosan.


-Phản ứng cắt đứt liên kết õ-(1-4) glicozit


<b>5. Khả năng hấp phụ tạo phức với các ion kim loại chuyển tiếp của chitin/chitosan và </b>


<b>một vài dẫn xuất.</b>


- Trong phân tử chitin/chitosan và một số dẫn xuất của chitin có chứa các nhóm chức mà
trong đó các ngun tử Oxi và Nitơ của nhóm chức cịn cặp electron chưa sử dụng, do đó
chúng có khả năng tạo phức, phối trí với hầu hết các kim loại nặng và các kim loại chuyển
tiếp như: Hg2+, Cd2+, Zn2+, Cu2+,Ni2+,Co2+.... Tuỳ nhóm chức trên mạch polime mà thành
phần và cấu trúc của phức khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

trong đó là mạng polime.


<b>6. Một số ứng dụng của chitin /chitosan và các dẫn xuất.</b>


- Chitin/chitosan và các dẫn xuất của chúng có nhiều đặc tính q báu như: có hoạt tính
kháng nấm, kháng khuẩn, có khả năng tự phân huỷ sinh học cao, khơng gây dị ứng, không
gây độc hại cho người và gia súc, có khả năng tạo phức với một số kim loại chuyển tiếp như:
Cu(II), Ni(II), Co(II)... Do vậy chitin và một số dẫn xuất của chúng được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực: Trong lĩnh vực xử lí nước thải và bảo vê mơi trường, dược học và y
học, nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ sinh học…


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

và từng bước được áp dụng vào giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trên Trái Đất…


Vũ Công Phong
<i>(Sưu tầm và biên soạn)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>CHẤT CARBENDAZIM TRONG SẦU RIÊNG</b>



Thời gian gần đây, trên báo đài hay nói về sầu riêng có bơi chất


carbendazim trên cuống để bảo quản khi thu hoạch. Sau đây là một số
thơng tin mà Hoahocvietnam.com có được về chất này, mời quý vị tham


khảo.




Carbendazim là chất bột có màu xám trắng.
Cơng thức hóa học: C9H9N3O2


Công thức phân tử:


Mã nhận dạng CAS number: 10605-21-7
Trọng lượng phân tử: 191.187 g/mol
Nhiệt độ nóng chảy: 302-307 °C


Những tên gọi khác: Methyl (1H-benzimidazol-2-yl)carbamate, Carbendazol (ZMAF),
methyl-2-benzimidazole carbamate (MBC, MCB, BCM, BMC)


Sản xuất và ứng dụng:


Vào năm 1988, sản lượng carbendazim tồn cầu xấp xỉ 3600 tấn. Nó là một chất thuộc nhóm
thuốc diệt nấm benzimidazole được dùng rộng rãi nhất. Carbandazim thường được dùng
như chất ngăn ngừa các bệnh thực vật ở cây ăn trái, rau quả, ngũ cốc...


Tác động:


- Đối với môi trường: Carbendazim là chất gây hại cho các sinh vật sống dưới đất và dưới
nước.


- Đối với con người: Được đánh giá là có độc tính thấp đối với con người. Làm bỏng rát khi
tiếp xúc với da và mắt. Theo các nghiên cứu trên động vật, tiếp xúc thường xuyên và lâu dài
với carbendazim có thể tác động xấu đến quá trình sinh sản và phát triển ở người.



Uyên Chi


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>URANI - NGUYÊN TỐ PHÓNG XẠ</b>



Năm 1789, nhà hóa học người Đức Claprot (M.Klaproth) phát hiện ra một nguyên tố mới và
để nhớ hành tinh Thiên Vương (Uranus) vừa được nhà thiên văn học người Anh Hơcsen
(Herchel) tìm ra năm 1781. Ơng đã đặt tên cho nguyên tố mới là Urani.


Nhưng thật ra thì ơng đã nhầm vì ơng mới điều chế được
Uranidioxyt (UO2) chứ chưa phải kim loại Urani. Mãi tới năm
1842, nhà hóa học Pháp Peligo ( E.Peligo) mới thực hiện điều
chế ra bột kim loại màu đen của Urani khi dùng kim loại kali để
khử muối Cloura khan của Urani đã được đun nóng.


Urani là ngun tố nằm ở ơ 92 trong bảng tuần hồn các ngun
tố hóa học, có bề ngồi màu trắng bạc, tỷ trọng 18,5-19, xấp xỉ
như vàng, bằng 80% của chì; tương đối mềm, rất dễ dàng tiến hành gia cơng cơ khí; tính
chất hóa học hoạt động; trong khơng khí có thể bị oxy hóa chầm chậm chuyển thành màu
đen. Điều khác biệt với các kim loại khác là có tính phóng xạ- có thể tự động phóng ra những
tia xạ mắt thường khơng thể nhận ra, cho nên nó là kim loại hiếm có tính chất phóng xạ. Tính
phóng xạ do Becoren (H.Bequerel) tìm ra khi nghiên cứu hiện tượng phát lân quang của hợp
chất Urani. Urani thiên nhiên là do mấy loại đồng vị phóng xạ của Urani hợp thành như:
238U, 235U, 234U,…


Một thời gian dài sau khi được phát hiện, Urani chưa được ứng dụng nhiều trong cuộc sống.
Lịch sử khảo cổ cho biết cho biết rằng thời cổ La Mã hợp chất urani đã được dùng trong chế
tạo thủy tinh màu. Ngồi ra, khơng có thêm một ứng dụng nào từ Urani nữa!


Tới thế kỉ XIX, người ta bắt đầu nghiên cứu những tính chất và ứng dụng của Urani, xác định


nó là chất nhuộm màu vàng rất đẹp cho thủy tinh và sành sứ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Nhà hóa học người Đức Martin Heinrich Klaproth (01/12/1743 – 01/01/1817), người phát
hiện ra nguyên tố Urani


Qua đi 37 năm, để tới năm 1939, lồi người đã có phát hiện trọng đại trong lịch sử khoa học:
các nhà khoa học Đức Hari(O.Hahn) và Stratman (F.Strassmann) đã tìm ra sự phân hạch
của Urani dưới tác dụng của những nơtron chậm. Một năm sau, các nhà vật lý Xô viết G.N.
Flerop và K.A.Petrogiac dã chứng minh rằng hạt nhân của Urani có thể tự phân chia. Những
phát minh đó đã mở đầu cho kỷ nguyên chinh phục năng lượng nguyên tử. Dùng phương
pháp nhân tạo, oanh kích hạt nhân nguyên tử Urani sẽ xảy ra phản ứng phân rã liên tục mà
phóng ra năng lượng cực lớn. Năng lượng đó gọi là năng lượng hạt nhân hoặc năng lượng
nguyên tử. Từ năm 1942 việc sản xuất Urani tăng mạnh đặc biệt trong 20 – 30 năm gần
đây ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

cầu nhanh chóng khớp chặt vào nhau làm một, số nơtron đột ngột tăng lên, lập tức sản sinh
phản ứng dây chuyền, chỉ trong vòng thời gian cực kì ngắn, quả bom nguyên tử sẽ tạo ra vụ
nổ cực lớn giải phóng ra năng lượng khủng khiếp, nhiệt độ cao tới vài triệu độ và áp lực tới
vài tỷ atôtphe. Nếu 1kg Urani phát sinh phản ứng phân rã, phóng ra 79,4 ngàn tỷ nhiệt luợng
tương đương với sức tàn phá của 18 000 tấn thuốc nổ cực mạnh TNT.


Lợi dụng tính chất năng lượng hạt nhân, chính quyền Hoa Kỳ chế tạo ra 3 quả bom nguyên
tử, trong đó 2 quả đã ném xuống hai hòn đảo Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản, đã giết
chết hàng trăm ngàn người dân … Nhưng vụ nổ hạt nhân có thể dùng để kiến thiết, như
thuốc nổ thông thường như dùng trong khai thác hầm mỏ, xây dựng đê điều, đường xá … 1
kg thuốc nổ hạt nhân có thể trong tích tắc, năng lượng sản sinh ra tương đương với sức lực
của 25 000 lao động trong vòng một năm.


Theo thống kê năm 1954 là năm thế giới có trạm phát điện nguyên tử đầu tiên đưa và vận
hành, cho tới cuối năm 2006, toàn thế giới đã có 34 nước với 560 trạm phát điện nguyên tử,


tạo ra 5780 tỷ kWh chiếm ¼ tổng lượng điện tồn thế giới làm ra. Trong đó, nước Mỹ có số
trạm phát điện lớn nhất: 201. Tỷ trọng về điện nguyên tử trong tổng số lượng điện phát ra ở


Pháp là lớn nhất cứ mỗi 10 kWh điện có trong đó 7
kWh là điện phát từ trạm điện nguyên tử.


Các nhà khoa học cho biết, phần đồng vị chủ yếu của
Urani thiên nhiên là 238U (còn đồng vị 235U trong tạo
năng lượng nguyên tử rất ít)- chiếm tới 95%, rất cần
cho sự phát triển bình thường của cây trồng. Nó làm
tăng hàm lượng đường trong cây cà rốt, củ cải đường
và một số cây ăn quả, bởi vì làm vi sinh vật trong đất
được phát triển mạnh. Động vật cũng rất cần Urani. Người ta cho chuột ăn lượng nhỏ urani
trong vịng một năm, thấy khơng có hậu quả có hại mà chuột tăng khối lượng lên gấp đơi!
Hóa ra, Urani giúp cơ thể sống đồng hóa dễ dàng photpho, nitơ, kali,…Dùng muối Urani có
thể chữa được một số bệnh như bệnh đái đường, da liễu, các khối u…Nhiều hợp kim có
chứa urani có những tính năng quý giá như Thép – Urani chịu được nước cường toan, axít
có tính oxi hóa mạnh…Urani cịn là chất xúc tác trong các phản ứng hóa học như xúc tác
UO2 (urani dioxit), UC(UraniCacbua)…


Nhiên liệu hạt nhân có phải là nguồn năng lượng từ khoáng vật như than đá, dầu mỏ, khí
thiên nhiên …dùng chẳng bao lâu thì cạn kiệt ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

kim loại hiếm có tính phóng xạ khác như: Thoiri(Th), có lượng chứa trong vỏ Trái Đất ít hơn
một chút so với Thiếc (Sn) còn nhiều hơn vonfram, Molipden… nhưng giá trị khai thác cịn
q ít. Cịn Urani trong vỏ Trái Đất, nó chỉ chiếm 2,5.10-4 % về khối lượng trong đó 238U
chiếm 99,28%. Còn 235U (đồng vị của 238U ) là nguyên liệu của lò phản ứn hạt nhân, chỉ
chiếm hàm lượng vô cùng nhỏ trong vỏ Trái Đất. Nhưng trong nước biển có tàng chứa mấy
tỷ tấn Urani, tức là hơn rất nhiều so với lượng Urani khống vật trên lục địa.



Nếu như có thể tách lấy Urani từ trong nước biển để chúng ta sử dụng thì năng lượng


nguyên tử mà con người tạo ra sẽ tương đương với hàng vạn tỷ tấn than tiêu chuẩn, và theo
định mức tiêu thụ trung bình về năng lượng hiện nay trên toàn thế giới, là đủ cho loài người
sử dụng trong vài vạn năm nữa!


<i>Vũ Công Phong biên soạn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>DIETHYLEN GLYCOL (DEG)</b>



Công thức hóa học: C4H10O3


Cơng thức phân tử: (CH2CH2OH)2O


Mã số nhận dạng CAS number: 111-46-6
Trọng lượng phân tử: 106.12 g/mol
Tỷ trọng: 1,upload.123doc.net g/cm3
Nhiệt độ nóng chảy: -10,45o<sub>C</sub>


Nhiệt độ sơi: 244o<sub>C</sub>


<b>Những tên gọi khác:</b>


Bis (2-Hydroxyethyl) Ether; Dihydroxydiethyl Ether; Beta,Beta'-Dihydroxydiethyl Ether;
2,2'-Dihydroxyethyl Ether; 2,2'-Oxydiethanol; Ethylene Diglycol; Diglycol; Glycol Ether; Glycol
Ethyl Ether; 2-Hydroxyethyl Ether; 3-Oxapentane-1,5-Diol; 3-Oxa-1,5-Pentanediol;
2,2-Oxybisethanol; Brecolane NDG; Carbitol; Deactivator E; Deactivator H; DEG; Dicol;
Dissolvant APV; TL4N


<b>Ứng dụng:</b>



- Diethylen glycol (DEG) thường được biết đến nhiều trong việc ứng dụng làm phụ gia nhiên
liệu, phụ gia xây dựng, chất trợ nghiền xi măng, dùng như là chất chống đông lại và phụ gia
chống đóng băng.


- Sản phẩm trung gian trong sản xuất polymer và phản ứng hóa học. Nguyên liệu glycol cho
sản xuất sợi polyeste và sản xuất PET. Dung mơi hay chất dẻo hóa (cho) chất dẻo, sơn mài,
sơn.


- Dùng trong thủy lực, phanh, chất lỏng trao đổi nhiệt. Làm ẩm ướt và làm dẻo. Loại nước,
hút ẩm. Chất điều hoà, dùng trong lau rửa. Bảo quản, chất tẩy rửa và chất khử trùng.
- Dùng trong in ấn. Dung môi trong ngành dệt nhuộm, thuộc da.


- Sản xuất chất nổ, thành phần điện phân.


<b>Cảnh báo:</b>


- Có tính độc, độc khi ăn phải, bỏng khi tiếp xúc với da, mắt (do hóa chất này có tính hút
nước), làm suy giảm chức năng thận, tác động đến trung khu thần kinh, suy hô hấp và là tác
nhân gây ung thư.


- Có thể là tác nhân gây ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, gây khuyết tật sinh, trọng
lượng mới đẻ thấp, loạn chức năng sinh học...


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>Thông tin thêm: </b>


Trong những ngày gần đây, chúng ta đều được nghe đến hóa chất Diethylen glycol (có tác
dụng ngăn kem đánh răng đơng cứng lại) có trong hai loại kem đánh răng xuất xứ Trung
Quốc có nhãn hiệu "Excel" và "Mr.Cool" đã gây tử vong ở Panama, Cộng hòa Dominica, và
hiện hai nước đã cấm lưu hành.



<i>Thanhdvien biên soạn</i>


<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>ĐỘC TỐ 3-MCPD</b>



Độc tố 3-MCPD thuộc nhóm hóa chất gây độc có tên gọi chloropropanols, có
cơng thức phân tử chung C3H7ClO2, khối lượng phân tử 110,5.


Chloropropanols có các dẫn xuất 1,3-DCP; 2-MCPD; 2,3-DCP và 3-MCPD.
Trong đó, 3-MCPD có hàm lượng cao nhất và tồn tại dưới dạng hỗn hợp
racemic của 2 đồng phân (R) và (S) (hàm lượng của 2 đồng phân đối quang
bằng nhau 50:50).




1,3-dicloro-2 propanol (1,3-DCP)


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

2,3-dichloro-2-propanol (2,3-DCP)


3-Monochloropropane-1,2-diol (3-MCPD)


Độc tố 3-MCPD được hình thành qua phản ứng giữa chất béo với các chất có chứa Clo.
Phản ứng thường xảy ra trong quá trình thủy phân chất đạm thực vật bằng acid clohidric
HCl. Do đó thường gặp trong nước tương, bánh mì, formage, xúc xích... nhất là trong nước
tương, do nhà sản xuất dùng protein thực vật thủy phân bằng acid clohydric để làm tăng vị
mặn và tăng hương vị (trong quy trình sản xuất nước tương, đây là khâu thủy phân đạm
trong khơ dầu đậu nành).



Do đó, nếu dùng đúng nồng độ acid (không quá cao) độc tố sẽ sinh ra ít, phù hợp với hàm
lượng tiêu chuẩn cho phép. Theo nhiều nghiên cứu, 3-MCPD có khả năng gây ung thư, gây
đột biến gien ở người.


<i>Khánh Vân biên soạn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>MỘT SỐ THUỐC THỬ THÔNG DỤNG </b>



<b>Thuốc thử Barfoed: Thuốc thử này trông giống thuốc thử Benedict </b>
nhưng hơi khác một chút . Dung dịch được chuẩn bị bằng cách hòa tan
70g Đồng acetat monohydrat với 9ml axít acetic băng trong nước sau đó
đưa vào bình định mức 1lít rồi thêm nước cho đến vạch định mức, dung
dịch có thể sử dụng trong thời hạn một năm.


Khi 1ml dung dịch thuốc thử này được đun nóng với 5 giọt chất mẫu, kết quả dương tính đối
với monosacarit là sự hình thành kết tủa đỏ gạch tồn tại trong vòng 5 phút. Còn disacarit nhìn
chung khơng thấy phản ứng xảy ra sau 10 phút đun nóng với thuốc thử. Kết tủa sẽ khơng
đóng váng như khi thử với thuốc thử Benedict.


<b>Thuốc thử Benedict: Chúng tôi thường dùng thuốc thử bán trên thị trường vì nó có tính ổn </b>
định cao hơn dung dịch pha chế trong phịng thí nghiệm. Hiện nay ở Việt Nam chưa thấy
xuất hiện thuốc thử này, thường nếu muốn mua bạn phải nhập khẩu. Dung dịch pha chế
trong phịng thí nghiệm được phân ra hai loại, một là dung dịch thơ dùng cho phân tích định
tính, hai là dùng cho phân tích định lượng:


· Với dung dịch thơ tiến hành như sau: trước hết hịa tan 100g Na2CO3 và 173g Natri


Citrat dihydrat trong 850ml nước, khuấy đều và cho từ từ dung dịch của 17.3 g Đồng sulfat
trong 100ml nước. Sau đó thêm hỗn hợp vào bình định mức 1lít và thêm nước đến vạch chỉ
định, thuốc thử có thể sử dụng lâu dài.



· Trong 600ml nước nóng hịa tan các chất sau:


- 200g Natri citrat (C6H5Na3O7)


- 75g Natri cabonat
- 125g Kali thiocynat


Trong 100ml nước hòa tan
- 18g CuSO4.5H2O


Khi các dung dịch đã nguội trộn chúng với nhau và khuấy đều sau đó thêm 5ml dung dịch
Kali


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Khi 1ml dung dịch thuốc thử được đun nóng với 5 giọt chất mẫu trong một cốc nước, dấu
hiệu tích cực khi kiểm tra sự có mặt của đường khử là hình thành kết tủa trong 5 phút.
Khoảng biến màu từ xanh lá cho đến vàng rồi chuyển qua màu cam sau đó là màu đỏ gạch
tùy thuộc vào hàm lượng đường khử có trong chất mẫu; với một mẫu chứa 1% glucose thì
màu của kết tủa thường là đỏ gạch.


<b>Thuốc thử Bial: Hòa tan 3 g orcinol (C</b>7H8O2) trong 500 mL axít HCl đậm đặc, thêm 2,5 ml


dung dịch feric clorua hexahydrat 10% và hịa tan hỗn hợp thành 1lít với nước và lúc này HCl
xấp xỉ 6M. Thuốc thử chỉ bền trong vịng vài tuần, nhưng tơi chưa thử để lâu hơn, bạn hãy
thử xem sao. Thuốc thử Bial được pha chế theo cách cổ điển được chuẩn bị trong 1lít HCl
đậm đặc khơng pha lỗng với nước. Dung dịch này phản ứng nhanh hơn (30-60 giây) nhưng
kém bền so với thuốc thử pha chế bằng phương pháp nêu trên và hơi của HCl đậm đặc là cả
một vấn đề nan giải. Và bạn cũng có thể dùng HCl 4M vẫn phản ứng tốt nhưng chậm và cho
màu yếu hơn.



· Khi 1ml dd thc thử được đun nóng với 5 giọt chất mẫu trong một cốc nước thì dấu hiệu


tích cực với pentose(phân tử đường chứa 5 cacbon) là sử đổi màu dung dịch từ xanh lá
sang xanh da trời trong chốc lát.


<b>Thuốc thử Biuret: Thêm 300ml dung dịch NaOH 10% về thể tích vào 500ml dung dịch </b>
chứa 0.3% đồng sulfat pentahydrat và 1.2% Kali Tartrat (C4H4K2O6) khuấy đều rồi pha loãng


thành 1lít dung dịch. Sau đó để dung dịch ở chỗ tối ngay để tránh thuốc thử bị biến tính.
· Thuốc thử có thể dùng trong phân tích định tính và định lượng. Trong một phản ứng
tiêu biểu một phần thể tích của mẫu được trộn với 2 phần thể tích của thuốc thử; tỉ số tối giản
phụ thuộc vào nồng độ tối đa của protein mà bạn muốn phát hiện. Sự xuất hiện của protein
sẽ cho ra màu tìm với bước sóng hấp thụ khoảng 550-555nm, chúng tơi thường đọc được ở
540nm.


<b>Thuốc thử Bradford: Hòa tan 100mg Coomassie Blue G-250 (C</b>41H44N3NaO6S2) trong 50


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

· Để định lượng protein hãy trộn 0.25ml mẫu với 2.5 ml thuốc thử Bradford. Sau 5 phút
đo phổ hấp thụ ở 595nm. Một điểm bất lợi của thuốc thử này là nó cho ra một khoảng trắng
dài làm ảnh hưởng đến kết quả đọc phổ bởi vì một số thuốc thử dính chặt với cuvét. Một
điểm bất lợi khác nữa là thuốc thử này rất nhạy với dung dịch tẩy rửa nếu như dụng cụ thủy
tinh không được rửa lại sạch thì có nghĩa là bạn đang nghiên cứu về khả năng hòa tan của
màng protien trong chất tẩy rửa.


<b>Thuốc thử DNSA: Thuốc thử này dùng để phát hiện nhóm khử cuối mạch của hydrocarbon </b>
và tơi thấy nó rất hữu dụng trong nhiều thí nghiệm. Thành phần của nó là 1% của


3,5-dinitrosalicylic Axít (DNSA), 30% Natri Kali Tartrat và 0.4M NaOH. Thuốc thử này rất bền và
sau vài năm cất trữ có một vài vẫn đen xuất hiện trong dung dịch, mặc dù cũ nhưng vẫn sử
dụng tốt.



· Trong một phản ứng tiêu biểu, cùng một thể tích của mẫu và thuốc thử được đun nóng


trong cốc nước sơi khoảng 10 phút. Sau đó để nguội và đó pha lỗng với 10 phần thể tích
nước đo phổ hấp thụ thu được bước sóng 540nm. Tơi thường dùng khoảng 0.4 ml mẫu và
DNSA và sau khi đun nóng hịa tan với 4ml nước, thu được một hỗn hợp vừa đủ để chạy
phổ hấp thụ. Khi khơng có nhóm khử nào xuất hiện thì màu thu được là màu vàng và khoảng
hấp thụ từ 0.03-0.05, dấu hiệu tích cực là màu đỏ tạo thành với khoảng hấp thụ trên 1.0.
<b>Thuôc thử Lowry: </b>


· Thuốc thử 1: trộn lẫn một phần thể tích thuốc thử B (0.5% đồng sulfat pentahydrat, 1%
Kali tartrat) với 50 phần thể tích của thuốc thử A (2% Natri carbonat, 0.4% NaOH). Cả hai
thuốc thử A và B bền trong một thời gian tương đối dài nhưng tôi thấy thuốc thử B xuất hiện
kết tủa có nghĩa là nó nhắc tơi cho thêm một ít NaOH.


· Thuốc thử 2: Hòa tan thuốc thử Folin-Ciocalteu phenol thương mại với một lượng
nước bằng về thể tích , thuốc thử sẽ bền trong vài tuần.


Để định lượng protein trộn 0.25ml dung dịch chứa protein với 2.5 ml thuốc thử Lowry. Sau 10
phút thêm 0.25ml thuốc thử Lowry 2 và lắc đều. Sau 30 phút đo phổ hấp thụ ở 750nm.(Nếu
bạn dùng Spectronic 20 với một ống photo thơng thường thì 750nm là q dài, nhưng ở
600nm cho kết quả hấp thụ thấp hơn nhưng vẫn cịn chấp nhận được.)


<b>Thc thử Seliwanoff: Hịa tan 1g resorcinol (C</b>7H8O2) trong 300ml HCl đậm đặc sau đó


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

dịch từ vàng cam sang đỏ trong vòng 5 phút. Trong một số tài liệu khác thì nói rằng màu quả
mơ là kết quả âm tính. Màu sắc của thí nghiệm kết quả phụ thuộc vào nồng độ của chất
mẫu, và một vài loại đường như glucose thì khơng biến màu thậm chí sau mười phút trong
thuốc thử.



<i> Thái Phú Khánh Hòa(Internet)</i>


<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>NGUYÊN TỐ THỨ upload.123doc.net</b>



<b> Các nhà khoa học thuộc lĩnh vực hóa học, vật liệu học và khoa học đời sống ở Phịng Thí </b>
nghiệm Quốc Gia Lawrence Livermore (LLNL), hợp tác với các nhà nghiên cứu đến từ
Dubna, Viện hợp tác nghiên cứu hạt nhân (JINR - Joint Institute for Nuclear Research) ở
Nga, đã cùng khám phá ra nguyên tố thứ upload.123doc.net, một nguyên tố mới nhất với
khối lượng phân tử rất lớn.


Vào giữa tháng 2 và tháng 6 năm 2005, các nhà nghiên cứu đã
thực hiện nhiều thí nghiệm với thiết bị JINR U400 cyclotron, và quan
sát sự phân hủy của chuỗi nguyên tử cấu tạo bởi nguyên tố thứ
upload.123doc.net. Ở những chuỗi nguyên tử đang phân rã này,
nguyên tố thứ upload.123doc.net phân hủy bởi các hạt alpha sẽ tạo
ra nguyên tố thứ 116.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

5 nguyên tố mới (nguyên tố thứ 113, 114, 115, 116 và upload.123doc.net).


Ken Moody, người dẫn đầu nhóm Livermore, nói:“Tính chất khi phân hủy của tất cả các chất
đồng vị mà chúng ta đã khám phá cho đến nay đã thêm vào danh sách các “nguyên tố bền”
-“Island of Stability” ; điều này cho thấy rằng chúng ta có thể may mắn thành công nếu chúng
ta cố gắng tiếp tục nỗ lực nghiên cứu hơn nữa”.


Thuật ngữ “nguyên tố bền” - “Island of Stability” xuất phát từ vật lý hạt nhân diễn tả khả năng
có thể cân bằng ổn định số lượng proton và neutron của các nguyên tố. Điều này cho phép
các chất đồng vị của nhiều nguyên tố transuranic (là các nguyên tố có số lượng nguyên tử
lớn hơn 92) có thể ổn định bền hơn so với các nguyên tố khác, và do đó phân hủy chậm


hơn.


Nguyên tố thứ upload.123doc.net được kỳ vọng là một chất khí quý hiếm đứng ngay phía
dưới chất radon trong bảng tuần hồn các ngun tố.


Moody nói: “Có khoảng 90 nguyên tố hóa học, và thật là tuyệt vời khi chúng có thể tìm hiểu
học hỏi bảng tuần hồn các ngun tố hóa học hơn nữa. Qua đó, chúng ta hiểu sự tồn tại và
cấu tạo của thế giới này”.


Các thành viên trong nhóm Livermore gồm: Moody, Dawn Shaughnessy, Mark Stoyer, Nancy
Stoyer, Philip Wilk, Jacqueline Kenneally, Jerry Landrum, John Wild, Ron Lougheed và cựu
nhân viên Joshua Patin.


Giám đốc Hiệp hội Hóa học, Vật liệu và Khoa học đời sống - Chemistry, Materials and Life
Sciences Associate, Tomas Diaz de la Rubia nói: “Điều này hồn tồn là một bước đột phá
trong lĩnh vực khoa học. Chúng ta đã khám phá ra một nguyên tố mới cho ta những hiểu biết
sâu sắc các tính chất của vũ trụ. Đối với các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu thì đây là
một bản di chúc mạnh mẽ và có giá trị đối với Khoa học kỹ thuật tại Phịng Thí nghiệm này”.
Kể từ khi thành lập năm 1952, Phịng Thí nghiệm Livermore đã khám phá ra nhiều nguyên tố
nặng. Trong những năm qua, nhờ được cung cấp các vật liệu đặc biệt để làm thí nghiệm,
nhóm nghiên cứu ở đây đã gặt hái nhiều thành công trong việc khám phá ra các nguyên tố
mới. Năm 1999 và 2001, Phịng Thí nghiệm thơng báo đã phát hiện lần lượt các nguyên tố
114 và 116. Năm 2004, nhóm hợp tác nghiên cứu Livermore-Dubna tiến hành khảo sát
nguyên tố 113 và 115.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Mark Stoyer nói: “Sẽ tiếp tục tìm kiếm các ngun tố mới trong nhóm các nguyên tố nặng cho
đến giới hạn bền của hạt nhân. Hy vọng sẽ tìm ra giới hạn đó”.


Phịng Thí nghiệm Quốc Gia Lawrence Livermore, thành lập năm 1952, có nhiệm vụ bảo
đảm an tồn quốc gia và ứng dụng các khoa học kỹ thuật vào những vấn đề quan trọng trong


thời buổi hiện đại này. Phịng Thí nghiệm Quốc Gia Lawrence Livermore do Đại Học


California, Bộ Quản Lý Năng lượng An Toàn Hạt Nhân Quốc Gia của Mỹ quản lý.


<i>Quỳnh Thi dịch</i>


<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>AXÍT CITRIC</b>



<b>1. Giới thiệu </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Ngồi ra axít citric cịn đóng vai trị như là một chất tẩy rửa, an tồn đối với mơi trường và
đồng thời là tác nhân chống oxy hóa. Axít citric có mặt trong nhiều loại trái cây và rau quả
nhưng trong trái chanh thì hàm lượng của nó được tìm thấy nhiều nhất, theo ước tính axít
citric chiếm khoảng 8% khối lượng khơ của trái chanh.


<b>Axít Citric</b>


<b>Thơng tin tổng qt</b>


Tên chuẩn 2-hydroxypropane-1,2,3-tricarboxylic acid
Tên thường Axít chanh


CTPT C6H8O7


SMILES (1) C(C(=O)O)C(CC(=O)O)(C(=O)O)O
Khối lượng PT 192.13 g/mol


Có dạng Tinh thể màu trắng


Số CAS (2) [77-92-9]


<b>Tính chất </b>


KL riêng 1665 kg/m3


Nhiệt độ nóng chảy 153ºC (307.4ºF, 426K)
Nhiệt độ sơi Phân hủy ở 175ºC


pKa pKa1=3.15


pKa2=4.77


pKa3=6.40


<b>2. Tính chất</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

thành ion citrat. Các muối citrat dùng làm dung dịch đệm rất tốt để hạn chế sự thay đổi pH
của các dung dịch axít.


Các ion citrat kết hợp với các ion kim loại để tạo thành muối, phổ biến nhất là muối Canxi
Citrat dùng làm chất bảo quản và giữ vị cho thực phẩm. Bên cạnh đó ion citrat có thể kết hợp
với các ion kim loại tạo thành các phức dùng làm chất bảo quản và làm mềm nước.


Ở nhiệt độ phịng thì axít citric tồn tại ở dạng tinh thể màu trắng dạng bột hoặc ở dạng khan
hay là dạng monohydrat có chứa một phân tử nước trong mỗi phân tử của axít citric. Dạng
khan thu được khi axít citric kết tinh trong nước nóng, trái lại dạng monohydrat lại kết tinh
trong nước lạnh. Ở nhiệt độ trên 74ºC dạng monohydrat sẽ chuyển sang dạng khan.
Về mặt hóa học thì axít citric cũng có tính chất tương tự như các axít carboxylic khác. Khi
nhiệt độ trên 175ºC thì nó phân hủy tạo thành CO2 và nước.



<b>3. Lịch sử</b>


Vào thế kỷ thứ 8 nhà giả kim thuật Jabir Ibn Hayyan người Iran đã phát hiện ra axít citric.
Các học giả châu Âu thời trung cổ cũng đã biết về axít tự nhiên trong chanh, những kiến thức
sơ bộ về axít này cũng đã được ghi nhận vào thế kỷ XIII. Axít Citric được nhà hóa học người
Thụy Sĩ tách được vào năm 1784, ông đã kết tinh được axít citric từ nước chanh ép. Năm
1860 ngành công nghiệp nước ép trái cây của Ý đã đưa cơng trình sản xuất axít citric vào
hoạt động.


Năm 1893 C. Wehmer đã phát hiện ra rằng nấm mốc (3) cũng có thể tạo nên axít citric từ
đường. Sản xuất axít citric theo kiểu vi sinh này đã không được đưa vào sản xuất công
nghiệp cho đến thế chiến thứ I, do cục xuất khẩu nước hoa quả của Ý bác bỏ. Vào năm 1917
nhà hóa học thực phẩm James Currie người Mỹ đã phát hiện ra rằng nấm mốc hình sợi có
thể dùng để sản xuất axít citric rất hiệu quả. Hai năm sau tập đoàn dược phẩm Pfizer đã ứng
dụng kỹ thuật này vào sản xuất axít citric theo qui mơ cơng nghiệp.


<b>4. Sản xuất</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<b>5. Ứng dụng</b>


Với vai trò là một chất phụ gia thực phẩm, axít citric được dùng làm gia vị, chất bảo quản
thực phẩm và đồ uống, đặc biệt là nước giải khát, nó mang mã số E330 (5). Muối Citrat của
nhiều kim loại được dùng để vận chuyển các khoáng chất trong các thành phần của chất ăn
kiêng vào cơ thể. Tính chất đệm của các phức Citrat được dùng để hiệu chỉnh độ pH của
chất tẩy rửa và dược phẩm.


Citric axít có khả năng tạo phức với nhiều kim loại có tác dụng tích cực trong xà phịng và
chất tẩy rửa. Bằng cách phức hóa các kim loại trong nước cứng, các phức này cho phép các
chất tẩy rửa tạo nhiều bọt hơn và tẩy sạch hơn mà không cần làm mềm nước trước. Bên


cạnh đó axít citric cịn dùng để sản xuất các chất trao đổi ion dùng để làm mềm nước bằng
cách tách ion kim loại ra khỏi phức Citrat.


Axít citric được dùng trong cơng nghệ sinh học và công nghiệp dược phẩm để làm sạch ống
dẫn thay vì phải dùng axít nitric.


Ở Anh, axít citric được dùng làm chất đệm để cho heroin nâu dễ hịa tan hơn. Một túi axít
citric loại nhỏ được dùng để ép người nghiện thay kim tiêm bẩn bằng một cái sạch hơn nhằm
hạn chế sự lây nhiễm của AIDS và bệnh viêm gan. Các axít khác dùng để hịa tan heroin nâu
là ascobbic, axetic và axít lactic, trong trường hợp thiếu thuốc con nghiện sẽ tiêm nước
chanh vắt hay dấm.


Citric axít là một trong những hóa chất cần thiết cho quá trình tổng hợp Hexametylen
triperoxit diamin (HMDT) là một chất dễ phát nổ giống Axeton peroxit, nhạy với nhiệt và ma
sát. Ở một số nước nếu bạn mua một số lượng lớn axít citric bạn sẽ bị liệt kê vào sổ đen của
các âm mưu khủng bố.


Axít citric cũng được cho vào thành phần của kem để giữ các giọt chất béo tách biệt. Ngồi
ra nó cũng được thêm vào nước ép chanh tươi.


<b>6. Thơng tin về an tồn</b>


Citric axit được coi là an toàn sử dụng cho thực phẩm ở các quốc gia trên thế giới. Nó là một
thành phần tự nhiên có mặt ở hầu hết các vật thể sống, lượng dư axít citric sẽ bị chuyển hóa
và đào thải khỏi cơ thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Axít citric khơ có thể làm kích thích da và mắt do đó nên mặc áo bảo hộ khi tiếp xúc với axít
này.




---


<i>(1) SMILES là một ngôn ngữ thông minh dùng các ký tự ASCII để biểu diễn các phân tử, </i>
<i>phản ứng hóa học qua các nguyên tử và các ký hiệu liên kết. Con người có thể đọc và hiểu </i>
<i>được một chuỗi SMILES và dùng để làm ký hiệu cho các phân tử hóa học mà người ta có thể</i>
<i>tra cứu vào cơ sở dữ liệu để tìm một chất mong muốn.</i>


<i>(2) CAS là số đăng kí cho các hợp chất hóa học, polyme, hợp chất vi sinh, hỗn hợp và hợp </i>
<i>kim, các số đăng ký này sẽ giúp máy tính truy xuất từ cơ sở dữ liệu nhanh chóng hơn.</i>
<i>(3) Nếu bạn nấu một ít agar rồi đổ vào đĩa petri dùng bàn thay bẩn chà lên vài lần, khoảng </i>
<i>một tuần sau xem lại bạn sẽ thấy mốc xanh mọc rải rác trong đĩa agar.</i>


<i>(4) Theo cách gọi của người địa phương nước lèo là nước dùng cho súp, bún hay phở..vv..</i>
<i>(5) Mã số phụ gia thực phầm qui định bởi liên minh châu Âu</i>


<i>Thái Phú Khánh Hịa (lược dịch từ Wiki)</i>


<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>ĐƯỜNG HỐ HỌC</b>



Aspartame là một chất làm ngọt nhân tạo. Mặc dù nó có cùng chỉ số calo với đường ăn thơng
thường nhưng nó ngọt hơn đường ăn khoảng 200 lần. Chất này được nhà Hóa Học James
Schlatter làm việc cho tập đồn G D Searle phát hiện rất tình cờ vào năm 1965 trong khi ông


đang thử nghiệm thuốc chống lở loét vết thương. Chất này
được cho phép sử dụng trong nước giải khát có gas vào năm
1983.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

cùng với James Turner (khách hàng đại diện) và những khảo sát của bộ phận kiểm nghiệm


của G D Searle. Người ta thấy rằng 2 thành phần chính của Aspartame là phenylalanin and
aspartic acid (Được biết đến với cái tên aspartate là một amino acid kích thích, nó là một
<i>trong 20 amino acid cấu tạo nên protein và là một carboxylic acid tương tự asparagine tìm </i>
<i>thấy trong protein của nhiều lồi thực vật nhưng khơng đóng vai trị chủ yếu trong động vật </i>
<i>và có thể hoạt động như là một tác nhân kích thích q trình truyền tín hiệu thần kinh trong </i>
<i>não, và là một sản phẩm của quá trình trao đổi chất trong chu trình urea, tham gia vào quá </i>
<i>trình tạo thành glucose) là hai chất đối quang, có nghĩa là chúng có hai đồng phân mà khơng</i>
phải là hai ảnh gương có thể chồng lên nhau. Điều này có nghĩa là phân tử aspartame có
hai tâm bất đối. Nếu các đồng phân không đối quang được sử dụng thì phân tử aspartame
sẽ có hình dạng khơng đúng để vị giác phát hiện được nó. Trong quá trình tổng hợp


aspartame, nguyên liệu là một hỗn hợp racemic (hàm lượng của 2 đồng phân đối quang
bằng nhau 50:50) của phenylalanin và aspartic acid. Chỉ có đồng phần đối quang L của
phenylalaninđược sử dụng, nó được chiết ra từ hỗn hợp racemic bằng phản ứng với acetic
anhydric và NaOH và sản phẩm của phản ứng này được xử lý với enzym porcine kidney
Acylase( là một loại enzym xúc tác rất mạnh, bền ở dạng khơ, trong dung dịch nó bền ở nhiệt
độ khoảng 70º C tại pH=7 còn nếu ở pH< 5 thì nó sẽ bị biến tính. Ezym này thể hiện tính
chuyên biệt quang học ở mức độ cao so với chất nền. Vì lý do này mà nó được dùng phổ
biến để tách hỗn hợp racemic của amino acid) và một quá trình chiết hữu cơ với sự có mặt
của ion H+<sub>, Đồng phân L được tìm thấy trong lớp aquơ và đồng phân D được giữ lại trong </sub>


lớp chất hữu cơ. Xử lý L-phenylalanin với metanol và HCl easter hóa nhóm –COOH, và
ester này sau đó sẽ phản ứng với acid aspartic và cho ra sản phẩn cuối. Điều quan trọng là
nhóm amin trên arpartic acid được bảo vệ bằng các nhóm carbobenzyloxy và nhóm acid gần
nhóm amin nhất cũng được khóa bằng các nhóm benzyl, nhằm ngăn L-phenylalanin phản
ứng với các nhóm này cho ra những sản phẩm khơng mong muốn. Nhóm acid u cầu để
phản ứng được hoạt hóa bằng thuốc thử Castro. Thuốc thử này sẽ được thay thế khi
L-phenylalani được thêm vào, nhưng các nhóm đã khóa sau đó phải được mở ra sau khi phản
ứng cần thiết đã kết thúc. Carbobenzyloxy được mở bằng phản ứng với Hydro và platin(IV)
oxit, metanol , cloroform, benzyl được mở bằng phản ứng với hydro/Pd/carbon cộng metanol


và cloroform và sau đó quá trình tổng hợp kết thúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

ngấm vào trong máu thì plasma của aspartate và glutamat tăng lên đáng kể. Cả aspartate và
glutamat đóng vai trị như bộ phận truyền neuron trong não, truyền thông tin từ neuron này
sang neuron khác. Khi có hơn một bộ phận truyền neuron hiệu, thì một neuron nào đó sẽ bị
diệt bằng việc tăng nồng độ Canxi trong tế bào. Các tế bào neuron bị tổn thương là do việc
dư lượng aspartate và glutamat là lý do mà chúng được xem như là độc tố gây kích thích các
tế bào chết trong neuron thần kinh, chúng kích thích tế bào neuron cho đến khi tế bào này
chết đi.


Phenylalanin cũng là một amino acid khác thường được tìm thấy trong não. Người ta
khuyến cáo rằng những người mà trật tự gen bị thay đổi thì phenylkeonuria( PKU(Một loại
bệnh mà trong đó các enzym trao đổi chất với amino acid phenylalanin khơng có mặt gây
nên sự dư thừa amoni acid dị thường nếu không được chữa trị sẽ gây biến chứng hệ thần
kinh trung ương)). Những người mắc chứng này thì trong cơ thể hàm lượng phenylalain
tương đối cao do đó sự trao đổi chất giữa enzym và phenylalanin là rất khó khăn trong q
trình thủy phân. Hàm lường phenylalanin cao rất có hại cho não thỉnh thoảng vẫn xảy ra
trường hợp tử vong.


Metanol rất độc nó thường được ruột non tiết ra khi nhóm metyl của aspartame tương tác
với enzym chymotrysin. Nó đã được chỉ ra rằng một số nước trái cây và thức uống có có
cồn có chứa một lượng nhỏ metanol. Điều quan trọng là metanol không bao giờ xuất hiện
mình nó. Trong các trường hợp có mặt của etanol, thường thì hàm lượng cao hơn nhiều do
dó etanol đã giảm tác hại của metanol vào cơ thể.


<b>Aspartame (đường hóa học) có liên đến việc tăng nguy cơ ung thư trên </b>
<b>chuột.</b>


<b>Nghiên cứu phủ nhận những phát hiện trước đây về an toàn của chất làm ngọt.</b>
Các nhà nghiên cứu của Italia đang tìm hiểu về độ an toàn của aspartame(Chất làm ngọt


nhân tạo), chất làm ngọt có ít calo được tìm thấy ở đường ăn, soda cho người ăn kiêng và
trong hàng nghàn thực phẩm khác. Chuột được cho ăn chất làm ngọt có thể dẫn đến bị ung
thư, theo báo cáo của các nhà nghiên cứu thì thậm chí liều lượng cho chuột thấp hơn mức
cho phép dùng cho người. Những nghiên cứu phủ nhận các báo các khác thì khuyến cáo
rằng aspartame là an toàn cho sử dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

thành các hợp chất mà các chất này hiếm thấy trong cơ thể và thực phẩm trước khi chúng
ngấm vào máu.


“Đây là nhưng thông tin rất thú vị” theo như James Popp, phó chủ tịch hội Khoa Học Chất
Độc đóng tại Reston bang Virginia, USA. “Cộng đồng khoa học sẽ phải xem xét và đặt câu
hỏi rằng cả hai trường phái nghiên cứu trên sẽ cho chúng ta biết được điều gì”


Cả hai cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc của Mỹ(FDA) và Quản Lý An Toàn Thực Phẩm
của châu Âu đã hứa hẹn là sẽ công bố về phát hiện của các nhóm nghiên cứu. Nhưng cả
hai cơ quan này đều không khuyến cáo về mức độ an toàn khi sử dụng aspartame .


<b>Chuột ăn kiêng</b>


Năm 1981 FDA đã chứng nhận aspartame sử dụng trong thực phẩm dựa trên nhiều nghiên
cứu mức độ an về toàn bệnh ung thư. Cơ Quan Quản Lý An toàn Thực Phẩm của Châu Âu
đã tái xác nhận về aspartame năm 2002 và đã không thay đổi những đánh giá trước đây.
Morando Soffritti và đồng nghiệp tại trung tâm nghiên cứu Ung thư Maltoni Bologna, Ý. Đã
quyết định kiểm tra lại aspartame. Họ cũng thử nghiệm nhiều chất phổ biến khác được cho là
vô hại, như Vitamin, Coca… Họ vừa mới công bố kết luận của họ về aspartame trong tạp chí
<i>Environmental Health Perspectives</i>1


.


Để đánh giá chất làm ngọt, những người nghiên cứu đã thử nghiệm lên 1800 con chuột ,


chúng khoảng 8 tuần tuổi. Và họ đã để chuột sống hết quãng đời của chúng trên khoảng 3
năm. Họ đã phát hiện rằng chuột sau khi chết trên các mơ của chúng có dấu hiệu ung thư.


Một vài loại ung thư đã có nguy cơ tăng trên chuột ở một liều lượng tương đối thấp. Ví dụ ở
liều lượng khoảng từ 20 đến 500 miligam trên một kg thể trọng, và khoảng 20% chuột cái
được cho ăn aspartame mắc bệnh ung thư máu và máu trắng ác tính, so với 9% số chuột
cái không cho ăn aspartame. Chuột đực đã được cho ăn nhiều hơn chuột cái để tăng nguy
cơ về bệnh ưng thư máu. Những con chuột được nhốt riêng và chuột có cho ăn aspartame
có tuổi thọ tương đương. Đối với người thì giới hạn an toàn hằng ngày là 40 miligam trên
một kilogam thể trọng, theo như khuyến cáo của WHO. Nếu một người uống 28 lon CoCa
(đồ uống kiêng) một ngày thì đã vượt q giới hạn trên.


<b>Khơng Q ngọt</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Mỹ. Nhìn chung chuột đã bị giết sau hai năm tuổi trong quá trình khảo sát.


Cả hai phương pháp đều có những điểm mạnh riêng, ơng nói. Để chuột sống lâu hơn sẽ cho
phép các nhà nghiên cứu có được thơng tin đầy đủ hơn về sự phát triển của tế bào ưng thư,
khi mà nguy cơ ưng thư sẽ tăng khi chuột già đi. Những những phân tích thống kê thì cịn
mơ hồ và khó có thể so sánh chuột đã được cho ăn kiêng ở những độ tuổi khác nhau. Mặc
dù nghiên cứu đã có những kết quả khả quan theo như lời của Bucher.


Những người nghiên cứu khác thì cho rằng việc gây ưng thư do aspartame là không rõ ràng.
Trong cơ thể aspartame phân hủy thành hai amoni acid mà chúng là thành phần của bình
thường của protein trong thực phẩm và metanol. Metanol mặc dù có thể có hại, nhưng khơng
được xem như một chất gây ung thư và có mặt trong nhiều sản phẩm bao gồm cả nước ép
hoa quả. Michele Medinsky, một chuyên gia chất độc ở Durham, North Carolina nói rằng một
vài nghiên cứu về chất gây ung thư trước đây được thực hiện bởi nhóm các nhà khoa học Ý
đã mâu thuẫn với những nhóm nghiên cứu khác.



Khoảng 8000 tấn aspartame trong khoảng 6000 sản phẩm được tiêu thụ hàng năm ở Mỹ.
<i>Thái Phú Khánh Hòa (Sưu tầm và dịch)</i>
<i> <b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>CHẤT TẨY SƠN LÀ GÌ?</b>



Dung mơi tẩy sơn cơ bản hay chất cạo sơn là những dung môi dùng để
cạo bỏ lớp sơn cũ. Chúng không phải là một hóa chất duy nhất mà là sự
trộn lẫn của nhiều chất khác nhau, mỗi


chất có một tác dụng riêng. Các thành phần hoạt hóa thường là một chất được gọi là metylen
clorua. Một số sản pẩm có chứa các thành phần hoạt hóa khác với metylen clorua, nhưng
chúng khơng hiệu quả lắm trong việc ăn mịn, làm giộp và gây tróc lớp sơn cũ.


Một số hóa chất khác trong chất tẩy sơn có tác dụng tăng nhanh quá trình làm bong, và làm
chậm q trình bay hơi của dung mơi, và đóng vai trị như một tác nhân làm giày dung mơi
(giữ cho dung môi bay hơi chậm hơn).


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

hơn, nhất là trên những vật hình trụ hay khi làm việc với bề mặt thẳng đứng.


Thật khó để nói rằng bất cứ một chất hay hỗn hợp các chất có khả năng bám dính cao dùng
để bóc lớp sơn cũ, nên phải được lựa chọn cẩn thận. Những dung mơi hịa tan cơ bản sẽ tẩy
nhanh hơn và khơng có tác dụng xấu lên bề mặt của gỗ, nhưng chúng có thể có hại đến sức
khỏe con người vì vậy nên đọc kỹ hướng dẩn sử dụng của nhà sản xuất trước khi dùng.
Về cơ bản thì có một số điểm lưu ý về an tồn khi sử dụng chất tẩy sơn nhưng không thể
thay thế được bản hướng dẫn của nhà sản xuất đối với từng sản phẩm, điều quan trọng là
bạn phải đọc lưu ý được in trên nhãn của mỗi sản phẩm.


<i> Thái Phú Khánh Hịa (sưu tầm và dịch)</i>



<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>THƠNG TIN VỀ ACID PICRIC</b>



Cứ vài tháng lại xuất hiện một bài báo địa phương về một đội gỡ bom dọn
dẹp axít picric được tìm thấy trong một phịng thí nghiệm. Một chất rất dễ
phát nổ, như vậy tại sao axít picric lại được xem là một chất nguy hiểm.
Hãy điểm qua một vài sự kiện của việc sử dụng axít này và hãy xem cần
làm những gì để tránh xảy ra những rủi ro đáng tiếc.


Picric axít (2,4,6 Trinitrophenol) thường được tìm thấy trong các bộ phận giám định pháp y
dùng để làm biến màu cây noel và cho việc phát hiện nước tiểu. Ngành mô học dùng dể biến
màu cơ ở những khớp nối, thể không bào, các phần gỗ (picro aniline xanh) và tác nhân làm
thuốc hãm màu. Nó đã được sử dụng làm được phẩm để trị bệnh sốt rét, giun móc, mụn
giộp, đậu mùa cũng như dùng làm thuốc kháng sinh. Và dung dịch 1% của axít picric dùng
để xử lý ngoại thương cho người bị bỏng.


Nhà Hóa Học người Anh Peter Woulfe tìm ra axít picric vào năm 1771. Axít Picric được đặt
tên từ tiếng Hy Lạp pikros, có nghĩa là ‘chát’ vì nó có vị chát. Axít này đã được dùng để
nhuộm vàng vải nhung và len. Picric axít được sản xuất đại trà trong chiến tranh Thế Giới
thứ I và được gọi là ‘chim hồng yến’ vì da của các cơng nhân đều bị nhuốm vàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

1888. Nó được dùng phổ biến để chế bom và lựu đạn trong chiến tranh Thế Giới I. Axít picric
khan nguy hiểm giống như thuốc nổ TNT, nó cần ngịi nổ để phát nổ. Tuy nhiên, là một axít
mạnh, nó phản ứng với các kim loại phổ biến (trừ nhôm) tạo thành muối dễ phát nổ nếu bị cọ
xát. Bom, mìn và lựu đạn đều được mạ một lớp thiếc hoặc để ngăn khơng cho axít piric phản
ứng với vỏ bọc kim loại.


Có rất nhiều sự cố xảy ra liên quan đến axít picric. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1917, một tàu
quân sự ở Nova Scotia chở 2300 tấn axít piric và 180 tấn TNT đã bốc cháy và phát nổ làm


1900 người chết ngay tại chỗ và 9000 người khác bị thương. Chỉ cần các kim loại va chạm
nhẹ với axít picric thì muối picrat sẽ thể hiện tính nguy hiểm của nó. Vào ngày 1 tháng 5 năm
1916 một xí nghiệp sản xuất quân dụng ở Pháp bốc cháy làm axít picric nóng chảy và lan ra
nền bê tông. Canxi picrat tạo thành và phát nổ làm chất 170 người.


Đã có vụ nổ nào trong phịng thí nghiệm hay chưa? Vẫn chưa có một tài liệu nào nói về tai
nạn do axít picric phát nổ trong phịng thí nghiệm. Bộ phận vận chuyển Hóa chất độc hại
cháy nổ phân loại axít piric chứa ít hơn 30% nước về khối lượng vào chất chảy nổ loại
1.1D và nếu lượng nước trên 10% về thể tích được xếp vào loại 4.1 chất rắn dễ cháy. Ở
trạng thái ướt thì khả năng phát nổ bị hạn chế rất nhiều.


Điều đáng quan tâm là khi gặp phải axít picric đã bị dehydrat hóa. Trường hợp nguy hiểm
nhất khi chai đựng nó quá cũ và có nắp đậy bằng kim loại lúc này nắp kim loại và các tinh thể
axít có thể phản ứng hình thành muối picrat và phát nổ, với những tình trạng này xẩy ra tốt
nhất là gọi các chuyên gia chất nổ đến. Các chuyên gia gỡ bom có kinh nghiệm sẽ dùng
robot gắp lọ đựng axít rồi thả vào nước để hydrat hóa axít hoặc đem cho nổ ở một nơi khác.
Nếu lọ đựng axít bằng nhựa và axít bên trong đã bị khơ, một vài tinh thể có thể được hình
thành trên miệng chai, ma sát khi mở nắp có thể làm cho chai axít nổ tung. Trường hợp này
nên mở chai đựng axít trong một xô nước, nghiêng chai để cho nước vào nắp và ren xoắn
để hịa tan các tinh thể bám dính lên đó. Thêm đá lạnh để làm chìm lọ chứa để nước ngấm
vào dễ hơn. Để yên bình chứa trong nước như vậy khoảng vài ngày cho đến khi nhìn thấy
nước ở bên trong chai, lúc này có thể mở nắp chai một cách an toàn và tái hydrat axít, nếu
như bạn cịn nghi ngờ thì nên gọi chun gia chất nổ.


Dẫu sao đề phịng vẫn tốt hơn, nếu bạn thật sự muốn dùng axít picric trong phịng thí nghiệm
bạn cần thực hiện một số điều sau đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

bạn dễ kiểm soát, kiểm tra mức độ hydrat hóa của axít 6 tháng một lần và thêm nước cất vào
nếu thấy cần thiết.



Không dùng muỗng sắt để lấy axít ra khỏi lọ.


Khi lấy hóa chất xong nên lau sạch miệng chai bằng khăn ướt, nhất là các ren xoắn trên cổ chai.
Thanh lý những chai axít picric cũ có nắp bằng kim loại.


Khơng nên cất giữ một lượng lớn axít picric trong phịng thí nghiệm.Thay hóa chất mới sau hai
năm sử dụng.


Làm việc với hóa chất này trong tủ hút, và nếu có thể nên mua dung dịch 1% đã pha sẵn để
dùng vào việc làm biến màu khi cần thiết.


Khi bạn muốn thanh lý axít picric ướt thì có rất nhiều phương pháp để thực hiện. Trước hết
bạn nên khử axít sang một dạng an tồn hơn dùng natri hydroxit và natri sulfit (Na2SO3 ). Khi


xử lý xong hóa chất vẫn cịn độc tính và thải theo qui trình xử lý chất thải độc hại. Khơng
được đổ xuống bồn rửa, nó có thể phản ứng với ống dẫn nước thải bằng kim loại và gây nổ.
Cuối cùng, axít picric là chất độc hại, nuốt phải 1-2 gam có thể gây ngộ độc. Bụi của axít gây
kích thích da và mắt. Tác dụng lên mắt làm mắt đổi màu vàng. Bị ngộ đôc axít picric có thể
gây nhức đầu, buồn nơn, tiêu chảy, chóng mặt vàng da nước tiểu màu đỏ. Những triệu
chứng như thế này không nên xử lý trong phịng thí nghiệm theo cách cổ điển, mà phải đưa
đến bệnh viện.


Thái Phú Khánh Hòa (sưu tầm và dịch)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>SƠ LƯỢC BỂ TUYỂN NỔI XỬ LÝ NƯỚC THẢI NHIỄM DẦU</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Nhà nước ta bắt đầu tiến hành xây dựng nhà máy chế biến dầu đầu tiên với công suất 6 triệu
tấn năm. Đồng thời hàng loạt các dự án về sử dụng và chế biến khí đồng hành, cũng như
chuẩn bị xây dựng nhà máy chế biến dầu thứ hai đang được phê duyệt. Như vậy ngành cơng


nghiệp chế biến dầu khí nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ mà cả nước ta đang
thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.Chắc chắn sự đóng góp của ngành dầu khí
trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa đất nước sẽ rất có ý nghĩa, góp phần xây dựng đất nước
để sau vài thập niên tới có thể sánh ngang các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.


Cùng với sự phát triển của ngành chế biến dầu, một trong những vấn đề được mọi người rất
quan tâm hiện nay, đó là tình trạng ơ nhiễm mơi trường của các chất thải có nhiễm dầu. Các
hiện tượng tràn dầu, rị rỉ khí dầu gây nên tình trạng ơ nhiễm nghiêm trọng cho môi trường,
như làm hủy hoại hệ sinh thái động thực vật, và gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
con người. Vì vậy vấn đề bảo vệ môi trường khỏi các chất ô nhiễm dầu đã trở thành một
trong những vấn đề được xã hội quan tâm.


Với mục tiêu góp phần bảo vệ mơi trường. Ngồi việc tránh các hiện tượng rị rỉ khí dầu ra
bên ngồi thì việc xử lý nước thải trong nhà máy lọc dầu được đặc biệt quan tâm chú ý, đầu
tư và phát triển. Phương pháp xử lý nước thải có nhiễm dầu dựa vào đặc tính khơng tan
trong nước và nhẹ hơn nước của dầu. Phương pháp đó chính là phương pháp tuyển nổi. Có
nhiều phương pháp tuyển nổi để xử lý nước thải: tuyển nổi với sự tách khơng khí từ dung
dịch; tuyển nổi với việc cho khơng khí qua vật liệu xốp ; tuyển nổi hóa học và tuyển nổi điện;
tuyển nổi với sự phân tách không khí bằng cơ khí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

Hình ảnh một bể tuyển nổi


Hiện nay phương pháp tuyển nổi được ứng dụng phổ biến trong công nghiệp là phương
pháp tuyển nổi bằng áp suất hay còn gọi là tuyển nổi với sự tách khơng khí từ dung dịch. Ưu
điểm của phương pháp là cho phép làm sạch nước với nồng độ tạp chất còn lại rất nhỏ, thiết
bị cấu tạo đơn giản, giá thành rẻ, dễ thực hiện thi công, lắp đặt sửa chữa.


Quá trình tuyển nổi bằng áp lực được tiến hành qua hai giai đoạn:
+ Bão hịa nước bằng khơng khí dưới áp suất cao



+ Tách khí hịa tan dưới áp suất khí quyển.


Ngọc Việt


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>CHẤT ĐỐT SINH HỌC TỪ THỰC VẬT</b>



Dầu mỏ, than đá, khí thiên nhiên… là những sản phẩm của q
trình biến đổi hóa học, sinh học, vật lý diễn ra cách đây hằng
trăm triệu năm từ nguyên liệu ban đầu là xenlulozo. Nguồn tài
nguyên thiên nhiên không thể tái tạo trên đang được con người
khai thác cho mọi hoạt


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

nay.


Bằng cách sử dụng thành phần cấu tạo chính của thực vật là xenlulozo (chiếm trên 90% khối
lượng khô trong tế bào), các nhà khoa học thuộc viện nghiên cứu nông nghiệp quốc gia
Pháp (INRA) dự định lấy thân và lá cây làm nguồn ngun liệu chính thay vì hạt và củ như
hiện nay, để sản xuất xăng và dầu diesel. Phương pháp này sẽ được ứng dụng vào nghành
công nghiệp chất đốt sinh học trong vài năm tới.


Trong các nghành sản xuất thì cơng nghiệp sản xuất chất đốt sinh học còn khá mới mẻ. Tuy
nhiên, tương lai của nó lại đang bị đe dọa. Vì để sản xuất ra nhiên liệu xanh, người ta phải
sử dụng một lượng lớn loài thực vật tương ứng. Chẳng hạn, với nước Pháp, một trung tâm
nông nghiệp của Châu Âu, để đạt được chỉ tiêu chất đốt sinh học chiếm 8% thị phần chất đốt
vào năm 2010 thì cần có 2 triệu ha cây làm nguyên liệu.


Song trên thực tế diện tích có thể trồng các loại cây này khơng ảnh hưởng tới sản xuất nơng
nghiệp chỉ có 1,5 triệu ha. Mặt khác, năng xuất hiện nay của các cây dùng làm nguyên liệu


sản xuất chất đốt còn khá thấp, như cây cải dầu chỉ đạt 1500 lít/ha, lúa mì là 2500 lít / ha…


Trong khi đó, phương pháp chiết xuất từ thân cây và lá cho phép đạt con số hơn 5000 lít/
ha ! tức là gấp đơi năng xuất của lồi cây cao nhất, do đó gảm áp lực về diện tíc đất trồng.
Một điểm đáng chú ý khác là không như lúa mì chỉ sản xuất ra cồn và etanol, chất đốt lấy ừ
thân cây sau khi chế biến có thể thích hợp với mọi động cơ.


Ngồi việc khai thác các nguồn nguyên liệu từ các loài cây trồng, các loại gỗ, rác thải thực
vật từ quá trình sản xuất nông nghiệp như rơm, trấu và ngũ cốc cũng sẽ là một nguồn
nguyên liệu dồi dào khác. Chính vì vậy, tất cả các lồi cây đều có thể là giếng dầu đảm bảo
an ninh năng lượng cho chúng ta trong tương lai.


Một vấn đề hết sức quan trọng khác là lựa chọn phương pháp để chế biến những nguyên
liệu này có hiệu quả. Hiện các nhà khoa học đang nghiên cứu hai phương pháp khác nhau
để chế biến chất đốt từ thân và lá cây: phương pháp hóa nhiệt và phương pháp hữu cơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

diesel..). Đó là sản xuất theo phương pháp hóa nhiệt.


Còn ở phương pháp thứ hai, cây sau khi được cắt và bó lại từng bó sẽ được hydro hóa bằng
một loại vi khuẩn nấm. Phân tử xenlulzo biến đổi thành các phân tử đường hữu cơ, sau đó
được lên men thành etanol.


Trong tình hình hiện nay, giá cả dầu mỏ thế giới luôn biến động bất thường cùng với tình
trạng ơ nhiễm mơi trường do khí thải của các phương tiện giao thông. Việt Nam một đất
nước nông nghiệp là chủ yếu, mỗi năm nước ta xuất khẩu hàng triệu tấn luơng thực, cùng
với việc loại bỏ hàng chục triệu tấn rác hữu cơ, rơm, trấu, mùn cưa… Việc triển khai dự án
vào thực tế rất được mong chờ. Cây xanh lúc đó sẽ trở thành nguồn vàng thực sự.


Vũ Công Phong biên soạn
<b>hoahocvietnam.com</b>



<b>DẦU MỎ VÀ XĂNG </b>



<b>NGUỒN NĂNG LƯỢNG CHÍNH CỦA CHÚNG TA</b>



Dầu và khí thiên nhiên đáp ứng hầu hết nhu cầu năng lượng
của Mỹ. Những nước công nghiệp khác cũng phụ thuộc


tương tự vào dầu mỏ như một nguồn năng lượng chủ yếu.
Những sản phẩm hàng năm từ khí thiên nhiên ở Mỹ xấp xỉ 500
triệu lít. Năm 1995, nguồn năng lượng của Mỹ có 24% từ khí
thiên nhiên, 38% từ dầu mỏ, 23% từ than đá, 8% từ năng
lượng hạt nhân và 4% từ thuỷ điện. Sản phẩm dầu mỏ trong nước hàng năm đạt mức cao
nhất vào năm 1971 với 4.2 tỉ thùng (barrel). Năm 1995, nó giảm xuống dưới 3 tỉ thùng và
phải nhập khẩu đến 2 tỉ thùng (1 thùng tương đương 42 gallon, khoảng 158 lít).


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

những nguồn năng lượng mới để đáp ứng nhu cầu khi mà trữ lượng dầu mỏ và khí thiên
nhiên đang cạn dần.


Nước Mỹ, với hơn 200 triệu phương tiện gắn máy, tiêu thụ năng lượng hằng năm nhiều nhất
trên tồn thế giới và 70% số đó được đáp ứng bằng xăng dầu.


Đặng Ngọc Huy


<b>hoahocvietnam.com </b>


<b>QUY TRÌNH “CHÁY BỐC HƠI” THÀNH HYDROGEN</b>



Quy trình “cháy bốc hơi” chuyển dầu đậu nành, glucose thành
Hydrogen. Bất kỳ ai đang hâm nóng dầu thực vật hay nước sirô đều


biết rằng cả dầu và đường đều không bay hơi – dầu ăn sẽ bốc khói và
chuyển sang màu nâu, đường chuyển sang màu đen, và cả hai đều để
lại một lớp carbon cáu bẩn trên các đồ dùng nấu nướng.


Hiện nay, một nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Minnesota đã phát minh
ra “quy trình phản ứng cháy bốc hơi” mà quy trình này là gia nhiệt cho
dầu ăn và nước đường với tốc độ nhanh hơn cách làm thông thường
trong nhà bếp gấp một triệu lần và tạo ra hydrogen cùng carbon monoxide, một hỗn hợp gọi
là khí tổng hợp (syngas), bởi vì khí này được dùng để sản xuất nhiều hóa chất và nhiên liệu,
bao gồm xăng dầu. Quy trình mới hoạt động nhanh hơn các kỹ thuật hiện đang sử dụng từ
10 đến 100 lần, mà không cần đến các nhiên liệu tự nhiên chun dùng và trong lị đốt thì
nhỏ hơn các thiết bị hiện đang dùng ít nhất 10 lần. Cơng việc này có thể nâng cao hiệu suất
sản xuất nhiên liệu từ những nguồn năng lượng mới rất có ý nghĩa. Quy trình này sẽ được
xuất bản vào ngày 3 tháng 11 trong tạp chí Khoa học.




</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

bị, phân chuồng, thân cây ngơ hay cây thân gỗ”.


Một loại nhiên liệu đầy hứa hẹn là dầu diesel sinh học có thể sản xuất từ dầu đậu nành. Hiện
nay, quy trình chủ yếu chuyển dầu ăn thành dầu diesel sinh học đòi hỏi cần có methanol,
nhiên liệu tự nhiên. Quy trình mới này lại bỏ qua giai đoạn tạo thành dầu diesel sinh học mà
chuyển dầu ăn trực tiếp thành hydrogen và khí CO bằng cách gia nhiệt đun dầu ăn lên nhiệt
độ khoảng 10000<sub>C. Khoảng 70% hydrogen trong dầu ăn sẽ chuyển thành khí hydrogen. </sub>


Tương tự, dùng dung dịch glucose gần bão hòa và gia nhiệt nhanh để tạo thành khí tổng hợp
thay vì chỉ thu được các sản phẩm thông thường là: carbon và nước.





Khi chuyển các loại thực vật thành nhiên liệu có thể dùng được thì khó khăn ở chỗ phải bẻ
gãy mạch liên kết hóa học trong cellulose – chất liệu khiến màng tế bào thực vật cứng cáp
hơn – để thu được đường đơn và đường này lại có thể đem lên men thu ethanol hoặc
chuyển thành nhiên liệu khác. Điều này đòi hỏi phải sử dụng enzyme để cắt mạch liên kết
của cellulose và tốn nhiều thời gian. Nhưng sự gia nhiệt cao của quy trình mới này sẽ cắt các
mạch liên kết đó dễ dàng, có nghĩa là có thể sử dụng cellulose và các loại thực vật như các
nguồn nguyên liệu sản xuất.




Schmidt và các đồng sự ở trường Đại Học – gồm các sinh viên mới tốt nghiệp Đại Học như
James Salge, Brady Dreyer và Paul Dauenhauer – đã sản xuất được một pound khí tổng
hợp trong một ngày dùng lị đốt loại nhỏ. Quy trình mới hoạt động như sau: Phun dầu ăn và
nước đường thành các giọt đều đặn bằng một vòi phun nhiên liệu tự động thông qua đường
ống trên một cái đĩa gốm làm vật liệu xúc tác – các nguyên tố rhodium và cerium - sẽ cắt
mạch phân tử nguyên liệu theo hướng sản xuất khí tổng hợp chứ khơng theo hướng sản
xuất carbon và nước “nhớp nháp cáu bẩn”. Do đĩa gốm xúc tác rỗ xốp, nên khí tổng hợp có
thể đi xun qua và chảy xi theo đường ống thu gom sản phẩm. Không cần dùng nhiệt ở
bên ngồi, vì các phản ứng hóa học tạo khí tổng hợp thốt nhiều nhiệt đủ để bẻ gãy mạch
liên kết phân tử dầu ăn hoặc đường. Schmidt nói: “Bí quyết ở chỗ q trình cháy bốc hơi cực
nhanh. Q trình xảy ra là do chúng tơi làm bay hơi nhiên liệu và hịa trộn khí nhiên liệu với
khí oxy trước khi khí nhiên liệu tiếp xúc với xúc tác và do đó khí nhiên liệu khơng cháy thành
than. Quy trình này có tiềm năng nhanh gấp 100 lần hơn những quy trình sản xuất khí tổng
hợp và hydrogen hiện nay”.




</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>




Cuộc nghiên cứu này được sự hỗ trợ bởi Bộ Năng Lượng và Đại Học Minnesota tiên phong
trong lĩnh vực đổi mới năng lượng và môi trường.


Quỳnh Thi


(Theo University of Minnesota)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>PHƯƠNG PHÁP MỚI LÀM SẠCH DẦU LOANG</b>


Các nhà khoa học ở California đã thông báo một cải tiến quan trọng trong
kĩ thuật làm sạch dầu loang ở biển, hồ và những khu vực lưu thông
đường thủy. Victoria Broje và Arturo A.Keller đã mô tả cấu trúc xây dựng
và các cuộc thử nghiệm ứng dụng phiên bản máy lọc váng dầu cải tiến,
đây là thiết bị chủ yếu thu hồi lượng dầu loang trên biển.


Máy lọc dầu loang thông thường hầu như không thay đổi nhiều trong các thập niên vừa qua,
thiết bị bao gồm một cái trống như trục hơi nước và quay tròn thu nhận lớp màng mỏng của
dầu từ trên bề mặt trống. Sau đó, dầu được gạt ra khỏi mặt trống và chứa trong một bình
chứa riêng biệt. Broje và Keller lưu ý rằng thiết bị làm sạch dầu loang truyền thống thì khơng
hiệu quả, làm việc kém với lớp dầu mỏng là dầu thô loại nhẹ và dầu diesel, có thể tốn kém
chi phí nhiều để làm sạch một số lượng dầu loang lớn.


Thiết bị tách váng dầu kiểu mới với các rãnh trên bề mặt sẽ được miêu tả trong một bài báo
sắp phát hành vào ngày 15 tháng 12 trên tờ nhật báo ACS về Khoa học Kĩ thuật Môi trường
phát hành định kỳ giữa tháng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

thấy hiệu suất của thiết bị lọc váng dầu kiểu mới sẽ tăng gấp 3 lần so với các thiết bị cổ điển
thông thường.



Phương Nhung (tổng hợp và lược dịch)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>NHƯỢC ĐIỂM CỦA VIRUS CÚM</b>



Nhược điểm của virus cúm là phân tử protein ở tận cùng chuỗi ADN của nó. Một nghiên cứu
nổi bật từ ĐH Rice và ĐH Texas ở Austin đã khám phá ra mục đích mới đầy tiềm năng mà
thuốc kích thích thần kinh có thể tấn công vào những triệu chứng của bệnh cúm, bao gồm cả


những nguyên nhân của bệnh cúm gia cầm cũng
như những ngun nhân bình thường có thể gây
bệnh cho hàng triệu người trong mùa cảm cúm.
Những cuộc nghiên cứu, những tài liệu được xuất
bản trực tuyến bởi Nature, cung cấp những dấu hiệu
thuyết phục về khả năng ứng dụng trong y dược của
chất tiềm ẩn trong một loại protein cúm được gọi là
nucleoprotein, hay NP. NP có vai trị quan trọng điều khiển bộ trạng thái của những triệu
chứng của bệnh cúm loại A, bao gồm cúm Hong Kong, cúm Tây Ban Nha, cúm gia cầm. Mục
tiêu là đoạn NP dài, linh động nằm ở cuối chuỗi. Những nhà hóa sinh ở Rice và UT đã tìm ra
rằng sự thay đổi nhỏ ở đoạn cuối của chuỗi đã ngăn cản NP thực hiện một trong những vai
trị của nó – liên kết những cấu trúc chính mà virus dùng để truyền tải những bản sao của nó.
Phó giáo sư hóa sinh và sinh học tế bào, nhà nghiên cứu hàng đầu Jane Tao đã nói “Nó là
một liên kết nhỏ ở đầu móc cuối của phân tử protein và là yếu tố được trông đợi của một loại
thuốc chống virus mới”


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

tập trung vào đoạn cuối này có tiềm năng lớn chống lại hiệu quả những triệu chứng phức
tạp, bao gồm cả triệu chứng của H5N1. Những loại thuốc chống virus mới là hết sức cần
thiết trong giai đoạn hiện nay khi mà những biến thể của dòng virus H5N1 đã kháng lại loại
thuốc trị cúm Tamiflu”. Những nghiên cứu của giáo sư Tao là nền tảng cho những cuộc thí
nghiệm nghiêm ngặt hơn sau đó nhằm khám phá ra cấu trúc nguyên tử của NP. Cấu trúc của


protein đã được phân tích bằng tia X dưới góc độ tinh thể học, phương pháp đó cho phép
các nhà khoa học phân tích sự sắp xếp của cấu trúc bậc 3 của nguyên tử trong một tinh thể
căn cứ vào lúc sự nhiễu xạ của tia X đi xuyên qua nó.


Giáo sư Tao đã cho biết việc này là một nhiệm vụ khó khăn để tinh thể NP protein phát triển.
Phương pháp này bao gồm việc đình chỉ sự bốc hơi chất lỏng của dung dịch protein đậm đặc
trên mặt bên dưới của tấm kính được bịt kín trong bình kín. Khi chất lỏng trong những giọt
nhỏ bay hơi, phân tử protein trở nên quá bão hòa, và trong vài trường hợp chúng tạo thành
những tinh thể nhỏ với kích thước hàng trăm miron. Giáo sư Tao ước lượng rằng, nhà
nghiên cứu sau tiến sĩ Qiaozhen Ye, người đồng sự, đã chuẩn bị 1000 bình kín với nhiều giọt
nhỏ cho mỗi bình, để thu được khoảng 100 những tinh thể cần cho các cuộc thí nghiệm.


NP là một trong duy nhất 11 protein được mã hóa bởi bộ gen của bệnh cúm loại A. Một trong
những chức năng chính là chức năng cấu trúc. Một tế bào vật chủ bị tấn cơng bởi một virus,
và chuyển hóa chúng trong một nhà máy tái tạo virus, những NP tập hợp lại với nhau thành
những vòng nhỏ như là những khối cấu trúc. Nhiều vòng NP tụm lại ở một đỉnh thành chuỗi
xoắn ốc dài theo phương thẳng đứng. Cấu trúc RNA của virus xoắn xung quanh trục và gây
nhiễm độc tế bào. “NP có 500 amino acid và phần tận cùng của nó chứa 30 acid amin”, giáo
sư Tao nói. “Chúng tơi đã tìm ra rằng sự đột biến duy nhất trên phần còn lại của 30 acid amin
cũng đủ để ngăn cản những NP tập hợp lại với nhau thành kết cấu dạng cột, và khơng có
những cấu trúc đó virus khơng thể sao mã và tấn công những tế bào khác”.


Giáo sư Tao cho biết cơng trình nghiên cứu đã cung cấp tồn bộ những chứng cứ về vai trị
của NP như là dấu hiệu nhận biết tế bào nhằm bắt đầu thực hiện sự sao chép bộ gen của
virus, và nhóm nghiên cứu của giáo sư Tao vẫn tiếp tục công việc này với cộng sự Robert
Krug ở ĐH Texas, Austin để khảo sát chức năng điều tiết của protein.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

Nguyễn Huỳnh Minh Tiến
(Theo Rice University)
<b>hoahocvietnam.com</b>



<b>NƯỚC SIÊU OXY HÓA DIỆT KHUẨN</b>


Các nhà khoa học Mỹ thuộc công ty Oculus (tại California)
vừa tạo ra một dung dịch siêu kháng khuẩn có thể làm mau
lành các vết thương.


Dung dịch này có khả năng giết vius, vi khuẩn và nấm không
hề thua kém các loại thuốc khử trùng khác, kể cả có thể diệt
khuẩn cầu vàng (MRSA hay EDRM), một loại vi khuẩn có sức đề kháng cao với nhiều loại
thuốc khử trùng. Theo Andrés Gutiérrez, giám đốc y khoa của Oculus, dung dịch mới cịn có
ưu điểm là khơng gây hại đến các mô tế bào lành xung quanh vết thương, thêm vào đó cịn
làm cho các mạch máu lưu thơng đẩy nhanh q trình làm lành vết thương.


Nước siêu oxy hóa diệt khuẩn có thành phần chủ đạo là
Microcyn, các ion oxy-chlorine, các phần tử tích điện có


khả năng phá vỡ vách tế bào các vi khuẩn tự do và không gây
ảnh hưởng đến tế bào con người. Để tạo ra sản phẩm này,
người ta cho nước qua một màng thấm muối natri clorua
(NaCl), sau đó đưa hỗn hợp qua một dịng điện phân cao để thu các ion oxy-chlorine. Dung
dịch được tạo ra có độ pH trung tính và khơng gây hại đến các mô tế bào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

dung dịch nước siêu oxy hóa, vết thương ở những bệnh nhân này có thể lành trong khoảng
40 ngày thay vì 55 ngày với phương pháp điều trị hiện tại.


Uyenchitn (Theo BBC)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>KỸ THUẬT “SIÊU ENZYME”</b>




Kỹ thuật “Siêu enzyme” – một vũ khí mới đầy tiềm năng chống lại bệnh
tim. Theo một bản tường trình mới về khoa học, nhiều nỗ lực tìm hiểu mối
quan hệ giữa cyclooxygenase-2 (COX-2), thuốc kháng viêm khớp và
bệnh tim đã đạt được một lợi ích bất ngờ trong việc dẫn đầu sự phát triển
của một loại protein kỹ thuật tiềm năng lớn như là một phương pháp điều
trị mới đối với bệnh tim.


Trong bài báo phát hành ngày 28 tháng 11 của tờ tạp chí Sinh học hàng
tuần ACS, Ke-He Ruan và các đồng sự thuộc Đại Học Texas đã chỉ ra rằng thuốc COX-2
cũng giống như thuốc cấm lưu hành Vioxx đều có biểu hiện kháng viêm có lợi cho bệnh viêm
khớp.


Tuy nhiên, nhiều cuộc nghiên cứu hiện nay cho thấy các loại thuốc này cũng có thể gia tăng
nguy cơ bệnh tim mạch và đột quỵ bằng cách khiến cơ thể giảm sản xuất prostacyclin (chất
bảo vệ mạch máu khiến mạch máu giãn nở ngăn ngừa nghẽn mạch) và gia tăng sản xuất
thromboxane (là chất làm co mạch khiến mạch máu dễ bị nghẽn).


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

bằng cách điều khiển gene COX trong tế bào.
Quỳnh Thi


(Theo American Chemical Society)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>TẾ BÀO SỐNG ĐỘNG VẬT VÀ CÁCH THỨC TẠO PROTEIN</b>


Các nhà khoa học thuộc Trung Tâm Y Dược ở Đại Học Duke đã cho
thấy làm thế nào trong một cơ thể động vật cịn sống thì các tế bào
sử dụng quá trình sinh học tới hạn để tách rời và lắp ghép gene
nhằm tạo ra nhiều loại protein đặc biệt.



Những nhà khoa học này nói rằng các khám phá trên đã được tiến hành thí nghiệm với
chuột, giúp giải thích điều kỳ diệu then chốt ở sinh học con người là: làm thế nào mà những
gene tương tự như nhau ở mỗi tế bào trong cùng một cơ thể lại có thể sản xuất nhiều protein
khác nhau trong mô và các cơ quan khác. Các loại protein khác nhau đó lần lượt quy định
chức năng cho mỗi mô hay cơ quan.


Các nhà khoa học nói khám phá này đồng thời cũng giúp hiểu rõ hơn về nhiều căn bệnh
hiểm nghèo, bao gồm bệnh ung thư, chính là một q trình tiến triển của gene – gọi là quá
trình lắp ghép có lựa chọn – nếu q trình này sai lệch sẽ sinh ra nhiều protein khiếm khuyết.
Các nhà khoa học đã công bố khám phá này vào ngày 1 tháng 12 năm 2006 trên tờ tạp chí
RNA. Cuộc nghiên cứu được tài trợ bởi Viện Y Tế Quốc Gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

cung cấp toàn cảnh về hoạt động của gene và protein sâu sắc hơn thí nghiệm chỉ sử dụng tế
bào nuôi cấy để nghiên cứu”.


Cách nay 20 năm, nhiều nhà khoa học vẫn tin tưởng rằng một loại gene chỉ có thể tạo ra một
loại protein nhất định. Với khám phá về q trình lắp ghép có lựa chọn này thì rõ ràng là một
loại gene có khả năng sản xuất ra nhiều loại protein khác nhau.


Trong quá trình lựa chọn và lắp ghép, một “cái kéo” nhỏ trong đoạn gene có nhiệm vụ tách
rời RNA thành nhiều đoạn nhỏ gọi là “chuỗi polynucleotide mã hóa protein”, sau đó “cái kéo”
này lại nối ghép các đoạn nhỏ đó theo một trật tự khác nhau và hình thành nên một phân tử
RNA mới. Trong q trình trên, nhiều “chuỗi polynucleotide mã hóa protein” được duy trì như
cũ nhưng cũng có những chuỗi khác bị loại ra ngồi. Các “chuỗi polynucleotide mã hóa
protein” được giữ lại trong đoạn RNA mới thì quyết định loại protein nào mà đoạn RNA này
sẽ sản xuất trong tế bào. Trong hầu hết các tế bào, “cái kéo” tách rời gene chính là những
protein được gọi là protein ẩn làm nhiệm vụ lắp ghép và chuỗi nucleotide hoạt hóa tăng
cường lắp ghép.


Trong một cuộc nghiên cứu gần đây, nhóm của Garcia-Blanco đã tìm kiếm nhận dạng protein


ẩn nào tách rời đoạn RNA quan trọng trong một đoạn gene và được gọi là chất nhận phát
triển sợi mô liên kết (FGFR 2). Đoạn gene này có vai trị quan trọng trong việc phát triển ở
chuột và ở người bình thường, và trật tự mà trong đó RNA của đoạn gene trên được lắp
ghép có thể làm thay đổi sự phát triển ở động vật.


Các nhà khoa học đã tạo ra những đoạn gene có khả năng phát sáng như là một hệ thống
điển hình cho cuộc nghiên cứu. Trên đoạn gene phát sáng FGFR2 đó là thẻ huỳnh quang
màu xanh lá có nhiệm vụ phát sáng khi một loại protein ẩn, cịn gọi là chuỗi polynucleotide
khơng mã hóa protein ẩn, đang phân tách một chuỗi polynucleotide mã hóa protein gọi là
chuỗi IIIb. Theo phương pháp này, các nhà khoa học có thể theo dõi xem chuỗi


polynucleotide khơng mã hóa protein ẩn có đang tách chuỗi IIIb hay khơng – và nếu như vậy,
thì xảy ra ở mơ hoặc ở cơ quan bộ phận nào – hay loại protein ẩn và protein trợ giúp nào đã
tham gia vào quá trình phân tách này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

giúp cho các nhà khoa học hiểu rằng bằng cách nào các chuỗi polynucleotide mã hóa protein
xấu xuất hiện hoặc bị đào thải đối với nhiều quá trình gây nên dị tật”. Ví dụ, hoạt động của
một tế bào kể cả chuỗi polynucleotide IIIb là tới hạn vì sự hiện diện hay vắng mặt của chuỗi
này quyết định sản xuất ra loại biến thể nào của protein FGFR2. Theo các nhà khoa học thì
những biến đổi nhỏ như thế trong protein có thể làm thay đổi hoạt động của tế bào, ví như
thay đổi thành phần trong một cơng thức nấu ăn ngon có thể làm biến đổi hương vị thực
phẩm.


Garcia-Blanco nói: ”Cơng tác quan sát các hoạt động lựa chọn lắp ghép là phù hợp nhất ở tế
bào động vật, bởi vì các tế bào phản ứng trong mơi trường tự nhiên thì khác so với trong mơi
trường nhân tạo, ví dụ như mơi trường ni cấy tế bào trong phịng thí nghiệm chẳng hạn”.
Sự phức tạp của việc lắp ghép có lựa chọn này đòi hỏi phải quan sát được hoạt động lựa
chọn lắp ghép đó vào thời điểm đang xảy ra, bởi vì lấy tế bào ra khỏi mơi trường thì chỉ thấy
được tình trạng hiện thời mà khơng thể biết được tế bào đã đến vị trí lắp ghép thích hợp như
thế nào”. Ví dụ, q trình lắp ghép có thể thay đổi thậm chí mỗi ngày khi động vật phát triển,


việc thêm vào các tế bào trích ly và quan sát trong mơi trường ni cấy phịng thí nghiệm
khơng thể thấy hết các biến đổi tạm thời này. Hơn nữa, các loại tế bào não khác nhau hay ở
các cơ quan bộ phận khác có thể có các quyết định lựa chọn lắp ghép khác nhau. Ví dụ, các
tế bào neuron gần tế bào liên kết thần kinh hỗ trợ trong não, ấy thế mà các tế bào này lại có
loại protein khác nhau với số lượng khác nhau, và thăm dị sự khác nhau ở các tế bào ni
cấy trong phịng thí nghiệm có thể thấy mức độ khác nhau rõ rệt. “Đây là một công cụ hữu
hiệu để ứng dụng vào gene của chuột nhằm nghiên cứu thời điểm và nơi chốn mà trong cơ
thể động vật, các hoạt động quyết định lắp ghép có lựa chọn xảy ra và thậm chí để nghiên
cứu những nhân tố nào tới hạn trong các hoạt động lắp ghép đó”.


Ơng nói thêm: ”Đưa tầm quan trọng của q trình lắp ghép có lựa chọn vào lĩnh vực sức
khỏe và bệnh tật, thì việc hoạch định cho ngành giải phẫu học đối với vấn đề hoạt động lắp
ghép có lựa chọn trên có thể cho chúng ta hiểu biết sâu sắc đáng kể trong các bệnh tật ở
con người liên quan đến những nguyên tắc lắp ghép sai lệch”.


Quỳnh Thi (theo Duke University Medical Center)


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67></div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<b>Giảm tác dụng phụ của phương pháp hóa trị</b>



Các nhà khoa học ở Trung tâm Tế bào và Phân tử (ICMIC) thuộc trường
Đại Học Johns Hopkins đang báo cáo một phương cách để cải tiến việc
chữa bệnh ung thư bằng hóa trị - một trong những chiến lược triển vọng
nhất nhằm giảm các tác dụng phụ của thuốc điều trị ung thư.


Đây là phương pháp hóa trị bao gồm 2 giai đoạn là cho bệnh nhân dùng thuốc chữa bệnh
ung thư loại mới và một loại enzyme để hoạt hóa thuốc này. Trước tiên bệnh nhân được tiêm
một lượng enzyme, enzyme này dần dần biến mất ở tế bào khỏe mạnh nhưng lại tích lũy và
hiện diện nhiều ở tế bào ung thư. Sau đó bệnh nhân được tiêm thêm thuốc điều trị ung thư
loại mới, thuốc này sẽ chuyển sang dạng hoạt hóa và tiêu hủy các tế bào ung thư chỉ khi gặp
enzyme trong khối u ung thư đó. Zaver M. Bhujwalla cùng tác giả dẫn đầu là Cong Li và các


cộng sự giải thích trong một bài báo số ra ngày 29 tháng 11 của Tạp chí Hóa học Mỹ phát
hành hàng tuần như sau:”Lựa chọn thời điểm tiêm thuốc thích hợp sẽ giúp thành công mỹ
mãn cho 2 giai đoạn chữa bệnh ung thư bằng phương pháp hóa trị”. Nếu tiêm thuốc loại mới
này trước khi enzyme biến mất hoàn toàn khỏi các tế bào khỏe mạnh, thì thuốc sẽ tiêu diệt
ln các tế bào khoẻ mạnh và do đó gây ra phản ứng phụ cho cơ thể.


Bài báo mô tả cách tổng hợp và cách kiểm nghiệm ban đầu ở quy mơ phịng thí nghiệm của
enzyme hoạt hóa thuốc tiêm vào cơ thể ở thời điểm thích hợp. Enzyme này sẽ hoạt hóa
thuốc chữa ung thư thơng thường là 5-fluorouracil. Theo các nhà nghiên cứu có thể quan sát
enzyme đang tiêu hủy dần ở các tế bào khỏe mạnh bằng phương pháp cộng hưởng từ (MRI)
hoặc bằng phương pháp quang học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<b>Quan sát thuốc liên kết với tế bào như thế nào </b>



Các nhà khoa học khám phá ra cách để quan sát thuốc liên kết với
tế bào như thế nào. Bằng một phương pháp mới thông qua việc sản
xuất những phân tử platinum rỗng có cấu


trúc nhỏ nano, các nhà nghiên cứu John Shelnutt và Yujiang Song
thuộc Phịng Thí Nghiệm Quốc Gia Sandia đã khám phá ra cách tốt
hơn để thấy được vị trí nơi tế bào có liên kết với thuốc.


Cuộc nghiên cứu này sẽ xuất hiện trong một bài báo sắp phát hành của Tạp chí hóa học Đức
- Angewandte Chemie Int. Ed. Trước khi xuất bản, cuộc nghiên cứu này đã trở thành đề tài
nóng bỏng trên website của tạp chí. Phịng Thí Nghiệm Quốc Gia Sandia là Phịng Thí
Nghiệm Quản lý An tồn Hạt nhân Quốc gia.


Trong bài báo này, Shelnutt và Song mô tả cách thức mới sử dụng các hạt liposome làm nền
để sản xuất những hạt hình cầu platinum rỗng, xốp với kích thước nhỏ nano. (Liposome là
các túi chứa chất lỏng, kích thước cực nhỏ, trong cơ thể có nhiệm vụ dẫn truyền vaccine,


enzyme, thuốc).


Trước đây, nhóm của Shelnutt đã làm được các tấm platinum kích thước nano liên tục trên
liposome, tạo thành platinum cấu trúc bọt kích thước nhỏ nano. Phương pháp này khơng
kiểm sốt được hình dạng và kích cỡ tạo thành.


Phương pháp mới nêu ra trong bài báo là một kỹ thuật tạo ra các mạng lưới platinum xốp,
kích thước nhỏ nano, đường kính trên 200nm, khác với phương pháp trên. Thay vì sử dụng
những tấm platinum lớn như trên, thì sẽ bao gồm các platinum cấu trúc nhánh nhỏ, bằng
phẳng – gọi là nhánh hình cây – hịa nhập với nhau tạo thành một mạng lưới hay một lồng
lưới theo hình dạng khối cầu của hạt liposome.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Shelnutt nói:” Điều quan trọng là phải đảm bảo số phân tử hoạt hóa quang học, do đó sẽ
đảm bảo được số lượng khối platinum hình thành thật nhiều bên trong lớp kép liposome.
Như vậy, platinum nhánh hình cây tạo thành sao cho đủ độ bền khít để tạo nên hình dạng
theo hạt cầu liposome”. Khi các hạt liposome bị vỡ, thì các hạt hình cầu platinum vẫn như cũ
khơng thay đổi.


Có thể kiểm sốt bề dày của vỏ platinum xung quanh hạt hình cầu liposome bằng cách gia
tăng hay giảm lượng platinum trong dung dịch muối.


Shelnutt nhận thấy có nhiều ứng dụng quan trọng đối với quá trình này, bao gồm cấu trúc
sinh học “thẻ nano” ví dụ như các phân tử thuốc.


Shelnutt nói rằng:” Sẽ phải ghi trên nhãn dược phẩm là liên quan với một phân tử porphyrin,
dùng ánh sáng để phát triển hạt phân tử kích thước nano sau khi đã cho thuốc liên kết với tế
bào. Bằng kính hiển vi điện tử, ta có thể quan sát thấy các hạt kích thước nhỏ nano, khám
phá khu vực các phân tử trên tế bào liên kết với thuốc. Kỹ thuật thẻ nano cũng có thể ứng
dụng trong các lĩnh vực không thuộc sinh học như tìm lỗi trên bề mặt bán dẫn”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

<b>Chất thải con người: loại phân bón rẻ và an toàn </b>



Các nhà nghiên cứu ở Phần Lan vừa đưa ra bản báo cáo
về việc sử dụng thành công một loại phân bón cho các
nơng trại, có giá thành rẻ, phong phú và... khơng thể nghi
ngờ hơn, đó là chất thải của con người.


Báo cáo của họ dựa trên việc sử dụng phân bón cho các
cánh đồng trồng bắp cải, và được ghi nhận trên tập san
Nơng nghiệp và hóa học thực phẩm của Hội hóa học Mỹ
(ACS) ngày 31/10.


Chất thải từ người khỏe thì hầu như là vơ trùng, khơng có vi khuẩn và virut. Vốn giàu
nitơ và các chất dinh dưỡng khác, nó được sử dụng như phân bón từ thời xa xưa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Bắp cải sử dụng chất thải của con người làm phân bón
(Courtesy of Helvi Heinonen-Tanski, University of Kuopio, Finland)


Bản phân tích cho thấy sự tăng trưởng và sinh khối cao hơn một chút khi sử dụng phân
bón từ chất thải con người so với sử dụng phân bón cơng nghiệp thơng thường.


"Khơng có một sự khác biệt nào về giá trị dinh dưỡng của bắp cải. Kết quả của chúng
tôi cho thấy rằng chất thải của con người có thể được sử dụng như một loại phân bón
cho bắp cải và khơng có bất kì một sự nguy hại nào về mặt vệ sinh cũng như để lại mùi
vị cho sản phẩm."- kết luận của bản báo cáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Hai hợp chất mới đã được tìm thấy trong mẫu nhuộm nguyên thủy của
William Perkin cách đây hơn 150 năm. Mauveine có màu tím hoa cà là
phân tử chất nhuộm tổng hợp đầu tiên đánh dấu sự mở đầu của ngành
cơng nghiệp hóa hữu cơ. Một nhóm các nhà nghiên cứu, dẫn đầu bởi


João Seixas de Melo thuộc đại học Coimbra và Maria Jỗo Melo thuộc đại học Líbon,
Bồ Đào Nha, vừa khám phá ra hai hợp chất mới trong q trình phân tích một mẫu
thuốc nhuộm cổ từ bảo tàng khoa học Luân Đôn.


Thuốc nhuộm Mauveine đã được biết
đến có chứa mauveine A (với 2 nhóm
chức methyl) và mauveine B (với 3
nhóm chức methyl). Những thành
phần được phát hiện bởi Seixas de
Melo và các cộng sự là mauveine B2, một cấu trúc đồng phân của mauveine, và một
các trúc với 4 nhóm methyl gọi là mauveine C.


Tony Travis, một chuyên gia về lịch sử hóa học và cơng nghệ thuộc đại học Hebrew,
Israel, rất hoan nghênh phát hiện mới này. Ông phát biểu "Perkin đã từng nghĩ rằng
thuốc nhuộm mauveine bao gồm nhiều thành phần. Khám phá mới cho thấy mặc dù
Perkin không thể tổng hợp ra những cấu trúc mới này nhưng ông đã đúng". Sử dụng
cùng những thành phần và công đoạn của Perkin, nhóm của Seixas de Melo đã tạo ra
mẫu mauveine và so sánh cấu tạo của nó với mẫu nhuộm cũ. Những phân tử khác
nhau được tách bằng dung dịch hiển thị màu sắc. Những sắc phổ thu được cho thấy sự
hiện diện của mauveine B2 và mauveine C trong cả 2 mẫu thử.


Seixas de Melo tin rằng cho đến ngày hôm nay các thành phần mauveine mới được
khám phá là nhờ sự tiến bộ trong kỹ thuật sắc ký. "Perkin hẳn rất hài lịng. Ơng đã trải
qua khoảng thời gian rất dài để cố gắng phân tích các thành phần trong chất nhuộm
mauveine và bởi vì ơng tin rằng những dẫn xuất mới sẽ được tìm ra ", Travis phát biểu.
"Những cấu trúc mới có giá trị này giải thích vì sao Perkin đã thất bại khi tạo ra một dãy
các dẫn xuất như trong trường hợp aniline đỏ". Seixas de Melo hy vọng có thể mở rộng
nghiên cứu cho các mẫu thuốc nhuộm xưa bao gồm thuốc nhuộm màu chàm và


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

uyenchitn



(Theo Chemical Science)
<b>hoahocvietnam.com </b>


<b>MÀNG BAO GÓI THỰC PHẨM THƠNG MINH</b>



Thức ăn trong tương lai sẽ có thể được bao gói bởi một
loại nhựa thơng minh nhận biết sự ô nhiễm thực phẩm và
sau sau khi sử dụng thì bị phân hủy sinh học. Lớp màng
polymer này được phát triển bởi các nhà khoa học Ý và
có thể kéo căng cũng như chịu được sự gia tăng nhiệt độ.
Andrea Pucci ở Đại Học Pissa, người chỉ đạo cuộc


nghiên cứu cho rằng lớp màng thì bền ở mơi trường khơng khí; tuy nhiên, một khi thức
ăn khơng cịn lớp bao bọc nữa thì lớp màng bao này sẽ được vi sinh vật trong đất, nước
ngọt hay nước mặn phân hủy ngay.


<b>NGHIÊN CỨU MỚI VỀ HỢP CHẤT</b>
<b>KẼM HỮU CƠ HALIDE (RZNX) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

Simon Woodward và các đồng sự tại đại học Nottingham đã chứng minh rằng thông
thường các hợp chất kẽm hữu cơ halide (RZnX: với X là nguyên tử halogen, R là nhóm
alkyl hay aryl) có thể được dùng như các thuốc thử đa năng trong hóa học cộng nhóm
chức carbonyl khơng đối xứng. Nhóm của Woodward đã phát triển một hệ thống trực
tiếp cho sự hoạt hóa của RZnX (halide) trong chất phụ gia aldehyde chỉ dùng những
chất có sẵn và một phối tử đơn giản.


"Thông thường cho một phụ gia carbonyl bất đối xứng người ta dùng các dạng


diorganic (ZnR2). Tuy nhiên chỉ có 8 trong số chúng là thường có giá trị, điều này là vơ


dụng nếu nhóm R mà bạn muốn cộng không là một trong số chúng! Sự thật là hơn 200
dạng kẽm hữu cơ halide có giá trị thương mại mà đối với chúng tơi đó là nguồn tài
nguyên chưa khai thác đáng được tận dụng", Woodward giải thích.


Các nhà nghiên cứu đã tạo ra chất xúc tác từ RZnX và một chất có gốc aluminium.
"Việc hiểu rõ nhóm chức của các hợp chất kẽm hữu cơ halide là một lợi thế.",


Woodward phát biểu. "Mặc dù các phương pháp khác đã được phát triển, tất cả những
phương pháp mới này đòi hỏi sự nghiên cứu tổng hợp đầy thách thức."


Phản ứng trực tiếp chỉ dùng những chất và xúc tác có giá trị thương mại.


John Brown, một chuyên gia trong lĩnh vực xúc tác hữu cơ của đại học Oxford (Anh) đã
hưởng ứng cơng trình này: "Nhóm của Woodward đã khám phá ra một phương pháp
hoàn toàn đơn giản và rất hữu dụng."


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

Theo RSC


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Plastic trở thành nhiên liệu trong tương lai </b>



Các nhà khoa học trên khắp thế giới đang cố gắng
biến rác thải thành nhiên liệu cho xe máy, thế nhưng
nhà khoa học Richard Gross đã thực hiện một
nghiên cứu khác: biến plastic thành nhiên liệu cho
tương lai. Nghiên cứu có thể sử dụng các loại plastic
thơng thường dùng trong bao gói hàng hóa hoặc
trong lĩnh vực khác, nhưng khi các loại plastic đó trở
thành phế liệu, chúng có thể dễ dàng biến thành nhiên liệu thay thế dầu diesel.



Quy trình này vẫn chưa được ứng dụng vào thực tiễn, nhưng đã gây ấn tượng với hãng
Pentagon nên hãng này đã chi 2,34 triệu USD để tiến hành nghiên cứu thêm. Kỹ thuật
này có thể giảm lượng vật liệu mà quân đội phải chuyên chở cho các quân nhân ở
những nơi xa xôi, do bởi 2 cơng dụng hữu ích của plastic vừa là bao gói hàng hóa và
sau đó biến thành nhiên liệu. Theo Cơ quan đề án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến –
Darpa, kỹ thuật này cũng góp phần làm giảm lượng rác thải.


Tiến sĩ Gross, giáo sư ngành Hóa học thuộc Đại Học Bách Khoa ở Brooklyn đang tiến
hành chuyển dầu thực vật thành “plastic sinh học”, dầu thực vật này là loại nhiên liệu để
sản xuất dầu diesel sinh học. Plastic dùng ở đây có thể ở dạng màng phim mềm hoặc
cứng thường dùng trong bao gói thực phẩm. Sau đó ơng dùng một loại enzyme thiên
nhiên để phân hủy plastic thành nhiên liệu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

Một cơng ty ghép gene tên DNA 2.0 đã trích lấy DNA từ ký sinh trùng đó và ghép vào vi
khuẩn E. Coli nhằm sản xuất được nhiều enzyme cutinase. Người ta chọn vi khuẩn E.
Coli vì khả năng sinh sôi phát triển dễ dàng hơn so với các ký sinh trùng khác.


Trước tiên là cắt plastic thành những mảnh nhỏ. Để làm điều này, tiến sĩ Gross nói rằng
sẽ dùng máy cắt giấy văn phịng. Sau đó ngâm các mảnh plastic vào nước với một
lượng nhỏ enzyme. Trong khoảng từ 3 đến 5 ngày thì kết thúc phản ứng với dầu diesel
sinh học nổi lên trên bề mặt nước.


Để đáp ứng tiêu chuẩn của Cơ quan bảo vệ môi trường đối với loại nhiên liệu sử dụng
cho xe chạy trên đường phố ở Mỹ, nhiên liệu sinh học cần phải qua nhiều quy trình chế
biến hóa học nữa, nhưng Cơ quan Darpa tin rằng nhiên liệu tạo thành này có thể trực
tiếp dùng ngay cho động cơ diesel để tạo ra điện năng.


Theo Cơ quan Darpa, một quân nhân trung bình có khoảng 7 pound phế liệu bao gói
trong 1 ngày, và việc giải quyết lượng phế liệu này đơn giản địi hỏi “nhiều nhân cơng,


nhiên liệu và phương tiện chuyên chở cần thiết”. Kể cả việc tiêu tốn một lượng năng
lượng để tái sản xuất plastic thì phế liệu rác thải này có thể cho nhiều nhiên liệu hơn để
sản xuất điện năng cung cấp cho căn cứ quân sự.


Hãng Pentagon gọi kỹ thuật này là chương trình phục hồi năng lượng dễ dàng chuyển
biến, hay như cô Miser. Jan Walker, người phát ngơn của Cơ quan Darpa, nói rằng
trong phạm vi các kế hoạch mà Cơ quan tài trợ thì đây “không phải là một kỹ thuật công
nghệ thực tế” mặc dù đang trong giai đoạn khởi đầu.


Theo Tiến sĩ Gross, một gallon dầu đậu nành sẽ sản xuất cho ra cùng một lượng dầu
diesel tương tự cho dù dầu được chuyển đổi trực tiếp hoặc có qua một giai đoạn chế
biến trung gian như plastic.


Ơng nói rằng, vấn đề là việc tách các chất hóa học trong dầu gọi là acid béo từ dầu đậu
nành hoặc từ nguồn cây trồng khác, và chế biến dầu để có được cấu trúc hóa học ở
một đầu cuối phân tử giống như “cái móc”. Để rồi sau đó các phân tử dầu có thể liên kết
với nhau tạo thành chuỗi dài, xây dựng thành các khối plastic. Thêm vào các liên kết
chéo ở chuỗi phân tử, và plastic sẽ chuyển từ film mềm thành vật liệu rắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

chuyển đổi gene thực hiện quá trình này. Jeremy Minshull, chủ tịch cơng ty DNA 2.0, nói
rằng men được chọn vì quá trình chuyển đổi cần năng lượng, và men có thể cung cấp
năng lượng khi tiêu hóa chất dinh dưỡng.


Sau đó vi khuẩn E. Coli với DNA của nấm Candida Antarctica sẽ chuyển acid béo
hydroxy thành polymer, một loại vật liệu có thể gia nhiệt và tạo hình để sử dụng. Và sau
khi plastic được sử dụng để bao gói chứa đựng hàng hóa thì có thể cắt thành mảnh nhỏ
và phân hủy hóa học thành nhiên liệu diesel.


Ơng Minshull nói rằng thách thức hiện nay liên quan đến enzyme chuyển plastic thành
nhiên liệu lỏng, để chỉ cần dùng một lượng nhỏ enzyme mà thơi. Điều này khiến chi phí


sản xuất giảm và giảm lượng enzyme cịn sót sau q trình chế biến rơi vào động cơ
diesel.


Trong khi dầu diesel được sản xuất thương mại ở Mỹ, thì khả năng cạnh tranh với nhiên
liệu diesel là không thể nếu không được chính phủ trợ cấp. Nhưng nếu giá dầu vẫn trên
đà tăng cao, hay nếu chính phủ đánh thuế vào lượng khí thải carbon, thì việc sản xuất
diesel sinh học từ plastic sinh học có thể được chính phủ tài trợ. Sử dụng thực vật sản
xuất plastic hay nhiên liệu sẽ loại trừ nhiều khí thải carbon vì vụ mùa trồng trọt thực vật
cho năm tiếp theo sẽ hấp thu bớt carbon từ khơng khí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<b>Sản xuất Nylon từ nông nghiệp</b>


Nylon - loại sợi tổng hợp chiếm vị trí thứ hai trên thế giới
đã đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống hằng ngày
của chúng ta. Nhưng để sản xuất Nylon đã kéo theo
nhiều vấn đề về ô nhiễm mơi trường! Vấn đề đặt ra là tìm
được phương pháp mới sạch sẽ hơn để sản xuất Nylon ít
gây ảnh hưởng đến môi trường. Axit Adipic là một trong
những mục tiêu nhắm tới vì nó là ngun liệu chính của Nylon.


Bởi vậy, các nhà hố học đã giành cho nó sự quan tâm đặc biệt, tại một phịng thí
nghiệm đã được sản xuất nylon từ loại đường phong phú nhất trong tự nhiên: D-
glucoza. Hai nhà hoá học Karen Draths và John thuộc trường đại học Purdue bang
Indiana, Mỹ, hi vọng rằng phương pháp này sẽ được triển khai để thay thế các quy trình
gây ô nhiễm vừa tốn năng lượng đang dùng để sản xuất Axit Adipic. Phương pháp
truyền thống ra đời cách đây gần một thế kỉ và đến nay vẫn áp dụng đi từ benzen, một
hoá chất gây ung thư lấy từ nguồn ngun liệu hóa thạch khơng tái sinh là dầu mỏ.
Việc chuyển hoá benzen thành Axit Adipic đòi hỏi nhiệt độ cao và áp suất cao. Khâu
cuối cùng của q trình nhiều giai đoạn có sự tham gia của Axit Nitric tạo ra khí nhà
kính Nitơ oxit (N2O). Trong bảng xếp hạng về ô nhiễm N2O trong khí quyển thì ngành



sản xuất Axit Adipic chiếm tới 10%.


Nhưng D- glucoza ở đâu ra? Thật đơn giản, dễ kiếm và nhiều vơ kể. Đó là các phế liệu
nông nghiệp dưới dạng Xenluloza. Hai nhà khoa học vừa nói trên đã chỉ ra một con
đường mới dùng Enzym để chuyển hoá D- glucoza thành Axit Muconic. Chất này sẽ
phản ứng với Hydro để tạo thành Axit Adipic. Để chuyển hóa D-glucoza thành Axit
Muconic, Draths và John đã kết hợp hai xúc tác sinh học phỏng theo cả quá trình của
thiên nhiên.


Quá trình thứ nhất: biến D- glucoza thành các axit amin như


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

là axit 3- Dehidro- Sikimic (DHS), hai nhà bác học này coi phân tử trên là chìa khóa để
tạo ra Axit Adipic.


Họ thấy rằng có thể tăng hiệu suất của DHS đến cực đại bằng cách dùng thể đột biến di
truyền của vi khuẩn E. Coli kí hiệu bằng mã số AB2834. Ngồi ra cịn có các enzym
khác nữa được Draths và John huy động để chuyển hoá DHS thành Axit Muconic. Hiệu
suất của axit này tính theo D-glucoza là 30%.


Giai đoạn cuối cùng là một q trình hóa học thuần túy, axit Muconic chuyển thành Axit
Adipic bằng cách hydro hoá xúc tác trên Platin.


Các nhà phát minh cho rằng triển khai quy trình này trên quy mơ cơng nghiệp là không
phải dễ dàng. Song thuận lợi lớn đối với cơng nghiệp là quy trình diễn ra ở nhiệt độ và
áp suất thường. Việc sản xuất Nylon từ nguyên liệu sinh học đã mở ra phương pháp
mới bảo vệ môi trường để Nylon giảm đi danh tiếng là “kẻ gây ô nhiễm” và mãi là vị trí
thứ nhất trong thế giới sợi tổng hợp.


Vũ Công Phong


(Biên soạn)


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>PHÂN LOẠI ĂN MỊN KIM LOẠI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

nước biển, mơi trường phản ứng, vv.).


Dạng ăn mòn kim loại phổ biến nhất là gỉ sắt. Gỉ sắt (có thành phần Fe2O3.nH2O) khơng


bền và xốp nên không bảo vệ được sắt khỏi bị ăn mòn. Hằng năm khoảng 10% kim loại
khai thác được bị ăn mịn, khơng sử dụng được. Có thể chống sự ăn mòn kim loại bằng
cách sơn, tráng men, tạo màng bảo vệ, mạ một lớp kim loại khó bị ăn mòn như crom,
niken hoặc bằng cách sử dụng protectơ.


<b>Phân loại</b>


1. Theo cơ chế của quá trình ăn mịn.


- Ăn mịn hố học : là q trình ăn mịn do tác dụng hố học giữa kim loại với mơi
trường .


- Ăn mịn điện hố: là q trình ăn mịn do tác dụng điện hố học giữa kim loại với mơi
trường; phản ứng điện hóa xảy ra trên 2 vùng khác nhau của bề mặt kim loại: vùng anốt
và vùng catốt. Tốc độ ăn mòn phụ thuộc vào điện thế điện cực của kim loại, mơi trường
ăn mịn, nhiệt độ …


2. Theo điều kiện của q trình ăn mịn.


- Ăn mịn khí : ăn mịn kim loại trong khí thường xảy ra ở nhiệt độ cao.


- Ăn mịn khí quyển : ăn mịn kim loại trong khí quyển tự nhiên.


- Ăn mịn trong chất điện giải : ăn mòn kim loại xảy ra trong chất lỏng dẫn điện.
- Ăn mòn trong đất.


- Ăn mòn do dòng điện ngồi: ăn mịn điện hố do tác dụng của dịng điện 1 chiều bên
ngồi.


- Ăn mịn tiếp xúc: là dạng ăn mịn điện hố gây ra do kim loại có điện thế khác nhau
tiếp xúc với nhau.


- Ăn mòn do ứng suất: là dạng ăn mòn do tác dụng đồng thời của mơi trường ăn mịn
và ứng suất cơ học.


- Ăn mòn do sinh vật: trong một số môi trường do một số vi sinh vật hoạt động tiết ra
những chất làm tăng q trình ăn mịn.


3. Theo đặc trưng của dạng ăn mòn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

- Ăn mịn khơng đều: tốc độ ăn mịn khơng đều nhau trên bề mặt kim loại.


- Ăn mòn chọn lựa: chỉ phá huỷ một pha nào đó trong cấu trúc hợp kim, hay một cấu
tử nào đó của hợp kim.


* Ăn mòn cục bộ: chỉ một vài phần trên bề mặt kim loại bị ăn mòn.
- Ăn mòn vết: tạo thành những vết dài trên bề mặt kim loại.
- Ăn mòn hố: ăn mịn tạo thành hố có chỗ sâu, chỗ nơng.


- Ăn mòn điểm: ăn mòn ở dạng điểm khác nhau đường kính là 0,1 – 1,2 mm .



- Ăn mòn dưới bề mặt: ăn mòn ban đầu trên bề mặt nhưng dần dần ưu tiên dưới bề
mặt.


- Ăn mòn giữa các tinh thể: ăn mịn này rất nguy hiểm vì khơng thay đổi dạng bề mặt
bên ngoài, nhưng làm giảm nhanh độ bền và độ dẻo của kim loại.


- Ăn mòn nứt: khi tác động đồng thời hai nhân tố là ăn mòn và cơ học. Kim loại khơng
những nứt ở giữa các giới hạn hạt mà cịn xuyên qua tinh thể.


Ngọc Hiệp


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>CÔNG NGHỆ ENECO CUNG CẤP GIẢI PHÁP</b>
<b> HỒN HẢO CHO PIN NĨNG Q MỨC</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

Những báo cáo rộng rãi rằng những nguồn pin mà có sự nhiễm bẩn hạt kim loại trong
suốt quá trình sản xuất. Điều này tạo ra một đốm nóng cục bộ mà có thể dẫn đến một
hiệu ứng lan truyền và có thể bắt lửa từ nhiệt đuợc phát sinh , mà lần lượt đốt nóng
vùng xung quanh nó trong pin máy tính xách tay. Kĩ thuật Eneco là kĩ thuật thông minh,
hệ thống dựa trên chip nhiệt mà nhiệt nội tại được truyền sang điện năng.


Chip nhiệt có những đặc trưng :


Năng lượng gấp 5 lần những pin Ion-lithi hiện thời.


Trọng lượng và kích thước phù hợp với máy tính xách tay.


Cơng nghệ bán dẫn, hiệu quả cao, tuổi thọ cao và phí bảo trì thấp.
Tiết kiệm nhiệt và điện.



Có thế dùng cho những ứng dụng từ nhỏ đến lớn hơn.
<b>T.V </b>


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>THÀNH CÔNG TRONG VIỆC LIÊN KẾT CÁC PHÂN TỬ</b>


Để 2 phân tử nối với nhau bằng mối liên kết cơ học chặt chẽ mà
khơng nối với nhau bằng mối liên kết hóa học là 1 thách thức lớn đối
với khoa học. Hiện nay, một nhóm các nhà nghiên cứu Anh và Mỹ
đã triển khai một nhóm phân tử mới gồm các phân tử liên kết chặt
chẽ lẫn nhau và đã tạo ra một phiên bản điển hình đầu tiên. Các nhà
nghiên cứu đặt tên cho hợp chất mới này là “chuỗi alkan” -


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

một khối phân tử “tương hợp”.


Biết được số nhánh chính thơng qua số nhánh liên kết trong hợp chất đó: 1 chuỗi alkan
có 2 nhánh, 1 chuỗi alkan có thể có 3 nhánh nhánh, và 1 chuỗi alkan có thể tới 4 nhánh.
J. Fraser Stoddart, người tiên phong trong lĩnh vực hóa học hợp phân tử, giải thích: 1
chuỗi alkan giống như 1 con búp bê mặc quần yếm liền gồm 5 bộ phận liên kết: 2 chân,
2 tay và 1 cái đầu.


Một nhóm nghiên cứu do Stoddart dẫn đầu (Đại học California, Los Angeles) và David J.
Williams (Imperial College, London) đã tổng hợp thành công một đại diện tiêu biểu đơn
giản nhất của loại hợp chất này: 1 chuỗi alkane. Đầu tiên, họ sử dụng máy vi tính giả vờ
tấn công vào phân tử. Bên trong phân tử – phần “cơ thể” – sẽ trở nên hơi cứng và có
hình chữ nhật ; chuỗi phân tử từ nhiều hợp chất này phải gồm các phân tử linh động có
thể lắp ráp chung quanh phần “cơ thể”. Giống như 1 bộ quần áo được may khéo léo, tất
cả các hợp chất riêng biệt đó phải liên kết hồn hảo với nhau về cấu tạo hình dáng, kích


cỡ và nhóm chức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

Quỳnh Thi dịch (Theo Chemie)


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Chì với sức khỏe con người</b>


Chì (Pb) là kim loại mềm xếp thứ 82 trong bảng tuần hoàn
các nguyên tố hoá học và được con người phát hiện và sử
dụng cách đây khoảng 6.000 năm, do đó có nhiều ứng dụng
trong đời sống sinh hoạt.


Nhiều hợp chất của Chì được sử dụng tạo ra các màu đẹp
dùng để pha sơn, chất màu trong đồ gốm, nhuộm giấy mầu,
trong tranh vẽ và mực in .v.v. Nhưng khi Chì xâm nhập vào
cơ thể thơng qua con đường hơ hấp, tiêu hố, tiếp xúc qua da... Chì tích luỹ trong máu,
mơ, xương.v.v., trong máu 95% Chì nằm trong hồng cầu, Chì làm gián đoạn q trình
chuyển hố axit amino-levalinic sang photpho- billinnogen làm tăng protoporphyrin tự do
trong hồng cầu vì vậy dẫn đến thiếu máu. Chì phá hủy myelin của các dây thần kinh
ngoại biên làm giảm sự dẫn truyền thần kinh vận động. Chì cịn gây ra tổn thương thận,
làm giảm chức năng gan tạm thời, gây đau khớp, đau đầu, buồn nôn, đau bụng, mệt
mỏi, ... Trẻ em mà chì ngấm vào các mơ xốp, xương làm ảnh hưởng đến quá trình phát
triển, nhất là hệ thần kinh ảnh hưởng đến trí thơng minh ....


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

<b>Một số tài liệu về nhiễm độc chì:</b>


Một số nhà khoa học cho rằng một trong những nguyên nhân làm cho đế quốc La Mã
hùng mạnh đi vào con đường tiêu vong đó là nhiễm độc Chì ! Những vua chúa quan lại
thời đó do thói quen ăn uống, đặc biệt là có tập qn hịa rượu với sirơ rồi ủ nhiều giờ


trong các bình Chì, vơ tình họ đã uống một lượng lớn chì rồi dẫn đến cái chết. Còn
những người dân nhiễm độc do dùng nước trong các ống dẫn bằng chì.




Năm 1845 đoàn thám hiểm của huân tước Frakin (Anh) đi trên hai con tầu dọc theo bờ
biển Bắc Mỹ, mang theo một lượng lớn lương thực và thực phẩm đủ sống đàng hồng,
cho dù có lênh đênh trên biển nhiều tháng nhưng cuối cùng cả 129 người trong đồn
đều chết mà khơng rõ ngun nhân.




Mãi đến năm 1984, nhà nhân chủng học Owen Beati và cộng sự khai quật mộ của một
số thủy thủ của hai con tầu trên, xét nghiệm và nhận thấy trong cơ thể họ có hàm lượng
Chì rất cao và ơng cũng tìm thấy nơi chơn có những hộp rỗng, kiểm tra thấy chúng
được hàn bằng Chì khá dày. Một cách hàn đồ hộp khá phổ biến ở Anh thời đó, rất có
thể từ mối ghép này, Chì đã xâm nhập vào các thực phẩm và gây tai họa nhiễm độc.


Ở Macedonica, đặc biệt là khu vực Veles có 60.000
người dân bị nhiễm độc chì nặng do những nhà máy
Chì (hay Kẽm) chỉ cách khu dân cư có 300m. Viện
nghiên cứu sức khoẻ Veles đã đưa ra những con số
khủng khiếp, mỗi năm thành phố này phải hứng chịu
(trong khơng khí) 47.300 tấn chì chưa kể các chất độc
khác (Kẽm, Lưu huỳnh Diôxyt ....). Số trẻ bị bệnh suy tim, phổi, hen xuyễn nặng, ung
thư... khá nhiều. Từ năm 2001 tổ chức y tế thế giới WHO đã đưa Veles vào bản danh
sách những khu vực nguy hại nhất thế giới!





</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

tường thường được dùng trước năm 1948 vì nó chống được ẩm, mốc...


Ở nước ta cuối năm 2005 rộ lên một nhãn sữa của Hàn Quốc bị phát hiện có chứa hàm
lượng Chì lên đến 0,107mg/ kg cao gấp 5,35 lần so với tiêu chuẩn quy định. Trẻ em
uống sữa này bị ngộ độc, tiêu chảy....




Chì có trong rau rút ở Thanh Xn(Hà Nội) cao hơn mức cho phép 35 lần!.


Trong trứng muối của Trung Quốc được muối theo công thức: Trộn muối kiềm + Hoàng
đơn + đất bùn + trấu rồi đem bọc ngồi quả trứng, mà hồng đơn có thành phần hố
học là Oxyt Chì (PbO2)!. Khi sử dụng một lượng Chì đã ngấm vào trong trứng gây ra


ngộ độc!.


Cuối năm 2006 điều tra ở Bản Thi, huyện Chợ Đồn cái nơi của vùng Chì, Kẽm lớn nhất
Việt Nam, có tới 70% người mắc bệnh chóng mặt, buồn nơn, khó thở tức ngực, hơn
50% trong số đó mắc các bệnh, ngồi ra 40% mắc các bệnh về huyết áp, khớp ....Do
các xí nghiệp khai thác Chì, Kẽm đã thải ra mơi trường 43.000 m3 <sub>chất thải lỏng và </sub>


13.500 m3<sub> chất thải rắn vào nguồn nước khi mưa ngấm qua đất chảy qua hệ thống </sub>


nước ra suối, khe, qua mương máng về tận Bản Thi. Dân lấy nước về để dùng và bị
nhiễm độc ....



Để giảm thiểu nồng độ Chì trong khơng khí nên chính phủ ta đã quy định kể từ ngày
01/07/2001 khơng cịn sử dụng xăng pha chì trong cả nước. Trước đây dùng Têtrathyl
Chì hay Tetra metyl Chì pha vào xăng dưới 0,3% theo khói xả ra ngồi Chì biến thành
hạt nhỏ li ti lơ lửng trong môi trường và đi vào con đường hô hấp của con người!


Trong danh sách 10 chất gây ô nhiễm cao nhất của thế giới thì Chì được xếp vào loại
thứ 3 nên chính phủ nhiều nước đã có những quy định chặt chẽ để hạn chế tác hại của
Chì với sức khoẻ con người.


Vũ Cơng Phong


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>HOẠT TÍNH CỦA CHẤT TẨY RỬA CLO</b>


Chất tẩy rửa là một trong số các hóa chất mà hộ gia đình
thường có, nhưng hiếm khi sử dụng. Chất tẩy sẽ mất
hoạt tính của nó theo thời gian, chứ không phải chỉ là do
khi các đồ chứa chúng bị hở. Nhiệt độ là yếu tố ban đầu
chủ yếu ảnh hưởng đến thời gian hoạt động của chất tẩy.
Theo CloroxTM , lượng hypoclorit được thêm vào chất
tẩy của họ phụ thuộc vào mùa mà sản phẩm đó được sản
xuất, vì nhiệt độ ảnh hưởng đến tốc độ phân hủy của natri hypoclorit. Vì thế, hypoclorit
thường được thêm nhiều hơn vào chất tẩy khi chúng được sản xuất trong mùa hè so
với những tháng có khí hậu mát hơn. Sản phẩm của CloroxTM duy trì một lượng ít nhất
là 6% hypoclorit cịn lại sau sáu tháng kể từ ngày tháng sản xuất, với điều kiện là chất
tẩy được cất giữ tại nhiệt độ khoảng 21°C.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

chất tẩy của bạn ở nơi có nhiệt độ ấm hơn 21°C, 32°C chẳng hạn, chất tẩy vẫn cịn có
hiệu quả trong khoảng ba tháng, sau khi hết thời hạn sử dụng 3-5 tháng trên.



Vì thế, mỗi khi bạn mua một chai chất tẩy, hãy chú ý thời gian bảo quản. Chất tẩy sẽ có
hiệu quả cao trong khoảng 6 tháng đầu và cho việc sử dụng trong gia đình thì khoảng 9
tháng. Nếu bạn đang có một chai chất tẩy đã mua được vài năm, có lẽ nên đi mua sắm
với tôi.


<b>KIM LOẠI ĐẤT HIẾM TRONG CUỘC SỐNG</b>


17 kim loại có hàm lượng rất nhỏ trong vỏ của trái đất được
gọi là đất hiếm. Các kim loại này thường nằm trong các mỏ
quặng và cát đen, sở dĩ chúng được gọi là hiếm vì tách
những nguyên tố tinh sạch này rất khó. Từ những năm 60
của thế kỉ trước các nhà địa chất học đã đánh giá trữ lượng
đất hiếm ở Việt Nam khoảng 10 triệu tấn, nằm rải rác ở các
mỏ quặng vùng Tây Bắc đặc biệt có nhiều ở Yên Bái và dạng cát đen phân bố ở miền
Trung.


<b>Ứng dụng chủ yếu của đất hiếm ở Việt Nam ta là:</b>


Sử dụng chế phẩm vi lượng để tăng năng suất cây trồng. Với kết quả thử nghiệm trên
lúa, cho thấy lúa được phun chế phẩm đất hiếm đã tăng 8 đến 12% sản lượng, hạt lép
giảm đặc biệt lúa trổ đều chín sớm hơn một tuần, giảm nhiều cơng chăm sóc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

đương mà giá cả chỉ bằng 20% sản phẩm ngoại nhập.


Ngồi các cơng dụng trên đất hiếm cịn có thể ứng dụng chế tạo các thiết bị tuyển từ
trong cơng nghiệp khai thác khống sản và diệt những cây mục ở các di tích cổ.


Các nhà khoa học đã chiết tách được những ôxit đất hiếm sạch đến 99,99% và ứng
dụng nó đã thu lợi hàng trăm tỷ đồng. Viện khoa học vật liệu, viện khoa học năng lượng


đã làm chủ được công nghệ cơ bản như chiết tách, dùng đất hiếm làm phân bón vi
lượng, chế tạo nam châm vĩnh cửu...


Vũ Công Phong biên soạn
<b>hoahocvietnam.com </b>


<b>LITI TRONG SẢN XUẤT VÀ ĐỜI SỐNG</b>


Các bạn có biết kim loại Li ti đứng đầu nhóm kim loại
kiềm và nhẹ nhất có cơng dụng gì trong cuộc sống
không?




Khi cho thêm Liti và hợp chất của Liti vào thuỷ tinh
thì có thể làm tăng cường độ và tính bền của thuỷ
tinh, tăng cường tính quang học, có điện trở suất
cao, có thể chịu được sự ăn mòn của axit, kiềm, sự
nở vì nhiệt cũng khơng gây nguy hiểm lớn, thường được sử dụng trong cơng nghiệp
hố học và các dụng cụ quang học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Liti có thể làm giảm nhiệt độ nung kết, rút ngắn thời gian sản xuất. Nâng cao tính chịu
mài mịn, ăn mịn, làm cho đồ sứ có bề mặt nhẵn, bóng, chế phẩm càng chắc bền, khi
nhiệt độ có những biến hố mãnh liệt cũng không bị biến dạng hoặc nứt vỡ. Đem lớp sứ
chứa Liti lót lên trên bề mặt sắt thép, nhơm, magiê... thì sẽ hình thành một tầng lót vừa
mỏng vừa nhẹ, bóng nhẵn lại chịu nhiệt, có thể dùng làm buồng đốt nhiên liệu cho máy
phun khí, tầng bảo vệ ở vỏ ngồi của tên lửa, đạn đạo...


Trong các bệnh viện, các cơ sở công cộng, nhà máy, xí nghiệp, thậm chí ngay trong
tàu ngầm, dùng máy lạnh, sử dụng Bromua Liti để chống chế khơng khí có thể tạo nên


mơi trường dễ chịu, mát mẻ...


Trong các nghành sản xuất của công nghiệp cơ khí cũng có thể tìm thấy “dấu tích“ của
Liti. Mọi người đều biết rằng các loại máy to, nhỏ đủ kiểu cũng đều cần dùng chất bôi
trơn mà cho thêm hợp chất của Liti thì có thể cải thiện đáng kể hiệu năng bôi trơn, tiết
kiệm lượng dùng dầu mỡ, giảm bớt mài mòn các linh kiện, kéo dài tuổi thọ của các máy
móc. Các chất bơi trơn thơng thường tương đối “khó tính”, nóng thì bay hơi, lạnh thì
đơng kết lại. Nhưng dùng vật liệu bôi trơn đặc chủng chế thành từ hợp chất của Liti thì
lại chịu được tình trạng nóng, lạnh nói trên: ở nhiệt độ thấp - 500<sub>C cũng không bị đông </sub>


kết, ở nhiệt độ cao khoảng 2000<sub>C, mà khơng bị biến thành khí. Trong vùng giá băng địa </sub>


cực hay ở vùng nhiệt đới xích đạo nóng như thiêu như đốt, chúng đều hoạt động bình
thường, hiện nay nó được sử dụng trở thành phổ biến trong các máy đo trang thiết bị cơ
giới của nghành hàng khơng, động lực, luyện kim. Có người gọi đó là: “chất bơi trơn loại
vĩnh cửu”.


Liti kết hợp với Hydrô thành Liti hidrua ở dạng bột màu trắng. Loại bột này gặp nước là
phát sinh phản ứng hoá học mãnh liệt tạo ra lượng lớn Hydro. Sau khi phân giải, 2kg Liti
Hydrua có thể tạo thành 5664lít khí Hydro. Quả thực, Liti Hydrua không thẹn với cái tên:
“Nhà máy sản xuất Hydro”, lúc cần nó có thể phát huy tác dụng cứu sinh như dùng viên
Litihydrua để sản suất Hydro đưa vào áo nổi , phao nổi....


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

càng thêm sít đặc, nâng cao cường độ cơ giới, cũng tăng cường khả năng dẫn điện của
nó ...


Liti cùng với Nhơm, Magiê, Bơili hợp tác tạo nên hợp kim vừa bền, vừa chịu va đập tốt
dùng trong chế tạo đạn đạo, hoả tiễn, máy bay....


Hợp chất của Liti trong ngành công nghiệp dệt cũng phát huy vai trò làm cho sản phẩm


xenlulozo có màu sắc tươi đẹp hơn...


Trong nơng nghiệp, muối Liti được dùng làm một số loại phân bón có tác dụng làm tăng
khả năng kháng bệnh của nhiều loại nông sản như: lúa, dứa, bông, cây ăn quả...


Từ năm 1817 khi nhà khoa học người Thuỵ Điển L.Apuetron lần đầu tiên nhận biết và
tìm ra thì Liti chỉ là đối tượng trong phịng thí nghiệm, thì nay Liti đã phát huy tác dụng to
lớn của mình trong sản xuất và đời sống hằng ngày của chúng ta.


Vũ Công Phong
(Biên soạn)


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Tantalum phá vỡ liên kết ba của nitrogen</b>


Các nguyên tử Tantalum có thể chia nhỏ N2 mà khơng
cần trợ giúp


Các nhà hóa học Pháp đã tìm ra một cách mới để làm
đứt liên kết ba của N2 – một trong những liên kết mạnh


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

Việc phá rời N2 thường đòi hỏi gấp bội sự tập trung kim loại – dù là qua bề mặt các


nguyên tử sắt thường được dùng trong công nghiệp, hay cụm liên kết tới 20 kim loại
trong các enzyme mà thiên nhiên triển khai. Tuy vậy Jean-Marie Basset, Elsje


Alessandra Quadrelli và các đồng sự tại trường đại học Lyon ở Pháp đã nhận ra rằng
các nguyên tử Tantalum đơn lẻ được tách ra trên bề mặt silica cũng có thể thực hiện
được q trình này. Hơn nữa, chúng cịn dùng một cơ chế hoàn toàn mới chưa từng


được biết đến.


Việc tách N2 khơng chỉ là một màn trình diễn thử nghiệm sức mạnh, nó cịn là một q


trình thiết yếu trong công nghiệp và sinh học. Sự sống sử dụng ammonia (NH3) làm


nguồn cung cấp nitrogen từ quá trình tách dinitrogen (N2). Một số vi khuẩn có enzyme


để làm điều này, và ammonia được sản xuất mỗi năm lên đến số lượng 100 triệu tấn
qua phương pháp Haber-Bosh để dùng trong phân bón một cách rộng rãi.


Hệ tantalum hydride không hẳn là cách chia cắt N2 đầu tiên dùng một nguyên tử kim loại


đơn. Năm 2003, Richard Schrock đã phát triển một phức chất molybdenum có thể làm
việc đó. Tuy vậy, trong khi tantalum hydride chỉ địi hỏi đốt nóng với áp suất 1:1 atm của
nitrogen và hydrogen, hệ thống Schrock đòi hỏi “sự ứng dụng luân phiên chính xác của
các nguồn proton và electron – vì thế cơ chế hồn tồn khác biệt”, Quadrelli nói.


Một khác biệt then chốt khác là phương pháp tantalum hydride không thực sự thải ra
ammonia – hai nguyên tử nitrogen vẫn tồn tại tách biệt trong liên kết với kim loại. Đây là
điều mà nhóm Lyon dự trù sẽ tìm hiểu tiếp. “Chúng tôi dự định nghiên cứu theo hai
hướng”. Quadrelli phát biểu với Chemistry World. “Chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề để
tìm hiểu thật chính xác q trình này. Chúng tôi cũng sẽ đi sâu hơn theo hướng ứng
dụng và sẽ nghiên cứu cơ chế này để làm một chất xúc tác cho quá trình hợp nhất
nitrogen trong các chất nền hữu cơ – biến đổi alkane thành amine. Và tất nhiên chúng
tôi sẽ hướng đến việc sản xuất ammonia. Các bạn không thể biết trước quá trình này sẽ
đem đến cho chúng ta điều gì”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

Theo RSC



<b>hoahocvietnam.com </b>


<b>Vì sao sử dụng chì trong nước sơn?</b>


Mattel, nhà sản xuất đồ chơi hàng đầu thế giới, đã cho
thu hồi hàng triệu đồ chơi được phủ ngồi bằng sơn chì.
Bản chất độc hại của chì đã được biết đến hàng nghìn
năm, vậy tại sao chì lại được thêm vào sơn và tại sao
sơn chì vẫn cịn được sản xuất?


Sơn chì là gì?


Bất cứ loại sơn nào cũng trơng cậy vào các hợp chất chì cho màu sắc của nó. Chì
trắng, hay chì (II) carbonate (PbCO3) là một ví dụ điển hình, và một thời đã từng được
dùng rộng rãi để sơn bề mặt gỗ trong nhà. Các hợp chất chì khác, như chì chromate
(PbCrO4) màu vàng chói, được dùng như phẩm nhuộm màu. Cũng như cung cấp màu
sắc cho nước sơn, phẩm nhuộm chì cịn có độ mờ đục cao, vì vậy chỉ cần một lượng
hợp chất tương đối nhỏ có thể phủ một bề mặt rộng. Chì trắng rất khơng tan trong
nước, làm cho sơn không thấm nước và dễ lau chùi với độ bền cao. Chì carbonate cũng
có thể trung hịa các sản phẩm mang tính acid làm mục rữa của các loại dầu bóng trong
nước sơn, vì thế lớp sơn phủ có độ bám, khơng chảy nhão và chống nứt trong thời gian
lâu hơn.


Vậy vấn đề là gì?


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

Điều này khơng tốt cho trí não dễ bị tổn thương và đang phát triển của trẻ. Người ta đã
nhận ra một cách rõ ràng vào nữa đầu thế kỉ 20 rằng nhiều trẻ em đã vị ngộ độc bởi sơn
chì được dùng trong nơi và đồ chơi được tung ra ở phương Tây vào những năm 1950.
Tuy nhiên, các sản phẩm sơn trang trí nhà cửa vẫn được dùng thêm hai thập niên nữa
trước khi nó được kết thúc bởi những khuyến cáo về sức khỏe.



Vì sao chì độc hại?


Chì có thể phá vỡ một cách mãnh liệt các chức năng chính của cơ thể, và từ đây dẫn
đến các biến chứng rộng, từ nôn mửa đến rối loạn thần kinh hay tử vong. Nó được biết
đến như sự cản trở mạnh mẽ sự tiếp nhận glutamate, một truyền dẫn thần kinh quyết
định sự tiếp thu. Nó cũng có khả năng thay thế hàng loạt các kim loại khác giữ chức
năng bình thường trong cơ thể mà quan trọng nhất là calcium, sắt và kẽm. Một vấn đề
đặc biệt là chì thay thế kẽm từ enzyme delta-aminolaevulinate tách nước, một thành
phần chủ yếu của quá trình tổng hợp sinh học của heme, phức chất sắt của phân tử
hemoglobin đảm trách việc luân chuyển oxygen trong máu. Điều này tạo nên sự thiếu
oxygen cho các tế bào trong cơ thể dẫn đến một chuỗi vấn đề về kết hợp.


Tất cả sơn chì đã bị cấm?


Hầu hết. Trong phần lớn các ứng dụng, phẩm nhuộm chì đã được thay thế bằng


titanium dioxide, một hợp chất an toàn được dùng trong màu thực phẩm cũng như trong
kem chống nắng. Ở châu Âu, ngày nay sơn chì chỉ được dùng trong việc phục chế và
bảo trì các tác phẩm nghệ thuật và các di tích kiến trúc. Ở Mỹ, sơn chì có thể sử dụng
hạn chế trong các ngành công nghiệp nặng như phủ lớp vỏ ngồi tàu thủy.


Sơn độc chì đã được tìm thấy như thế nào?


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

phổ plasma cảm ứng đơi có thể tìm thấy chì chỉ với lượng ít hơn một phần tỉ, ơng nói
thêm.


Vậy điều gì đang xảy ra ở Trung Quốc?


Trung Quốc đang dần hạn chế việc sử dụng chì, ví dụ như lệnh cấm xăng pha chì vào


năm 2000. Tuy nhiên, sơn chì rẻ hơn các sản phẩm khác, và điều này khiến cho một vài
nhà sản xuất Trung Quốc vẫn duy trì sử dụng chúng thay vì dùng các sản phẩm sơn
không độc hại và hợp pháp khác. Đáp lại hàng loạt vụ xì căng đan về độ an toàn các
sản phẩm, bao gồm cả thức ăn cho vật nuôi và kem đánh răng bị nhiễm độc, chính phủ
Trung Quốc đang cố gắng lập nên một nhân vật huyền thoại “sửa chữa sai lầm quốc
gia”. Wu Yi, đang giữ chức phó thủ tướng, là nữ quan chức cao tuổi nhất, sẽ đứng đầu
cuộc họp nội các mới về sản phẩm an toàn, trong cuộc nỗ lực hướng các vấn đề của
quốc gia đến sản phẩm an toàn.


Thành Viên soạn dịch
Theo RSC


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Tinh thể nano giúp xương gãy mau lành </b>


Các nhà khoa học Trung Quốc đã tuyên bố một loại "xi
măng" tinh thể nano có thể giúp những mảnh xương gãy
mau lành. Được sử dụng trong phẫu thuật xương và nha
khoa, "xi măng" canxi photphat vô định hình


(ACP:amorphous calcium phosphate) được cho rằng sẽ giúp
xương mau lành hơn so với các loại chất rắn thay thế khác.
Tuy nhiên hiện nay các nhà nghiên cứu của đại học


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

giúp chữa lành vết thương sẽ phát triển tốt hơn trên những tinh thể hydroxyapatite cực
nhỏ (HAP, Ca10(PO4)6(OH)2), một dạng vơ cơ chính xác của xương người và men răng.


Trưởng nhóm nghiên cứu, Ruikang Tang cho biết 'Trước kia các nhà khoa học chú ý
quá nhiều vào các loại gốm tổng hợp có nguồn gốc hố học. Thay vào đó nghiên cứu


của chúng tơi tập trung vào tác dụng của kích cỡ tinh thể bằng cách tạo ra các hạt
hydroxyapatite rất nhỏ, khoảng 20nm.'


Các thí nghiệm cho thấy HAP kết tinh có khả năng chữa lành vết thương cao hơn các
loại xi măng đặc biệt khác. Hydroxyapatite kết tinh với kích cỡ trong khoảng 20-40nm là
khung cơ bản xây dựng nên xương và men răng. "Vì vậy chất liệu y sinh phù hợp nên


có các đặc điểm tương tự để cải thiện q
trình tái tạo mơ", Tang giải thích. Nhóm
nghiên cứu hiện đang có kế hoạch thử
nghiệm loại xi măng nano trên động vật.


Tế bào gốc tuỷ xương phát triển trên những
tinh thể nano hydroxy apatite nhanh hơn là
người ta nghĩ


Lê Thị Thu Hà
(Theo RSC)


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Tính chất mới của ống Nano cacbon</b>


Magnesium diboride (MgB2), lần đầu tiên được phát hiện có


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

cho cơng nghệ do có nhiệt độ tới hạn cao (39 K - cao nhất trong


các hợp kim), có giá rẻ và thành phần hóa học đơn giản.


Tuy nhiên, từ trường tới hạn trên (từ trường triệt tiêu tính siêu dẫn) chỉ là từ 14 đến 16 T


và dòng tới hạn cũng chỉ đạt 2.104 A/cm2 ở 5 T. Hãy nhớ, MgB2 là vật liệu siêu dẫn loại


2, vì thế nó có 2 từ trường tới hạn và trường tới hạn trên là giá trị tới hạn triệt tiêu tính
siêu dẫn, cịn giá trị tới hạn dưới (thấp hơn) là giá trị tới hạn mà trường ngồi có thể
xuyên vào vật liệu siêu dẫn. Ta biết rằng, để sử dụng các chất siêu dẫn trong các cuộn
tạo từ trường, các gốm siêu dẫn có nhiệt độ tới hạn cao rất khó sử dụng nên hợp kim
này là sự lựa chọn tuyệt vời.


Và mới đây, Serquis cùng các cộng sự đã lần đầu tiên thành công khi đồng thời tối ưu
hóa 2 thơng số trên bằng cách pha tạp vào vật liệu này các ống nano cácbon có tường
đơi (Double-walled carbon nanotubes - DWNTs). Các mẫu khối MgB2 có chất lượng cao


được chế tạo bằng phương pháp xâm nhập hơi Mg ở Centro Atómico Bariloche


(Áchentina) và sau đó pha tạp các ống DWNTs, sau đó tiến hành đo các tính chất điện
và từ bằng các thiết bị phổ thông như từ kế ... trong từ trường xung ở Phịng thí nghiệm
từ trường cao (Los Alamos). Họ phát hiện ra rằng, khoảng 3,5% nguyên tử các DWNTs
pha tạp vào có thể tạo ra tính chất tối ưu cho MgB2 với giá trị mật độ dòng tới hạn lên tới


5.104 A/cm2 (khi trường ngoài là 5 T) và từ trường tới hạn trên lên tới 44 K (ở nhiệt độ
5 K). Một giá trị khác cũng được ghi lại là từ trường tới hạn trên 41,9 T ở 4 K khi hàm
lượng pha tạp là 10% nguyên tử. Điều này có nghĩa là từ trường tới hạn được cải thiện
tới 3 lần trong khi mật độ dòng tới hạn cũng được nâng lên tới 2,5 lần. Các hàm lượng
DWNTs được xác định chính xác bằng cách phân tích cấu trúc tinh thể bằng phương
pháp nhiễu xạ tia X.


Theo cơng trình của nhóm vừa cơng bố trên tạp chí Superconductor Science and
Technology, số 20, trang L12, các kết quả này có thể lý giải bằng 2 vai trò của DWNTs
trong cấu trúc của MgB2. Đầu tiên, đó là các ống nanocarbon hịa tan một phần vào các



ma trận MgB2, tác động như một nguồn cácbon làm tăng giá trị từ trường tới hạn lên giá


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

trong MgB2, do đó làm tăng đáng kể giá trị mật độ dòng tới hạn. Điều này hồn tồn có


thể bởi đường kính ống cũng tương tự như chiều dài kết hợp của siêu dẫn MgB2


Các nhà vật lý cũng cho rằng sự tăng cường này có thể mơ tả bằng một trong các mơ
hình lý thuyết đang được sử dụng như lý thuyết siêu dẫn 2 khe, như là MgB2. Và một


phần khác là sử dụng vật liệu này trong các ứng dụng thực tế như nam châm siêu dẫn.
Cơng trình này có thể là một hướng mở ra việc tạo ra các cuộn dây siêu dẫn có từ
trường lớn nhờ việc cải thiện giá trị từ trường tới hạn.


Kế hoạch sắp tới của nhóm (hợp tác giữa Áchentina và Mỹ) là pha tạp MgB2 với các vật


liệu nano khác nhằm cải thiện tính chất của vật liệu: "Bên cạnh đó, chúng tơi sẽ sản xuất
các dây MgB2 đầu tiên cho ứng dụng mà sử dụng hợp phần pha tạp DWNTs " - Serquis


phát biểu trên Nanotechweb.org.
Vũ Công Phong biên soạn


(Theo Belle Dumé - NanotechWeb.org)
<b>hoahocvietnam.com </b>


<b>CÔNG NGHỆ NANO VÀ NHỮNG KIỆT TÁC PHỤC HƯNG</b>


<i>Những nhà khoa học Ý đang báo cáo việc phát triển và sử dụng </i>
<i>một phương pháp đơn giản, ít tốn kém trên các tác phẩm thời </i>
<i>Phục Hưng, gồm những búc tranh quý và các tác phẩm nghệ </i>
<i>thuật khác.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<i>những giọt nhỏ của chất làm sạch lơ lủng trong nước hình thành một thể nhũ tương. </i>
<i>Những chất-mang-nano này có nhiều ưu điểm hơn các phương pháp truyền thống </i>
<i>(những phương pháp sử dụng các dung mơi hịa tan có thể làm hòa tan mất màu </i>
<i>nguyên thủy). Thể nhũ tương này làm cho việc tẩy rửa nhẹ nhàng, giảm thiểu việc phá </i>
<i>hủy các bề mặt mỏng manh. Hơn nữa, phương pháp sử dụng một lượng dung môi hữu </i>
<i>cơ ít hơn tới 95% và ít ảnh hưởng tới môi trường hơn phương pháp làm sạch truyền </i>
<i>thống. </i>


<i>My My</i>


<i>(Theo American Chemical Society)</i>


<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>Liên kết bền chặt với các hạt phân tử kích thước nhỏ nano </b>


Phương pháp sử dụng phân tử mang gen di truyền ADN. Một
nhóm các nhà nghiên cứu ở Mỹ, thuộc Phịng Thí


Nghiệm Năng Lượng Quốc Gia Brookhaven – “U.S.


<i>Department of Energy's Brookhaven National Laboratory”, đã </i>
khám pha ra rằng có thể gia tăng tốc độ kết nối của các hạt phân tử nano dưới sự trợ
giúp của phân tử mang các gen di truyền nòi giống là DNA.


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

Người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, tác giả Mathew Maye, một nhà hóa học ở Phịng Thí
Nghiệm Brookhaven nói:“Hiểu được cách tự liên kết của các loại vật liệu có cấu tạo là
các hạt phân tử kích thước nhỏ nano thì mới có thể ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực
công nghệ nano, từ lĩnh vực quang học đến điện tử, cho đến các vật liệu từ trường”.


Maye là một thành viên của nhóm gồm các nhà khoa học ở nhiều ban ngành khác nhau
thuộc Khoa Sinh học của Phịng Thí Nghiệm Brookhaven và một trung tâm mới về Vật
liệu Nano – “Center for Functional Nanomaterials” (CFN). Các nhà nghiên cứu đã tìm ra
cách dùng DNA kép, rắn chắc để kiểm soát sự liên kết của các hạt phân tử vàng có kích
thước nhỏ nano. Phương pháp kỹ thuật của nhóm nghiên cứu là lợi dụng khuynh


hướng tự nhiên của các hạt phân tử để tạo nên các thành phần gọi là thành phần cơ
bản, được biết đến dưới các ký tự mã hóa A, T, G và C.


Oleg Gang, nhà vật lý học ở Phịng Thí Nghiệm Brookhaven, dẫn đầu nhóm nghiên cứu
nói: “Trong sinh học, DNA là một chất lưu trữ thơng tin chính; trong khoa học nano, DNA
là một vật liệu có cấu trúc tuyệt vời do khả năng tự lắp ráp một cách tự nhiên theo các
nguyên tắc đã được lập trình sẵn khá cụ thể. Chúng ta đang phát triển những bước tiến
đến việc kiểm sốt sự lắp ráp của các vật thể nano vơ cơ bằng việc sử dụng các vật liệu
sinh học như DNA. Tuy nhiên, để thực sự biến điều lý thú này thành công nghệ kỹ thuật
nano, chúng ta phải hiểu được sự tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau cực kỳ phức tạp
trong một hệ thống phân tử lai tạo như vậy”.


Gắn DNA tổng hợp thường dùng trong phịng thí nghiệm lên trên các hạt phân tử vàng
kích thuớc nhỏ nano; điều chỉnh DNA cho phù hợp để có thể chấp nhận và liên kết với
DNA bổ sung đang định vị trên các hạt phân tử khác. Quá trình này hình thành nên các
tập hợp gồm những bó sợi phân tử, hay các khối hạt vàng.


Maye nói:”Thật sự là giống một bản thiết kế. Chúng ta có thể ngồi xuống với một mảnh
giấy, viết ra một trật tự DNA, và kiểm soát các hạt phân tử kích thước nhỏ nano kết nối
với nhau”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

Brookhaven, các nhà nghiên cứu đã giới thiệu DNA chuỗi kép, có các phân đoạn cứng
rắn chắc; DNA này buộc phải tác động vào các đoạn nối với chúng để dàn trải trên bề
mặt các phân tử vàng, cho phép hiệu quả lắp ráp cao hơn.



Maye nói:“Với các tính chất của DNA, chúng ta có thể tăng động lực học liên kết, hoặc
tốc độ kết nối phân tử, bằng các phương pháp tương đối đơn giản không bao gồm
nhiều bước tổng hợp”.


Tại Nguồn năng lượng Synchrotron quốc gia Brookhaven – “Brookhaven's National
<i>Synchrotron Light Source”, nhóm nghiên cứu đã điều nghiên việc tổng hợp và lắp ráp </i>
các hệ phân tử kích thước nhỏ nano với nhiều phương pháp kỹ thuật, như sử dụng các
tia sáng và eletron, cũng như dùng các tia X cường độ cao. Các nhà khoa học đang
hướng đến việc cải thiện khả năng kiểm soát hệ thống phân tử hơn nữa, và bước kế
tiếp là tập trung vào kích cỡ của khối hạt nano.


Quỳnh Thi dịch


<b>hoahocvietnam.com</b>


<i><b>CÁC TINH THỂ KÍCH THƯỚC NHỎ NANO</b></i>
<i><b> CÓ KHẢ NĂNG NÓNG HƠN</b></i>


<i>Các nhà khoa học ở phịng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley </i>
<i>về năng lượng đã khám phá ra rằng các tinh thể kích thước nhỏ </i>
<i>nano của germanium, được cố định trên thủy tinh silica, đã không </i>
<i>tan chảy cho đến khi nhiệt độ tăng lên gần 2000<sub>K, trên cả nhiệt độ </sub></i>


<i>nóng chảy của khối germanium. Hơn cả sự ngạc nhiên, các tinh thể </i>
<i>kích thước nano này tan chảy ở thể lỏng và được làm nguội ở nhiệt độ hơn 2000<sub>K, nhỏ </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

<i>Giống một “hiện tượng trễ” lan rộng và gần như đối xứng – sự khác nhau giữa nhiệt độ </i>
<i>nóng chảy và nhiệt độ đơng đặc ở trên và dưới điểm nóng chảy của khối germanium – </i>
<i>trước đây các quan sát đối với những hạt phân tử kích thước nhỏ nano này chưa bao </i>


<i>giờ được thực hiện. Để khai thác những tính chất trên có nghĩa là hiểu được sự chuyển </i>
<i>tiếp nóng chảy/đơng đặc của germanium dưới các điều kiện khác nhau. Các nhà nghiên</i>
<i>cứu đã cố định các hạt phân tử nano với đường kính trung bình 2.5 so với đường kính </i>
<i>của silica. Những gì mà các nhà nghiên cứu bắt gặp khi họ gia nhiệt và làm nguội hệ </i>
<i>thống phân tử liên kết này là điều phức tạp không ngờ.</i>


<i>Gần hàng trăm năm qua, những nhà lý luận và những người làm thí nghiệm đã nghiên </i>
<i>cứu làm thế nào mà kích cỡ của một tinh thể ảnh hưởng đến nhiệt độ nóng chảy và </i>
<i>đơng đặc, đến việc chuyển tiếp giữa thể lỏng và thể rắn của một chất. Hầu hết các tinh </i>
<i>thể, kích thước càng nhỏ, nhiệt độ nóng chảy càng thấp. Nhiệt độ nóng chảy của một </i>
<i>tinh thể nano bán dẫn hoặc không chứa tinh thể lỏng, tiêu biểu gồm có vài trăm cho đến</i>
<i>vài ngàn phân tử, có thể hơn 3000<sub>K, thấp hơn nhiệt độ nóng chảy của một khối chất </sub></i>


<i>tương tự. </i>


<i>Joe Ager, ngành vật liệu học (MSD), đồng tác giả của tờ Physical Review Letters, nói </i>
<i>rằng:”Lý do của sự việc này là vật thể rắn càng nhỏ, tỷ lệ phần trăm phân tử của nó tập </i>
<i>trung trên bề mặt càng nhiều. Thực tế, nếu vật thể co lại, thì toàn bộ bề mặt đều co lại”. </i>
<i>Bên trong một tinh thể chất rắn, các phân tử bị nhốt trong mắt lưới của mạng tinh thể, </i>
<i>“nhưng ở bề mặt của những phân tử này vẫn có khoảng trống để di chuyển. Khi nhiệt </i>
<i>độ tăng lên, chúng bắt đầu chuyển động; khi sự rung động trên bề mặt phân tử tỷ lệ với</i>
<i>chiều dài mối liên kết nhất định giữa chúng, sự nóng chảy bắt đầu xảy ra và sau đó lan </i>
<i>truyền qua vật chất rắn. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

<i>nhân tố khác”.</i>


<i>Ở hầu hết các vật liệu, năng lượng ở bề mặt phân chia pha giữa chất rắn và hơi hình </i>
<i>thành một lớp chất lỏng trên bề mặt khi nhiệt độ tăng cao – ví dụ, một thỏi vàng đặt </i>
<i>trong khơng khí, nhiệt độ này nếu tiếp tục tăng cao cho đến khi toàn bộ thỏi vàng nóng </i>
<i>chảy; thì lớp chất lỏng mới xuất hiện trên thỏi vàng sẽ cứng hơn ở nhiệt độ thấp hơn do </i>


<i>tỷ lệ thể tích bề mặt tăng. Eugene Haller ở phịng thí nghiệm Berkeley về vật liệu học </i>
<i>(MSD), cũng là giáo sư về vật liệu học ở Đại Học California ở Berkeley ghi nhận rằng </i>
<i>“nếu làm các hạt tinh thể vàng kích thước nhỏ nano tự do đủ nhỏ, chúng sẽ tan chảy ở </i>
<i>nhiệt độ phòng”.</i>


<i>Tuy nhiên, những tinh thể nano đã được cố định này thường phản ứng khác nhau. </i>
<i>Người ta quan sát các tinh thể nano kết gắn với nhau trong ma trận lưới tinh thể ở nhiệt </i>
<i>độ khá cao, ví dụ những tinh thể nano của chì gắn vào mạng lưới tinh thể của nhôm </i>
<i>aluminum; kết cấu mạng lưới của hai loại tinh thể này “đóng chặt” với nhau, nén các tinh</i>
<i>thể nano trong thủy tinh phải nóng chảy khi bị gia nhiệt cao.</i>


<i>Đó chỉ là sự nhạc nhiên ban đầu. Trong khối vật liệu lớn, năng lượng ở bề mặt phân </i>
<i>chia pha giữa chất rắn và hơi, có sự chuyển tiếp giữa chất rắn thành chất lỏng ở nhiệt </i>
<i>độ nóng chảy, tạo ra một rào chắn ở hướng đối ngược nhau, đây là một rào cản năng </i>
<i>lượng để đóng rắn.</i>


<i>Chrzan nói: “để hình thành bề mặt thì ln ln phải cần một năng lượng, thật ra, trong </i>
<i>một khối vật liệu, có thể làm khối vật liệu đóng rắn chậm hay giữ khối ở dạng rắn ở nhiệt</i>
<i>độ trên điểm nóng chảy/đóng rắn bình thường. Để đóng rắn, vật liệu phải khắc phục rào</i>
<i>cản năng lượng nhẹ để hình thành các hạt nhân phân tử rắn tới hạn.</i>


<i>Trong trường hợp tinh thể nano cố định trên germanium ở thủy tinh, rào cản năng lượng</i>
<i>ở bề mặt phân chia pha cũng dẫn đến sự gia nhiệt cao trước khi tinh thể rắn có thể tan </i>
<i>chảy có nghĩa là khi tan chảy bao gồm phải trải qua q trình chậm đơng trước đóng </i>
<i>rắn.</i>


<i>Quỳnh Thi dịch</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

<b>KÍNH MÁT THƠNG MINH</b>



Dành cho các hoạt động ngồi trời thì một cặp kính mát là rất cần
thiết. Vậy sẽ như thế nào nếu bạn có thể thay đổi màu của kính
mát bất cứ lúc nào bạn thích? Nếu hơm qua, cặp kính là màu xanh
dương, hơm nay có thể đổi sang màu xanh lá cây và ngày mai
bạn có thể đổi sang màu đỏ. Nếu quá chói mắt, bạn có thể thêm
mực màu tối vào kính. Nếu khơng đủ sáng, mực nhuộm kính có
thể được bớt lại hay thậm chí có thể được bỏ đi để cặp kính trở lại
trong suốt. Không cần thiết trạng thái là như thế nào, nó khơng thú vị sao khi bạn có thể
chọn màu sắc cho cặp kính của mình một cách nhanh chóng?


Giờ đây, với kết quả nghiên cứu của nhà hóa học về polymer Chunye Xu và đồng sự
của cơ tại đại học Washington, một mẫu kính mát đã chứng tỏ những chức năng thay
đổi màu sắc và độ mờ trên. Nguyên mẫu đã được giới thiệu tại hội nghị của Hội Hóa
Học Hoa Kỳ ở Chicago vào tháng 3 năm 2007.


Nguyên liệu vận hành được dùng trong nguyên mẫu là một polymer electrochromic tồn
tại ở trạng thái trong suốt hoặc có màu tùy thuộc vào trạng thái oxy hóa khử của nó.
Thiết kế của cặp kính mang đến thuận lợi cho việc điều khiển mức độ thay đổi màu tạo
hiệu ứng sáng tối cho cặp kính. Màu kính hiện tại (xanh dương, đỏ, xanh lá cây) tùy
thuộc vào polymer cụ thể được sử dụng và bây giờ cặp kính chỉ dùng một loại polymer
(xanh dương) đang được nghiên cứu. Trong tương lai, nghiên cứu sẽ kết hợp nhiều loại
polymer để tạo ra tùy chọn về việc thay đổi màu sắc, Xu phát biểu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

Lớp gel bên trong cho phép sự di chuyển thuận nghịch của các ion chuyển giữa lớp
vanadium oxide và lớp electrochromic polymer. Một pin đồng hồ cung cấp điện năng
cho hệ thống làm cho các ion chuyển theo một hướng và ngược lại. Dựa trên chiều của
điện thế, các ion chuyển động tạo ra hoặc sự oxy hóa hoặc sự khử của electrochromic
polymer. Bị oxy hóa, polymer trở thành trong suốt, còn khi bị khử, polymer chuyển sang
màu xanh dương. Độ đậm nhạt của màu sắc có thể được điều khiển bằng cường độ
điện thế được cung cấp.



Xu nhấn mạnh rằng mẫu kính của cơ khác biệt đáng kể với những kính đổi màu có trên
thị trường hiện nay. Một khác biệt rõ ràng là những cặp kình đổi màu chuyển đổi một
cách thụ động dựa vào tia cực tím và khơng thể điều chỉnh bằng tay. "Những cặp kính
của chúng tơi hồn tồn chủ động, khơng bị động", Xu nói. "Chúng chủ động trong việc
được điều khiển bởi người sử dụng".


Xu cũng cho rằng thời gian cần thiết để những electrochromic polymer chuyển đổi màu
sắc là cực nhanh với chỉ khoảng 1 đến 2 giây. Những vật liệu vô cơ dùng trong kính mát
hiện nay đổi màu chậm hơn rất nhiều.


Thuận lợi cuối cùng, theo Xu, là hệ thống electrochromic polymer đòi hỏi năng lượng chỉ
trong khoảng thời gian rất ngắn khi người dùng muốn đổi màu kính. Thêm vào đó, năng
lượng cần đến rất thấp, do đó chỉ một cục pin đồng hồ có thể cung cấp năng lượng cho
cả ngàn lần đổi màu của kính.


Trong khi chờ được cấp bằng sáng chế, nhóm đang hướng đến việc đưa ra thị trường
cơng trình này trong một hay hai năm tới.


Uyên Chi soạn dịch
Theo ACS


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

<b>Một hợp kim mới có thể làm tăng nhiệt độ của động cơ </b>


Những nhà khoa học về đo lường tại Phịng Thí nghiệm
Vật lý Quốc gia Anh Quốc vừa làm giảm sự thiếu chính
xác trong bộ phận cảm biến nhiệt điện ở các mức nhiệt
cao. Điều này cho phép nhà máy sản xuất có thể cải thiện
được hiệu suất, làm giảm sự lãng phí trong khi hoạt động
của các loại động cơ và làm giảm sự toả nhiệt của tên


lửa.


Ở động cơ tên lửa, khi nhiệt độ càng lên cao thì hiệu năng làm việc của nó cao hơn.
Nhưng điều này yêu cầu động cơ nhiệt phải đạt đến hơn 1300 độ C. Nếu nhiệt độ chênh
lệch quá nhiều so với nhiệt độ tiêu chuẩn, động cơ rất có thể sẽ khơng hoạt động.


Vật liệu của máy cảm biến được sử dụng sẽ chảy ra ở một nhiệt độ nóng chảy nào đó
( nhiệt độ chuẩn - cố định), nhưng thực tế vật liệu chỉ cho phép một vùng nhiệt độ nào
đó, bắt buộc động cơ nhiệt phải có vùng dao động nhiệt thấp hơn so với nhiệt độ chuẩn.


Sử dụng một loại hợp kim mới, các nhà khoa học của Phịng Thí Nghiệm Vật Lí đã phát
hiện ra một vùng nhiệt độ chuẩn cho phép bộ phận cảm biến vượt qua ngưỡng 1100 độ
C. Với sự đóng góp rất đáng tin tưởng này vào bộ phận cảm biến nhiệt độ, những nhà
sản xuất được mong chờ để bắt đầu cải tiến động cơ làm nóng và giảm sự lãng phí
trong suốt q trình hoạt động của động cơ ở nhiệt độ cao.


Dương Lưu soạn dịch


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

<b>Từ túi nhựa tới tà vẹt đường sắt </b>


Theo lời của Patrick Walter viết trong tạp chí "Chemistry & Industry" của SCI, tà vẹt
đường sắt được làm từ chất dẻo


phế liệu, kể cả những mảnh vụn của miếng chắn ơtơ và
thùng máy vi tính tái sinh, có thể sắp được tìm thấy trên
các tuyến đường sắt tại vương quốc Anh.


Công ty Micron của Anh đã sản xuất tà vẹt từ phế liệu
polystyrene và polyethylene. Họ đã tiếp cận với Network
Rail, nhà điều hành các tuyến đường sắt Anh quốc cho


việc thiết lập quan hệ đối tác. Polystyrene thường được dùng làm các tách cafe dùng
một lần rồi bỏ, còn polyethylene thường có trong các màn treo và túi xách. Các thanh tà
vẹt làm từ các vật dụng này nên sở hữu được độ bền có khả năng hàng thế kỷ. Điều
nay so sánh với độ bền chỉ vài chục năm nếu làm từ gỗ hoặc bê tông.


Chất liệu gỗ và bê tơng có những bất lợi. Tà vẹt làm từ bê tông nặng và dễ nứt vỡ, cũng
như tà vẹt làm từ gỗ thì địi hỏi phải được bảo trì và xử lý hóa chất để chống mục rữa.
Những kiểm tra về các thông số kỹ thuật cho thấy tà vẹt làm từ chất dẻo cũng khơng
thua kém làm từ bê tơng. Vì thế, tà vẹt làm từ chất dẻo có đủ khả năng thay thế cho các
vật liệu khác. Chi phí cho việc bảo trì đường sắt và hệ thống tàu điện ngầm do đó cũng
giảm, giúp Network Rail đạt tới mục tiêu sử dụng 23% vật liệu tái sinh vào năm 2012. Tà
vẹt mới đã được kiểm tra và ứng dụng tại bang India, nơi có dự án sản xuất của Micron.
Khánh Vân


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109>

<b>TẢO CÁT ĐƯỢC CHUYỂN THÀNH PHẦN TỬ SILIC CẢM BIẾN</b>


Trong vỏ Trái Đất tồn tại lượng lớn silic dưới dạng
khoáng silicate, nhưng để chiết lọc được địi hỏi những
điều kiện vơ


cùng nghiêm ngặt. Điều đó hiện nay đã thay đổi, đó là
nhờ cơng trình tiên phong của Ken Sandhage và đội ngũ
các nhà khoa học vật liệu của mình tại Học Viện Công nghệ Georgia của Atlanta ở Mỹ.
Họ đã tìm ra một phương pháp đơn giản biến đổi vỏ tảo cát- là bộ khung dựa trên oxyt
silic phức tạp của một loại đơn bào quang hợp phổ biến gọi là tảo cát thành các cấu
trúc silic tinh khiết với rất nhiều ứng dụng.


Việc tách rời các nguyên tử silic và oxy cần nhiệt độ cao của lò điện hồ quang lõi than,
và số lượng lớn gỗ, than củi hay than đá. Tại nhiệt độ khoảng 2000o<sub>C, carbon ở nhiệt </sub>



độ cao khử các hợp chất silic thành silic lỏng, khi làm lạnh sẽ thu được silic tinh khiết
98%. Nếu được tinh chế thêm có thể cung cấp silic siêu tinh khiết cho ngành công
nghiệp điện.


Nhưng ở nhiệt độ khoảng 650o<sub>C, Sandhage và nhóm của ông nhận thấy rằng hơi Magiê</sub>


có thể khử lớp vỏ thủy tinh phức tạp của tảo cát đã chết thành hỗn hợp Oxyt silic và
Oxyt magiê. Sau đó tan ra trong Axit clohydric, cịn lại silic tinh khiết có cấu trúc nano
mà cấu trúc này có hình dạng đường vân rất đẹp là bản sao chính xác của vỏ tảo cát
ban đầu.


<b>Nó là một chất khí</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110>

Cho cấu trúc tiếp xúc với dịng khí của khí mang Argon có chứa Oxyt nitơ (NO) với dịng
khí thổi qua cấu trúc vỏ giảm đi rõ rệt. Phần tử cảm biến có thể phát hiện ra dễ dàng
những thay đổi nồng độ của NO nhỏ chỉ đến vài phần triệu, thời gian phản ứng lại và hồi
phục của phần tử cảm biến cũng nhanh hơn nhiều so với các cảm biến tương đương


được chế tạo từ các bánh silic xốp thường
có các lỗ xốp phẳng.


Một bản sao silic của bộ khung tảo cát còn
lại sau khi rửa sạch Oxyt magiê.


Nhóm Atlanta cịn tìm thấy rằng vỏ tảo silic
phát quang mạnh dưới tia sáng cực tím nếu
trước đó nó được oxy hóa một phần do
ngâm trong nước trong 40 ngày. Việc này
đặt nền tảng cho các phần tử cảm biến khí khác vì sự phát quang từ tinh thể silic nano
rỗng bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của một lượng rất nhỏ các khí: nó giảm đi khi găp


mêtan, và tăng lên với carbon monoxide.


Nhóm làm việc gợi ý rằng vỏ tảo silic cũng có thể sử dụng trong pin. Diện tích bề mặt
lớn, thành mỏng, và lỗ bề mặt dễ tiếp cận làm cho vỏ tảo silic 3 chiều có tốc độ truyền
dẫn ion Liti cao và mật độ năng lượng đáng kể; biến nó thành vật liệu làm điện cực lý
tưởng trong pin Liti, Sandhage nói.


Cuối cùng, vỏ tảo silic cũng có thể nâng cao hiệu quả của phương pháp sắc ký lỏng
hiệu suất cao (HPLC) trong viêc tách và tinh chế phân tử sinh học. “Những lỗ rỗng
thông nhau và độ bền hóa học của chúng cho phép cột áp suất HPLC thấp hơn hay cao
hơn để đạt thời gian tách nhanh nhất”, Sandhage nói.


Minh Giang


</div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111>

<b>Nghiên cứu tính siêu dẫn, tính từ trong vật liệu mới</b>


Giáo sư vật lý trường Đại học Arkansas và những đồng nghiệp của ông đã tạo ra cấu
trúc nano bao gồm đồng thời cả tính từ và tính siêu dẫn, và trong mùa hè năm nay ở
Thụy Sĩ họ sẽ cùng nhau khám phá ra những đặc tính của vật liệu mới này.


Jacques Chakhalian và cộng sự tại Viện Max Planck - Đức, Đại học Grenoble và Trung
tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia (cả 2 đều ở Pháp), đã được tưởng thưởng cho thời
gian nghiên cứu và được ủng hộ tài chính trong hơn 2 năm sắp tới từ nguồn năng
lượng Thụy Sĩ SLS thuộc Viện Paul Scherrer – nguồn cung cấp synchrotron tiên tiến
nhất thế giới. Năm 2006, họ công bố trên báo Vật lý tự nhiên chứng minh những tính
chất mới ở bề mặt chung phân chia pha giữa vật liệu siêu dẫn, được biết dưới tên
YBCO và sắt từ, LCMO. Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy tác động lẫn nhau giữa
tính sắt từ và tính siêu dẫn, điều mà chưa từng được báo cáo trước đây.


Chakhalian đã nói rằng: “Điển hình, tính sắt từ phá hủy tính siêu dẫn”. Bằng những


phương pháp kĩ thuật của nhóm đã cho phép các nhà khoa học kết hợp 2 tính chất đó
trong 1 lưới film siêu mỏng, mở ra một lĩnh vực vật lý mới và dẫn đường cho việc khám
phá ra nhiều vật liệu với những tính chất mới hơn.


Để tạo tấm lưới này, các nhà khoa học đã lấy những bảng vật liệu này đã phủ một lớp
bột và sử dụng tia cực tím mạnh làm hóa hơi những tinh thể và lắng đọng chúng thành
tấm đa tầng, tức tấm fim siêu mỏng trên chất nền. Bằng cách này họ có thể tạo ra 1
tầng nguyên tử cùng thời gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112>

synchrotron tại nguồn năng lượng Thụy Sĩ SLS.


Ánh sáng synchrotron là bức xạ điện từ của nhiều loại bước sóng có thể chỉnh thành 1
loại bước sóng đặc biệt để làm thí nghiệm đặc biệt. Quang phổ của nguồn sáng SLS
biến đổi từ ánh sáng hồng ngoại thành những tia X nhẹ hoặc nặng. Không giống như
những tia X thông thường, chúng khuếch tán vào không gian, những chùm ánh sáng
synchrotron được tập trung sắc nét như chùm tia laser. Điều này cho phép Chakhalian
và đồng nghiệp nghiên cứu tính từ và tính siêu dẫn tại bề mặt của vật liệu nano này.


“Thách thức chính về kĩ thuật là tập trung chùm photon năng lượng thấp thành một vết
cỡ vài trăm micron” - Chakhalain nói vậy. Trên thế giới chỉ 1 vài nơi có phương tiện như
SLS mới có đủ kĩ thuật để tạo ra tia X “nhẹ” cần thiết để phân tích tính điện tử của vật
liệu siêu dẫn và vật liệu có tính sắt từ.


Quang Trường
(Theo Sciencedaily)
hoahocvietnam.com


<b>NHỮNG SỰ KIỆN ĐÁNG NHỚ NHẤT TRONG LỊCH SỬ NGÀNH VẬT LIỆU </b>
<b>HỌC</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113>

nhất, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành vật liệu.


Bảng đề cử này đã được công bố trong số báo tháng 10/2006 và đưa lên mạng theo địa
chỉ www.materialmoments.org, từ đó đến 5/1/2007 mọi người có thể bỏ phiếu cho sự
kiện mà mình xem là quan trọng nhất. Từ top 10 sự kiện nổi bật nhất, hội đồng tổ chức
sẽ chọn ra 1 sự kiện duy nhất được coi là quan trọng hàng đầu trong lịch sử phát triển
của ngành khoa học vật liệu và sẽ công bố vào ngày 26/2/2007.


Hố học Việt Nam xin trích lượt cùng bạn đọc top10 sự kiện được bình chọn nhiều nhất,
trong đó sự kiện đầu tiên cũng chính là sự kiện tiêu biểu cho ngành vật liệu nói riêng và
của ngành hóa học nói chung.


Năm 1864 nhà hoá học người Nga Dmitri Mendeleev đã xây dựng nên bảng hệ thống tuần
hoàn các nguyên tố hố học. Là kim chỉ nam vơ giá cho ngành vật liệu và các ngành khoa
học khác.


Năm 3500 trước công nguyên người Ai cập đã nung luyện được sắt (dưới dạng sản phẩm
phụ của việc tinh chế đồng) và sử dụng để làm đồ trang sức. Khám phá ra bí mật đầu tiên
của nền văn minh đồ sắt.


Năm 1948 JohnBardeen, WalterH. Brattain, vàWilliamShockley đã phát minh ra thiết bị bán
dẫn, là thành tựu vượt bậc của ngành điện tử, microchip và ngành công nghệ máy tính.
Năm 2200 trước cơng ngun, người dân ở vùng tây bắc Iran đã chế tạo ra thuỷ tinh. Đây
là vật liệu không phải kim loại thứ 2 (sau gốm sứ) của nền văn minh nhân loại.


Năm 1668, Anton van Leeuwenhoek đã phát triển việc dùng kính hiển vi có khả năng phóng
đại lên 200 lần và lớn hơn nữa, mở ra kỷ nguyên nghiên cứu thế giới tự nhiên cũng như
cấu trúc của nó mà mắt thường khơng nhìn thấy được.


Năm 1755 John Smeaton phát minh ra xi măng là vật liệu xây dựng trong thời hiện đại.


Năm 300 trước công nguyên các nhà luyện kim miền nam Ấn Độ nghĩ ra phương pháp
luyện thép trong lò luyện chơn trong lịng đất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

1856 Henry Bessemer nhận bằng sáng chế cho quá trình thổi acid sản xuất thép ít cacbon,
mở ra một kỷ nguyên sản xuất thép rẻ số lượng lớn, pháp triển nhanh giao thơng, xây dựng
và ngành cơng nghiệp hố nói chung.


Genabom


(Theo materialmoments.org)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Vật liệu hợp kim cho ngành cơng nghiệp hóa chất</b>


Các hợp kim đoạt giải R&D 100 có thể làm giảm giá thành cho
cơng nghiệp hóa chất và dầu khí. Các nhà khoa học ở Phịng
Thí Nghiệm thuộc Bộ Năng Lượng Quốc Gia Argonne ở Mỹ đã
phát triển thành cơng các ngun vật liệu có thể tiết kiệm một
lượng lớn năng lượng và chi phí tiền bạc trong ngành cơng nghiệp hóa chất và dầu khí.
Các hợp kim mới – đoạt giải nghiên cứu và phát triển R&D 100 của tạp chí R&D là một
trong 100 phát minh khoa học kỹ thuật hàng đầu trên thế giới trong năm 2005 – không
gây ra bụi kim loại, phân hủy xảy ra ở nhiệt độ cao trong môi trường chứa hydrocarbon
với mức độ hoạt hóa của carbon là rất cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(115)</span><div class='page_container' data-page=115>

<i>So sánh hợp kim Argonne sau khi đặt trong </i>
<i>môi trường chứa bụi kim loại trong 5.700 giờ </i>
<i>ở 5930<sub>C (bên phải) và hợp kim thương mại </sub></i>


<i>(bên trái).</i>



Ken Natesan, một nhà nghiên cứu thuộc
Phịng Thí Nghiệm Argonne, đã nói:”Hơn 50
năm nghiên cứu khơng thể giải quyết vấn đề
này. Chỉ có một giải pháp duy nhất hiện sử dụng là làm nguội khí gas nhiệt độ cao bằng
cách hạ thấp nhiệt độ đang vận hành, kết quả là khiến thất thoát năng lượng và giảm
sản lượng sản phẩm. Trong một cuộc nghiên cứu kéo dài mấy năm, Natesan và một
nhà nghiên cứu khác cũng thuộc Argonne là Zuotao Zeng đã chứng minh tính chất lắng
đọng carbon trong thiết bị dẫn đến việc khởi đầu và lan truyền bụi kim loại. Điều này
được điều khiển ở cả áp suất khí quyển và áp suất cao và tương tự ngành khí đốt gas –
bao gồm lượng khí nóng cao – thường thấy trong các môi trường sản xuất dùng


phương pháp cracking dầu mỏ.


Do đó cần phát triển các hợp kim khi phân hủy không gây ra bụi kim loại và có thể dùng
chế tạo thiết bị cho ngành cơng nghiệp hóa chất và dầu khí. Các hợp kim của Phịng Thí
Nghiệm Argonne có ý nghĩa hơn các hợp kim thương mại hiện đang lưu hành trên thị
trường khi kiểm tra trong môi trường chứa bụi kim loại, hợp kim Argonne phát triển các
lớp oxide chống lại sự tấn cơng của carbon. Ví dụ, một hợp kim của Argonne sau khi đặt
trong môi trường chứa bụi kim loại trong 5.700 giờ ở 5930<sub>C vẫn trơn nhẵn không lõm lỗ </sub>


chỗ. Các hợp kim thương mại cũng được kiểm tra trong điều kiện môi trường tương tự
đã xuất hiện lỗ chỗ các lõm lớn.


Trong tương lai, các hợp kim của Argonne có thể ứng dụng tái thiết kế những hệ thống
sản xuất tiên tiến cho năng suất cao. Sử dụng các vật liệu này xây dựng thiết bị cho
ngành cơng nghiệp hóa chất và dầu khí có thể tiết kiệm 500 tỉ Jun năng lượng mỗi ngày,
tương đương 13 triệu m3<sub> theo tiêu chuẩn khí thiên nhiên mỗi ngày.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(116)</span><div class='page_container' data-page=116>

chữa bảo trì. Tiết kiệm này sẽ ngày càng quan trọng hơn khi hydrogen được sử dụng
nhiều hơn như một nguồn cung cấp năng lượng.



Trong khi các hợp kim Argonne được ứng dụng đầu tiên trong các nhà máy sản xuất
hydrogen và khí gas tổng hợp, thì cũng có thể dùng trong các cấu tạo như thiết bị gia
nhiệt thừa và các đường ống hơi đốt phụ tiếp xúc trong môi trường bụi kim loại trong
các nhà máy cracking dầu mỏ tổng hợp methanol và ammonia. Các hợp kim Argonne
cũng có thể sử dụng hiệu quả trong các nhà máy khí hóa lỏng mà trong đó khí gas thiên
nhiên chuyển thành nhiên liệu lỏng.


Chương trình Kỹ thuật Cơng nghệ của Văn Phịng Hiệu ứng Năng lượng và Phục hồi
Năng lượng thuộc Bộ Năng Lượng đã gây quỹ cho cuộc nghiên cứu này.


Quỳnh Thi (theo Argonne National Laboratory)


<b>CHẤT ĐỘC HĨA HỌC CĨ MÙI GÌ?</b>


Có thể bạn nghĩ rằng chất độc hóa học giống như chất
khí màu lục nhạt, có mùi hắc, khó chịu. Bạn có ngạc
nhiên khi


biết rằng hầu hết các hóa chất đặc hiệu đều không màu
và không mùi không? Nhiều chất có mùi đặc sắc, nhưng
một số thực ra có mùi thơm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(117)</span><div class='page_container' data-page=117>

- Sulfur Mustard, kể cả khí mustard: thường thường khơng mùi và khơng màu ở dạng
tinh khiết nhưng có màu nâu-vàng nhạt với mùi gợi nhớ của mustard, tỏi, hoặc củ cải
hăng khi dùng trong chiến tranh.


- Khí chlorine: khí màu xám lục nhạt với mùi nghẹt thở, khó chịu, tương tự như thuốc
tẩy chlorine.



- 3-quinuclidinyl benzilate (QNB hoặc NATO BZ hoặc Iraqi 15): chất đặc hiệu không mùi
gây mất năng lực.


- Lewisite: chất gây phồng rộp, bốc mùi mạnh hoa móng rồng.


- Phosgene oxime: chất gây phồng rộp bốc mùi kích thích, dù một phần nào đó có mùi
cỏ khơ đã cắt hoặc ngơ xanh đã hái.


- Sarin: chất tác động lên thần kinh, khơng mùi, cực độc.


- VX: có lẽ là chất tác động lên thần kinh có mùi giống như Vicks VapoRyb hoặc trái cây
hư thối.


- Tabun: chất tác động lên thần kinh rất độc, thoảng mùi trái cây dù không mùi khi tinh
khiết.


- Zyklon B: chất tác động vào máu chứ hydrogen cyanide, nổi tiếng trong việc sử dụng
ở các trại tử thần Nazi, có mùi hạnh nhân đắng.


- Hydrogen Sulfide: chất tác động vào máu có mùi trứng thối.


- Adamsite hoặc DM: chất kiểm sốt bạo động, khơng mùi gây nơn mửa và hắt hơi.
- Khí SC: hơi cay, khơng mùi.


Thành Viên soạn dịch
Theo Chemistry About
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Nói về Bản sửa đổi bổ sung Feistein SP 419 của</b>
<b>Hoa Kỳ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(118)</span><div class='page_container' data-page=118>

chi tiêu hệ thống phòng thủ nhằm ngăn cấm sự phát tán việc chỉ dẫn các phương pháp
chế tạo bom ở Liên bang. Hình phạt cho sự vi phạm luật này là số tiền phạt 250.000
USD hoặc một án tù tối đa 20 năm. Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein (D-California) là
người bảo hộ bản dự thảo.


Vào tháng 4 năm 1997, Bộ tư pháp Hoa Kỳ đã cơng bố một nghiên cứu tiết lộ có sự liên
quan giữa việc lợi dụng hướng dẫn phương pháp chế tạo bom và việc sản xuất bom.
Mặc dù việc ngăn cấm sự phát tán các hướng dẫn phương pháp chế tạo bom có thể
được xem là một vi phạm của bản sửa đổi bổ sung đầu tiên, Bộ tư pháp Hoa Kỳ đã
quyết định rằng sự phát tán quá nhiều tài liệu trên gây cản trở cho công lý và không
phải là quyền tự do ngơn luận. Vì vậy, bản sửa đổi bổ sung Feistein chỉ ngăn ngừa sự
phát tán của tài liệu một cách chủ ý đã ban hành đối với “một sự tấn cơng liên ban hoặc
vụ việc khác có mục đích phạm tội ảnh hưởng đến liên tiểu bang”.


Điều khoản “mục đích phạm tội” là cực kì quan trọng, điều này có nghĩa là bạn có thể
tìm thấy thông tin trên các kế hoạch gây nổ được dự định trong các mục đích giải trí (ví
dụ như pháo bơng và họa tiễn) và bạn vẫn có thể học các khái niệm cơ bản của hóa
học, kể cả những thơng tin cần thiết về thuốc nổ. Nó cũng bảo vệ các hướng dẫn viên
được thuê dạy về chế tạo bom với mục đích sáng chế các phương tiện, giải pháp về
bom và bảo vệ toàn thể nhân viên quốc phòng và dân sự.


Uyên Chi soạn dịch
Theo Chemistry About
<b>hoahocvietnam.com </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(119)</span><div class='page_container' data-page=119>

Trong 10 năm (1961-1971), trải dài trên các tỉnh của miền Nam Việt Nam, từ vĩ tuyến 17
trở vào, quân đội Mỹ đã sử dụng 72 triệu lít chất độc hóa học diệt cây, trong đó đáng
chú ý là trên 40 triệu lít chất độc màu da cam có chứa Đioxin–chất hóa học độc nhất và
bền vững nhất mà con người tìm ra.



Chất độc diệt cây (antiplant) là những chất độc hóa học thường được sử dụng dưới
dạng bột, keo, dung dịch và được phun rải bằng các phương tiện trên không hoặc trên
bộ…để phá hoại mùa màng hoặc các thảm thực vật, nhiều loại chất độc còn gây tổn
thương cho con người và động vật.


Chất độc diệt cây được quân đội Mỹ sử dụng vào mục đích chiến tranh từ năm 1940 và
tìm ra trên 1000 chất phá hoại hoa màu và trên 12000 chất làm rụng lá. Trong những
năm 1952-1954, lần đầu tiên quân Anh sử dụng chất độc hóa học diệt cây vào mục đích
quân sự ở Malaysia. Từ năm 1961 Mỹ tiến hành chiến tranh hóa học ở Việt Nam với
quy mô lớn nhất, Mỹ đã sử dụng 72 triệu lít trên chiến trường đủ 17 loại chất độc diệt
cây chủ yếu là chất độc da cam, chất trắng, chất xanh, chất hồng, chất đỏ tía…Chúng
được gọi với cái tên như thế là theo màu của các vệt sơn quanh các thùng chứa nhưng
khi phun dải đều có màu trắng. Vậy mức độ của từng chất ấy ra sao? Tại sao chúng chỉ
quen gọi là chất độc màu da cam?


<i><b>Chất trắng </b></i>(White), một chất diệt cây có tác dụng làm khơ kiệt đất đai, diệt cỏ và có khả
năng tồn tại lâu trong đất. Kết quả thí nghiệm của trường Đại học Yale (Mỹ) cho thấy:
sau 467 ngày hàm lượng chất trắng còn lại trong đất là 80-96,6%. Chất trắng được sử
dụng thí nghiệm ở Nam Việt Nam từ năm 1967 và có hiệu quả hơn so với chất đỏ tía
(Purle) và da cam (Orange), sau đó được sử dụng với quy mô lớn để triệt hại rừng già ở
dạng dung dịch nước, nồng độ 25%; gây hại cho nhiều loài thực vật thân gỗ mạnh hơn
chất da cam và chỉ phun một lần là đủ triệt phá rừng. Do khả năng tích tụ trong các lớp
đất sâu, nên có thể diệt cả những cây có rễ ăn sâu, liều lượng sử dụng 15-16kg/ha.
Khối lượng chất trắng đã sử dụng ở Việt Nam khoảng 20 triệu lít, chiếm khoảng 28%
chất độc hóa học diệt cây đã sử dụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(120)</span><div class='page_container' data-page=120>

nhiều lần với liều lượng 8kg/ha. Đối với cây lúa nước, chất xanh gây ảnh hưởng xấu
đến q trình tạo hạt, cây vẫn có vẻ phát triển bình thường, liều lượng để sử dụng diệt
cây lúa nước từ 3-4kg/ha. Chất xanh được sử dụng từ năm 1967 đến khi Sài Gịn được


giải phóng tháng 4-1975. Khối lượng đã sử dụng là 8 triệu lít.


<i><b>Chất hồng</b> (Pink), chất diệt cây loại lá rộng. Liều lượng sử dụng làm rụng lá </i>


18-36kg/ha, diệt cây lá rộng 12kg/ha, diệt cây lúa nước từ 30-60kg/ha. Chất hồng được sử
dụng rộng rãi trong những năm đầu của cuộc chiến tranh hóa học–chiến dịch Ranch
Hand do quân đội Mỹ tiến hành ở Nam Việt Nam. Khối lượng đã sử dụng là khoảng
454898 kg.


<i><b>Chất đỏ tía</b></i> (Purple), chất độc diệt cây thường được quân đội Mỹ dùng vào việc khai
quang, làm trụi lá cây dọc theo các tuyến đường vận tải thủy bộ quan trọng, ngăn chặn
hoạt động vận tải hay trú quân. Loại cây sú vẹt, đước rất nhạy cảm với chất đỏ tía, lá
rụng hoàn toàn sau một tuần bị phun dải, thường dùng với liều lượng 28 lít/ha. Chất đỏ
tía được quân đội Mỹ sử dụng những năm đầu của cuộc chiến tranh hóa học với


645.000 lít.


<i><b>Chất da cam</b></i> (Orange), là chất độc diệt cây có độc tính cao, và được sử dụng nhiều
nhất ở Việt Nam, ở dạng lỏng sánh như dầu, màu nâu thẫm, không tan trong nước, tan
trong diesel và mỡ, dễ xâm nhập vào màng tế bào của lá, đặc biệt là loài cây lá kép.
Chất da cam tương tác với hệ men của cây, ức chế quá trình quang hợp, làm ngừng trệ
hình thành chất diệp lục làm rối loạn điều tiết sinh trưởng, gây xoắn lá, xoắn cành rễ,
nứt vỏ thân cành. Úa đỏ, khô cành lá, quả cây ngừng lớn và chết. Chất da cam chia làm
ba loại như sau: da cam I, da cam II, và siêu da cam (hỗn hợp của hai chất da cam II và
chất trắng).


</div>
<span class='text_page_counter'>(121)</span><div class='page_container' data-page=121>

lần quy định dùng trong nông nghiệp làm chất diệt cỏ. Dioxin gây nhiễm độc qua đường
hơ hấp, tiêu hóa với các triệu chứng: da và niêm mạc mắt bị kích thích, nhức đầu, nơn
mửa, tổn thương gan, phổi, hệ tim mạch, cơ thể suy nhược; biến loạn thể nhiễm sắc,
tăng ung thư gan, nguyên phát và dị tật ở con cái, sẩy thai…Hiện nay, chính phủ Mỹ,


Hàn Quốc đã xác định hơn 10 loại bệnh cụ thể liên quan đến Dioxin.


Vào đầu thập niên 1960, Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và bị tổn thất
nặng nề vào năm 1961. Cố vấn quân sự Mỹ đã đề xuất sáng kiến dùng chất độc hóa
học diệt cây khai quang quanh những nơi có du kích. Bất chấp phản đối của một số
nghị sĩ, tháng 11-1961, Tổng thống John F. Kennedy ra quyết định sử dụng chất độc
diệt cây để phá dải thực vật ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc. Đến năm 1962,
chương trình rải chất độc diệt cây được triển khai trên quy mô lớn, ở nhiều vùng thuộc
các tỉnh từ vĩ tuyến 17 trở vào và mở rộng sang cả Đông Dương.


Thực hiện “Chiến tranh cục bộ”, từ sau năm 1965, cuộc chiến tranh hóa học cũng leo
thang. Chất độc hóa học mới, phạm vi ngày càng rộng, cường độ ngày một tăng. Các
cựu chiến binh Mỹ kể lại, một số máy bay C-123 hai động cơ để rải chất độc hóa học
chiếm một khoảng diện tích lớn trong sân bay Tân Sơn Nhất. Thông thường mỗi tốp
máy bay đi rải có hai chiếc, khi cần thiết có thêm chiếc F-4 đi yểm trợ. Máy bay chở chất
độc trong các thùng trên 4000 lít phun rải ở độ cao 40m. Một thiết bị bơm có áp lực lớn
sẽ đẩy chất độc xuống qua những chiếc vòi hai bên cánh với lưu lượng 1.050 lit/giờ.
Thời gian phun chất độc hết khoảng 3,5 phút diện tích khoảng 140 ha/vụ.


Theo công bố của Viện khoa học quốc gia và cục quân sự Mỹ, tổng số vụ rải chất độc
của Mỹ là 8.532 vụ. Có 10 vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là: Phước Long (704 vụ), Thừa
Thiên (606 vụ), Bình Định (558 vụ), Long Khánh (502 vụ), Tây Ninh (473 vụ), Quảng
Nam (373 vụ), Biên Hòa (366 vụ), Bình Dương (357 vụ), Kon Tum (311 vụ). 10 vùng
này chiếm tới 47% lượng chất độc mà quân Mỹ đã phun trên toàn miền Nam. Một số
lưu vực sông vùng Đông Nam bộ, sông Hương, sông Thạch Hãn…Vì thế, người dân ăn
phải các lồi cá trên sông bị nhiễm Dioxin đã gián tiếp bị nhiễm độc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(122)</span><div class='page_container' data-page=122>

cam có chứa dioxin. Kết quả, hơn 2 triệu người Việt Nam bị nhiễm chất độc, 3.340.000
ha đất bị hủy diệt, 44% đất canh tác hoang hóa. Những khảo sát của các nhà khoa học
20 năm sau chiến tranh cho thấy vẫn còn 22% rừng tự nhiên và 31% đất trồng thuộc


vùng bị nhiễm chất độc hóa học


Với trên 40 triệu lít chất da cam mà Mỹ đã sử dụng, trên toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt
Nam đã tồn lưu một lượng chất độc đioxin kỷ lục trong lịch sử chiến tranh hóa học thế
giới: 170-600kg dioxin. Trong quá trình tồn dư trong đất dưới tác dụng của điều kiện
thời tiết dioxin dịch chuyển đến các khu vực xa hơn-vùng thấp trũng tiếp tục tồn tại ở đó.
Hậu quả của chất độc hóa học–mà chủ yếu do chất da cam có chứa dioxin–do Mỹ tiến
hành cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam không chỉ cho tác động trực tiếp, phải tính
đến ảnh hưởng lâu dài đến mơi trường sinh thái và những di chứng cho các thế hệ nạn
nhân chất độc da cam, số nạn nhân ngày một tăng theo thời gian.


Báo cáo của hội thảo quốc tế lần thứ 2 (11-1993) về tác hại của chất diệt cỏ Mỹ dùng
trong chiến tranh Việt Nam cho thấy: rừng nội địa bị phá vỡ cấu trúc, chức năng bị đảo
lộn. Chỉ tính riêng rừng ngập mặn và ứng phèn, có đến 240.000 ha bị phá hủy. Đặc biệt
là rừng Sác (Cần Giờ,thành phố Hồ Chí Minh) gần như bị phá trụi khơng cịn cả giống
trồng. Phải cần 100 năm mới khôi phục lại hệ sinh thái ở đây. Chiến tranh hóa học làm
cho tài nguyên lâm sản bị cạn kiệt, tính ra có tới 75 triệu m3<sub> gỗ bị đốt cháy thành than. </sub>


Sau chiến tranh, ở miền Nam chỉ còn 29,2% rừng dưới mức an tồn sinh thái, khơng đủ
chức năng bảo vệ môi trường, hạn chế tác hại của thiên tai, như chống xói mịn, hạn
hán, lũ lụt…


Đối với dân thường, qua phân tích mơ mỡ những người sống trong vùng bị nhiễm độc ở
miền Nam Việt Nam, nồng độ dioxin cao hơn so với người thường là 3-4 lần. Do đó, nó
là nguyên nhân làm xáo trộn về di truyền như quái thai, ung thư, chết yểu…Thực tế sau
chiến tranh, tại những vùng bị nhiễm chất độc dioxin, tỉ lệ sinh con quái thai cao gấp 10
lần, sinh con chết hay sẩy thai cao gấp 6 lần…


</div>
<span class='text_page_counter'>(123)</span><div class='page_container' data-page=123>

làng quê Việt Nam, những con người hằng ngày chịu những nỗi đau da cam,cần một lời
nói trách nhiệm của các cơng ty hóa chất Mỹ và những trái tim yêu thương đồng loại!


Vũ Cơng Phong


(Biên soạn)


<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>Nóng chảy kim cương</b>


Thiết bị Z làm nóng chảy kim cương để phục vụ cho các thí
nghiệm về vỏ đạn xúc tác phản ứng nổ hạt nhân. Bằng
cách tạo ra áp suất lớn hơn 10 triệu lần so với áp suất
khơng khí ở mặt nước, thiết bị Z của Sandia (Sandia là bộ
phận Quản lý an tồn hạt nhân quốc gia) có thể khiến kim
cương rắn chuyển sang dạng lỏng.


Mục đích thí nghiệm này là để hiểu được các tính chất của kim cương dưới áp lực cao
sâu sắc hơn hy vọng đáp ứng yêu cầu sử dụng như một màng bao cho viên đạn cỡ BB
nhằm xúc tác cho phản ứng nổ hạt nhân. Cuộc thí nghiệm là bước ngoặt nhằm cố gắng
tạo ra đủ năng lượng lấy từ nguyên tử, qua đó tạo năng lượng điện vơ hạn cho con
người sử dụng. Để kiểm sốt được quy trình này cũng phải mất 50 năm. Khi đốt cháy
khoảng ½ lượng nước biển thể tích cỡ bồn tắm thì có thể sản xuất ra năng lượng cho
40 toa xe lửa chạy bằng than. Kết quả của quá trình nấu trên sẽ được cơng nhận dùng
làm mơ hình vật lý học tương tự máy vi tính để chứng nhận mức độ an toàn và tin cậy
của kho vũ khí hạt nhân Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(124)</span><div class='page_container' data-page=124>

hành các cơng tác thí nghiệm và thiết bị Z của Sandia thì vấn đề của hai thiết bị khổng
lồ sẽ ứng dụng phương pháp này là vỏ ngoài của viên đạn phải chuyển được hết áp lực
vào bên trong. Kim cương rắn sẽ thực hiện việc này. Kim cương ở thể lỏng cũng làm
được. Nhưng kim cương ở áp suất 6,9 triệu at và 10,4 triệu at cung cấp áp lực không
đều thường thay đổi thất thường. Ở pha trung gian, điều này sẽ tạo ra tính khơng ổn


định và có thể khơng kích hoạt nổ ngun tử, giống như dùng bàn tay ấn chặt vào trái
bong bóng chứa nước khiến cho rất ít nước thốt ra ngồi qua kẽ hở ngón tay. Vì thế,
nếu sử dụng kim cương làm vỏ đạn thì năng lượng tạo được phải làm sao để tránh tình
trạng này.


Tại sao lại là kim cương? Bởi vì người ta hy vọng rằng kim cương sẽ giúp chuyển áp
lực cao vào viên đạn nhẹ nhàng hơn và làm cho chỗ nối viên đạn đối xứng. Liệu vinyl là
vật liệu mềm dẻo hơn có thể làm việc này tốt hơn chăng? Mark Herrmann, nhà thiết kế
vỏ đạn, một nhà nghiên cứu ở Sandia nói: “Tại áp lực mong muốn, có thể nén được mọi
thứ”.


Do thời gian có hạn để tiến hành các thí nghiệm, do phải đóng nắp thiết bị Z để chờ
phục hồi tái làm việc khiến tiêu tốn khoảng 30% năng lượng; Marcus Knudson, người
dẫn đầu cuộc nghiên cứu này ở Sandia, dự đoán việc áp dụng chương trình tương tự
lượng phân tử đã phát triển ở Sandia bởi Mike Desjarlais sẽ rất hữu ích trong việc xác
định chính xác mức áp suất khi bắt đầu và kết thúc q trình hóa lỏng kim cương.
Trong các thí nghiệm, áp suất sử dụng lấy từ các cuộc va chạm của kim cương được
tạo ra bằng cách dùng từ trường của thiết bị Z vào khoảng 20 lần tốc độ bắn một viên
đạn ném mạnh các dĩa kim loại tác động mạnh vào kim cương.


Kết quả nghiên cứu đã là đề tài của một cuộc hội thảo trong tuần của Tổ chức Vật lý xã
hội Mỹ về lĩnh vực vật lý học plasma ở Philadelphia.


Quỳnh Thi
(Theo Sandia)


</div>
<span class='text_page_counter'>(125)</span><div class='page_container' data-page=125>

<b>Vấn đề hạt nhân đối với nguyên liệu chế tạo vũ khí bất hợp pháp</b>


Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Kỹ Thuật và Tiêu Chuẩn Quốc Gia (NIST) và Phịng Thí
Nghiệm Quốc Gia Oak Ridge (ORNL) đã chứng minh được họ có


thể nhận biết plutonium và uranium ở mức độ vũ khí hạt nhân
ngay cả ở hàm lượng dưới một phần triệu gram với chi phí thấp,
nhanh chóng và chính xác. Cuộc nghiên cứu đã được giới thiệu
vào tháng 9 trong một cuộc họp quốc gia của Tổ chức Hóa học Mỹ<i><b>*</b></i>.


Hầu hết các lị hạt nhân trên khắp thế giới đều tạo ra điện hoặc sản xuất neutron cho
các nghiên cứu hịa bình – nhưng các lị này cũng có thể tạo ra ngun liệu chế tạo vũ
khí hạt nhân. Các kiểm tra viên quốc tế hàng ngày thường xuyên phải thăm dò xung
quanh lò ở các khu vực nghi ngờ, và lấy mẫu vải lau chùi trên bề mặt thiết bị để phân
tích mức độ hạt nhân về mặt luật pháp có thể ở mức độ vũ khí hay khơng. Cụ thể là họ
tìm kiếm các chất đồng vị của uranium hay plutonium có khả năng gây ra một vụ nổ hạt
nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(126)</span><div class='page_container' data-page=126>

Nhà phân tích hóa học Richard Lindstrom, đồng tác giả của bài giới thiệu trên ACS nói:
“Hiện giờ, chúng tơi đang nhấn mạnh đến kỹ thuật bởi vì các sự kiện thế giới đã khiến
cho việc dị tìm ngun liệu hạt nhân bị chỉ trích nhiều hơn, mà kỹ thuật này đang là một
thách thức”. Cơng cụ cũng có thể hỗ trợ cho các phương pháp phức tạp khác được
thực hiện bởi các nhà nghiên cứu ở Viện NIST đang làm việc về lĩnh vực an tồn quốc
gia.


Các mức thăm dị thấp phần nào là do sử dụng nguồn neutron NIST được thiết kế cụ
thể khá tốt. Kỹ thuật có thể dị tìm ngun liệu ở mức độ vũ khí trong đường kính chỉ 4
micron – nhỏ hơn 1/10 kích cỡ của sợi tóc con người. Kỹ thuật này cịn có thể dùng để
tìm ngun liệu phóng xạ cịn sót lại rất ít, ví dụ trong các mẫu kiểm tra các xe tải hàng
hay các container chứa hàng trên tàu. Ngồi vấn đề luật pháp, NIST cịn dùng kỹ thuật
này để đo đạc các chất đồng vị trong nghiên cứu và trong các cơng trình cơng nghiệp.
Hiện nay, nhóm này đang làm việc để tự động hóa dụng cụ đếm và đơn giản hóa cách
hoạt động vận hành của nó để xử lý nhanh một lượng lớn nhiều mẫu.


<i><b>* </b>R. M. Lindstrom, D.C. Glasgow và R.G. Downing. Phương pháp tách mẫu bằng cách </i>


<i>phân tích neutron hoạt hóa chậm ở NIST. Được giới thiệu ở cuộc họp Quốc gia ACS lần</i>
<i>thứ 232, San Francisco, Calif., ngày 10 tháng 9 năm 2006.</i>


Quỳnh Thi


(theo National Institute of Standards and Technology)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>TÌM RA CÁCH AN TỒN HƠN ĐỂ DỊ CÁC KHỐNG URANIUM</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(127)</span><div class='page_container' data-page=127>

Cơng nghệ Queensland tìm ra một cách mới an tồn hơn để dị ra sự nhiễm phóng xạ
trong đất.


Giáo sư Ray Frost thuộc trường Khoa học Hóa học và Vật lý của QUT đã tìm ra cách
nhận biết, từ một vị trí ở xa, những trầm tích dầu được chắt lọc qua đất và nước.


“Khả năng dễ dàng và sẵn sàng phát hiện ra các khoáng uranium, đặc biệt là các
khống vật thứ sinh, có tầm quan trọng rất lớn, đăc biệt trong tình hình khủng bố và sự
gia tăng khai thác uranium như hiện nay”. Giáo sư Frost nói. “Điều ít được biết đến là
nhiều khoáng uranium, đặc biệt là các khoáng thứ sinh, hịa tan được và có thể dịch
chuyển hoặc chuyển vào nước đến các vùng rất xa so với vị trí mà uranium được tìm
thấy.




Điều này có nghĩa là khống uranium có thể xuất hiện trong đất và trầm tích từ những
nguồn gốc khơng rõ và tại những địa điểm rất xa so với nguồn gốc của chúng.





Giáo sư Frost nói rằng với việc sử dụng kỹ thuật phổ cận hồng ngoại, các khoáng
phóng xạ có thể được phát hiện bởi những nhà khoa học đang ở rất xa vùng bị nhiễm.
Nhờ việc sử dụng máy dò quang học dạng sợi và kỹ thuật phổ cận hồng ngoại, chúng ta
thấy rằng có thể phát hiện được khống uranium có hiện diện trong đất hay khơng. Phổ
cận hồng ngoại có thể nhận dạng được loại của khoáng uranium hiện diện. Điều này có
nghĩa là hiện nay chúng ta có thể xác định được có hay khơng có sự tồn tại của các
trầm tích phóng xạ và sự nguy hiểm mà những trầm tích này có thể gây ra cho cả môi
trường và cộng đồng.




Phổ cận hồng ngoại là một kỹ thuật sử dụng nguồn ánh sáng để quét bề mặt vật liệu để
xác định tính chất hóa học của bề mặt đó. Trong khi tiến hành, ta có thể xác định xem
các khống uranium có tồn tại trong đất hay không.




</div>
<span class='text_page_counter'>(128)</span><div class='page_container' data-page=128>

”Điều này dẫn đến phí phạm các mỏ và sự tích lũy các khống nguy hiểm”. Ơng cho
rằng điều này có liên quan đến những mối quan tâm đang gia tăng về nguy cơ vũ khí
của khủng bố, còn được gọi là bom bẩn, làm nổi bật tầm quan trọng của việc sẵn sàng
nhận diện được các khống uranium. Giáo sư Frost cho rằng khi có khả năng khống
phóng xạ uranium rải rác trên những vùng diện tích rộng thì rõ ràng phải cần đến việc
kiểm tra mở rộng trên nhiều vị trí của vùng để xác định khả năng nhiễm phóng xạ.
Minh Giang


(Theo Queensland University of Technology)


<b>hoahocvietnam.com</b>



Ý ki
ế n


<b>Tương tác giữa dầu và nước </b>


Mơ hình chính xác dầu và nước tương tác như thế nào?
Dầu và nước tương tác lẫn nhau như thế nào? Cho đến
nay, các nhà nghiên cứu chỉ có thể tiến hành nghiên cứu
trong phịng thí nghiệm. Nhà nghiên cứu Hà Lan, Twan
Gielen, đã thiết kế một chương trình mơ phỏng để nghiên
cứu sự tương tác giữa dầu và nước bên ngồi phịng thí
nghiệm, cung cấp sâu sắc hiểu biết về việc nhiễm bẩn
nguồn nước ngầm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(129)</span><div class='page_container' data-page=129>

trị trong đó, ví dụ: thời gian và vị trí của lưu chất. Gielen đã phát triển một mơ hình để
tái tạo tính xác thực ở tỷ lệ kính hiển vi. Mơ hình này giống như tháp gồm nhiều viên bi
nhỏ.


<b>Những hạt cát: </b>


Các viên bi rỗng có đường kính khoảng 0.1 mm (màu đỏ là dầu, màu xanh dương là
dòng nước). Một tháp có bề rộng gồm 30 viên bi, chiều sâu là 30 viên và chiều cao 40
viên bi. Đó là con số cực đại mà máy vi tính có thể tính tốn. Những viên bi miêu tả
khoảng hở giữa các hạt cát. Những khoảng trống lớn liên kết các khoảng hở nhỏ lại với
nhau. Sự mơ phỏng của Gielen đưa ra một cách nhìn nhận đầy đủ về việc dầu và nước
chảy qua các khoảng trống.


<b>Thời gian:</b>


Hiện tượng chính trong nghiên cứu động lực lưu chất ở hai pha là áp lực khác nhau


giữa dầu và nước: áp lực mao dẫn. Nếu bạn có thể tính tốn áp lực này, bạn có thể xác
định cách thức dầu và nước di chuyển tương tác lẫn nhau. Gielen đã sử dụng dữ liệu
của ông để mở rộng sự mô tả truyền thống của áp lực mao dẫn. Với miêu tả này, ơng
có thể mơ tả chân thực hơn hoạt động của hai dịng lưu chất này.


Ông là người đầu tiên theo hướng nghiên cứu trên trong phạm vi này bất kể thời gian.
Trong tương lai, những nhà nghiên cứu muốn có một tính tốn chính xác về chuyển
động của sự nhiễm bẩn nguồn nước ngầm.


Cuộc nghiên cứu của Twan Gielen được tài trợ bởi tổ chức NWO.
Bình STH


</div>
<span class='text_page_counter'>(130)</span><div class='page_container' data-page=130>

<b>Phổ đạo hàm tỷ đối và sắc ký lỏng (LC)</b>


<b>Nội dung chính: Sự ứng dụng của phương pháp phổ </b>
đạo hàm tỷ đối và sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) để
xác định đồng thời lượng Paracetamol (PAR) và


Methocarbanol (MET) trong những viên thuốc.


- Phương pháp quang phổ dựa trên việc sử dụng đạo
hàm bậc một của phổ tỷ đối bằng cách phân chia phổ hấp thu của hỗn hợp hai cấu tử
bằng một phổ chuẩn của một trong hai cấu tử đó.


- Đo phổ đạo hàm bậc một ở bước sóng 243,0 và 230,3nm lần lượt đối với PAR và
MET. Đường chuẩn được thiết lập ở khoảng nồng độ 2-30 µg/ml đối với PAR và 2-36
µg/ml cho MET. Giới hạn phát hiện PAR và MET là từ 0,097 µg/ml cho đến 0,079 µg/ml.
Giới hạn định lượng của PAR là 0,573µg/ml và MET là 1,717µg/ml.


- Trong phương pháp HPLC, pha động là methanol-nước (60:40) về thể tích dùng để


tách các cấu tử trong hỗn hợp với đầu dò ở 274,0nm. Đường tuyến tính về nồng độ là
khoảng 2-300 và 1,5-375µg/ml cho PAR và MET. Đầu dò và giới hạn định lượng là 0,42
và 1,4µg/ml cho PAR, cịn với MET là 0,36 và 1,2µg/ml. Độ lệch chuẩn tương đối


khoảng 0,52% ở cả 2 phương pháp. Những phương pháp này cũng được áp dụng
thành công với hỗn hợp thuốc 3 cấu tử.


<b>1. Giới thiệu :</b>


PAR và MET thường được trộn lẫn trong myorelaxan và các loại thuốc giảm đau.
Trong phương pháp quang phổ cổ điển để phân tích một cấu tử thì nó thường đi kèm
theo nhiều cấu tử khác hấp thu trong cùng một vùng phổ. Do đó, phổ bị chồng chập,
cần đến các phương pháp toán học để giải quyết. Salinas đã phát triển một phương
pháp mới được đặt tên là phổ đạo hàm tỷ đối để giải quyết hỗn hợp 2 cấu tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(131)</span><div class='page_container' data-page=131>

hàm lượng trong sự hiện diện của nhiều chất.
<b>2. Thí nghiệm : </b>


2.1 Dụng cụ : Quang phổ kế Shimadzu 1601 kết nối với 1 máy tính IBM-PC trong
vùng sóng ngắn, một máy in Lexmark. Sắc ký lỏng hiệu năng cao với đầu dò UV (model
481).


2.2 Vật liệu : PAR và MET dùng để thí nghiệm là của hãng Sanofi-DoguPharm.
Methanol và H2O (được pha loãng 2 lần) dùng trong HPLC.


- Dung dịch chuẩn để đo quang phổ được điều chế bằng cách pha loãng ở những
nồng độ khác nhau để dựng đường chuẩn.


- Dung dịch chuẩn trong HPLC được điều chế với pha động bằng cách thay đổi
nồng độ của một trong hai cấu tử trong hỗn hợp và giữ ngun nồng độ của cấu tử cịn


lại ở 10µg/ml. Mẫu được lọc trước khi qua đầu dò sắc ký.


2.3 Phân tích viên thuốc


Lượng 20 viên chứa PAR và MET được cân. Lương tương ứng được cân chính xác,
cho vào 100ml bình định mức, khuấy trộn với methanol.


2.4 Phương pháp :


2.4.1 Phương pháp phổ đạo hàm tỷ đối


Dung dịch chuẩn của PAR và MET ở nồng độ khoảng 2-30µg/ml được điều chế
trong methanol.


Phổ hấp thu của hỗn hợp 2 cấu tử ở những nồng độ khác nhau của PAR thu
được trong máy tính. Phổ của hỗn hợp bị chia cắt bởi phổ chuẩn của MET (10µg/ml)
trong methanol. Từ phổ tỷ đối của PAR/MET thu được, phổ đạo hàm bậc một với độ
lệch bước sóng hai cấu tử là Δk= 4nm thu nhận được. Trong hỗn hợp 2 cấu tử, chúng
ta có thể xác định được lượng PAR bằng cách đo phổ đạo hàm bậc 1 ở bước sóng
243,0nm trong khoảng bước sóng 231,6-270,8nm.


Phương pháp để xác định hàm lượng của MET ở những nồng độ khác nhau khi
PAR là khơng đổi 12,0µg/ml. Cách làm tương tự như trên, dung dịch chứa MET được
xác định bằng cách đo ở bước sóng 230,3nm trong phổ đạo hàm tỷ đối bậc 1 với
khoảng bước sóng 200,8nm đến 245,5nm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(132)</span><div class='page_container' data-page=132>

Sắc ký sử dụng pha tĩnh LC-18 (250+4,6nm, 5µm) cột nhồi. Hỗn hợp này được
tách ra với pha động là methanol-H2O (60 :40) về thể tích. Pha động được pha loãng và


trộn đều trước khi sử dụng, được chuyển ra bên ngoài ở tốc độ dịng là 1,0ml/phút. Thể


tích tiêm là 50µl). Dung dịch chuẩn được điều chế với pha động bằng cách thay đổi
nồng độ của PAR và MET trong khoảng 2-300 và 1,5-375µg/ml.


Máy Shimadzu HPLC


<b>3. Kết quả và thảo luận</b>
3.1 Phổ đạo hàm tỷ đối :


- Phổ của hỗn hợp PAR và MET trong methanol và của riêng từng cấu tử bị chồng


chập, có thể đánh giá và ước lượng bằng phương pháp phổ đạo hàm tỷ đối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(133)</span><div class='page_container' data-page=133>

- Để xác định MET, lấy phổ tỷ đối ở những nồng độ khác nhau của MET và sử dụng
PAR khơng đổi ở 12µg/ml như là 1 chất so sánh. Nồng độ của MET được xác định bằng
cách đo tại bước sóng Δmin= 230,3nm.


3.2 HPLC


Pha tĩnh của HPLC được phát triển như là 1 phương pháp trọng tài cho phương
pháp phổ đạo hàm tỷ đối. Để sử dụng những mẫu giống nhau trong phân tích quang
phổ, pha động được chọn là methanol và H2O với tỷ lệ về thể tích là 60 :40.


Theo USP24, phương pháp kiểm tra hệ thống thích hợp là một phần trong phương
pháp sắc ký. Thời gian lưu là 3,65 phút cho PAR và 7,3 phút cho MET. Để chứng minh
được giá trị và sự phù hợp của mục đích phương pháp, người ta nghiên cứu ở 2 nồng
độ khác nhau. Kết quả cho thấy chính xác, độ thu hồi cao và độ lặp lại cao.


Kiểm tra độ thu hồi cho thấy chính xác và ứng dụng mục đích của phương pháp
bằng cách phân tích tổng hợp PAR và MET ở các tỷ lệ khác nhau. Phần trăm được thu
hồi và độ lệch chuẩn tương đối của nó là 99,6 và 0,48% cho PAR còn 99,8 và 0,49% đối


với MET.


3.3 Về liều lượng của những viên thuốc


Khi làm việc với hỗn hợp tổng hợp, kết quả cho thấy việc sử dụng 2 phương pháp
đang nghiên cứu để xác định hàm lượng PAR và MET trong viên thuốc được khuyến
khích. Kết quả thật hài lịng và khơng có sự khác biệt lớn giữa 2 phương pháp.


<b>4. Tổng kết</b>


Những phương pháp trên để xác định đồng thời PAR và MET trong thuốc cho độ
chính xác cao. Phương pháp phổ đạo hàm tỷ đối thì đơn giản hơn nhiều và nhanh
chóng, khơng địi hỏi thời gian xử lý mẫu, khơng cần pha lỗng như trong HPLC.
Trần Ngọc Trường Mi


<b>hoahocvietnam.com</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(134)</span><div class='page_container' data-page=134>

<b>Dùng tia X thăm dò khe hở giữa nước và bề mặt phân chia pha </b>


Các nhà nghiên cứu đã tìm ra một khe hở giữa bề mặt
phân chia pha với nước và có thể cung cấp sự hiểu biết
sâu sắc hơn trong trường hợp khi dầu không tan trong
nước. Một nhóm nghiên cứu quốc tế đã xác định được
kích cỡ và tính chất của khe hở này bằng cách sử dụng tia X năng lượng cao ở Công ty
ESRF.


Kiến thức về cấu trúc bề mặt phân chia pha trong nước rất quan trọng vì nó đóng vai trị
nịng cốt trong hệ thống sinh vật học, và có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về tính ổn
định và tính gấp cuộn của protein. Các nhà nghiên cứu đã xuất bản kết quả nghiên cứu
của họ trong tuần trên trang web PNAS Early Online Edition.



Lực đẩy của nước là một hiện tượng phổ biến hiện thời trong nhiều khía cạnh của cuộc
sống. Các phân tử bột giặt được tạo thành bởi những thành phần hấp dẫn nước và bởi
những thành phần khác kỵ nước. Protein cũng sử dụng tính ưa nước để có thể liên kết
tạo thành các hợp phần. Tuy nhiên, nghiên cứu các cấu trúc kỵ nước và những gì xảy
ra khi chúng gặp nước thì khơng hồn tồn chính xác do còn chịu ảnh hưởng bởi các
yếu tố khác. Các cuộc nghiên cứu trước đây về khe hở giữa nước và bề mặt phân chia
pha đã không đưa ra một cái nhìn chặt chẽ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(135)</span><div class='page_container' data-page=135>

nước, khoảng từ 0,1 đến 0,5 nanômét. Mật độ tập trung phân tử thưa thớt tại bề mặt
phân chia pha chiếm đến nửa lớp đơn phân tử nước.


Các nhà khoa học đã thực hiện nhiều cuộc thí nghiệm hơn nữa để kiểm tra ảnh hưởng
của khơng khí trên khoảng trống lớp phân chia pha vì khơng khí thường vốn tự nhiên
hiện diện trong nước. Trong suốt các cuộc thí nghiệm, các nhà khoa học luôn đảm bảo
rằng nước lúc nào cũng ở trạng thái cực sạch (không giống như nước tạp trong tự
nhiên) và họ bơm không khí vào các tế bào trên cho đến khi đạt mức bão hòa. Kết quả
cho thấy trái ngược với các bản báo cáo trước đây, khơng khí khơng hề ảnh hưởng đến
cấu trúc của nước ở bề mặt phân chia pha.


Đây là lần đầu tiên tia X synchrotron năng lượng cao được sử dụng như một dụng cụ để
xem xét đo đạc tính chất của khe hở phân chia pha. Harald Reichert, tác giả phụ trách
bài viết giải thích: “Nhiều nhóm nghiên cứu đã dùng đến nơtron, nhưng họ lại khơng đủ
quyết tâm bởi vì trên hết khe hở này cực kỳ nhỏ và khó quan sát”. Mặc dù chất lượng tia
X cực cao, nhưng cuộc thí nghiệm vẫn gặp phải một thử thách là: lớp chống thấm trên
miếng silicon chỉ tồn tại được 50 giây dưới tia X, do đó việc xem xét đo đạc các tính
chất phải hồn tất rất nhanh.


Bước tiếp theo đối với nhóm nghiên cứu là tạo ra các cấu trúc xốp và nghiên cứu tính
chất của nước tại bề mặt phân chia pha. Reichert nói rằng: “Cuộc nghiên cứu này sẽ


cung cấp thêm kiến thức về sự phản ứng của nước trong nhiều môi trường khác nhau.
Cấu trúc của nước ở các môi trường này vẫn hơi bí ẩn đối với chúng tơi, mặc dù nước
thì bao quanh thế giới của chúng ta”.


Quỳnh Thi


</div>
<span class='text_page_counter'>(136)</span><div class='page_container' data-page=136>

<b>Ứng Dụng Chuẩn độ Oxy-Hóa khử</b>


Phản ứng chuẩn độ oxy hóa khử là một trong những phản ứng quan trọng trong mơn
hóa phân tích. Bài viết giới thiệu


các chất oxy hóa mạnh và một số chất chuẩn cơ bản cho phản
ứng chuẩn độ oxy hóa khử.


<b>Chất Oxy hóa mạnh-Kali Permanganat và Cerium(IV)</b>


Ion permanganat và ion Cerium(IV) là những tác nhân oxy hóa rất mạnh, các bán phản
ứng cho hai loại ion này được viết như sau:


MnO4- + 8H+ +5e-↔ Mn2+ + 4H2O E0 = 1.51V


Ce4+<sub> + e</sub>-<sub> ↔ Ce</sub>3+<sub> E</sub>0<sub> = 1.44V(1M H</sub>
2SO4)


Điện thế của chúng đã cho chúng ta thấy rằng sự khử của Cerium(IV) cho các dung
dịch trong 1 M sulfuric axít. Nếu ion permanganat được hòa tan trong dung dịch 1 M axít
percloric và Axít nitric 1 M, thì điện thế sẽ lần lượt là 1.70 và 1.60 V. Các dung dịch của
Ce (IV) trong percloric axít và axít nitric đều khơng bền do đó việc ứng dụng của các
dung dịch này rất hạn chế.



Bán phản ứng ở trên của ion permanganat chỉ xảy ra trong dung dịch axít có nồng độ từ
0.1 M trở lên. Trong các dung dịch axít yếu sản phẩm phản ứng có thể là Mn (III), Mn
(IV), hoặc Mn (VI) tùy thuộc vào các điều kiện phản ứng.


Cho tất cả các mục đích thực nghiệm, tính oxy hóa mạnh của các dung dịch


</div>
<span class='text_page_counter'>(137)</span><div class='page_container' data-page=137>

Mặc dù dung dịch Cerium(IV) có nhiều ưu điểm hơn dung dịch Permanganat, nhưng
Permanganat lại được dùng phổ biến hơn. Một lý do mà tại sao dung dịch Permanganat
lại được dùng nhiểu hơn là vì màu của dung dịch Permanganat đủ bền để sử dụng như
một chất chỉ thị trong các quá trình chuẩn độ. Màu của dung dịch Cerium(IV) là vàng
cam, nhưng màu của của nó khơng bền để đóng vai trị như một chất chỉ thị trong quá
trình chuẩn độ. Một lý do khác nữa mà đo đó dung dịch Permanganat lại được sử dụng
phổ biến hơn Cerium(IV) là vấn đề giá cả. Giá của một lít dung dịch Permanganat
0.02M vào khoảng trên dưới mười nghìn đổng so với giá của dung dịch Cerium(IV) cùng
nồng độ là hơn năm mươi nghìn đồng. Một thuận lợi khác là dung dịch Cerium(IV)
thường có xu hướng hình thành kết tủa của các muối trong dung dịch có nồng độ nhỏ
hơn 0.1 M trong các mơi trường axít mạnh.


Như đã đề cập ở trên, một lợi điểm của Kali permanganat là màu tím đậm của nó mà có
thể đóng vai trị chất chỉ thị trong các quá trình chuẩn độ. Chỉ 0.01 ml dung dịch Kali
Permanganat trong 100 ml nước là chúng ta có thể quan sát được màu của nó. Nếu
dung dịch permanganat q lỗng, thì diphenylamin sunphonic axít hoặc phức


Phenatrolin Fe(II)rên, một tính chất hữu ích của Kali permanganat là màu tím đổng so
với giá của dung dịch Cerium() có thể được thêm vào để làm sắc nét điểm cuối.


Điểm cuối của permanganat không bền bởi vỉ lượng dư ion permanganat sẽ phản ứng
chậm với Mangan(II) có nồng độ tương đối cao xuất hiện ở điểm cuối của quá trình
chuẩn độ.



2MnO4- + 3Mn2+ + 2H2O → 5MnO2 ↓ + 4H+


Hằng số cân bằng cho phản ứng này là 1047<sub>. Điều này xác định rằng nồng độ cân bằng </sub>


của ion Permanganat là rất nhỏ ngay cả trong moi trường có tính axít cao. Tốc độ phản
ứng tương đối chậm và điểm cuối nhạt dần trong khoảng thời gian 30 giây.


Dung dịch Cerium(IV) như đã đề cập ở trên, màu vàng cam, nhưng màu khơng đủ
mạnh để làm vai trị như một chỉ thị. Chỉ thị phổ biến nhất dùng cho Cerium(IV) là phức
Fe(II) của 1,10 phentrolin hoặc các dẫn xuất thế của nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(138)</span><div class='page_container' data-page=138>

4MnO4- + 2H2O → 4MnO2 ↓ + 3O2(khí) + 4OH


-Mặc dù hằng số cân bằng cho phản ứng này cho biết rằng sự hình thành Mangan dioxit
là hiển nhiên khi chuẩn độ một cách đúng phương pháp, dung dịch sẽ bền bởi vì phản
ứng phân ly xảy ra rất chậm. Phản ứng phân ly được xúc tác bằng ánh sáng, nhiệt độ,
axít, bazơ, Mangan(II) và Mangan dioxit. Mangan dioxit thậm chí có thể tìm thấy trong
dung dịch Kali Permanganat tinh khiết nhất. Loại bỏ Mangan dioxit bằng phương pháp
lọc, trước khi tiến hành chuẩn độ sẽ cải thiện được tính ổn định của dung dịch. Giấy lọc
khơng thể dùng để lọc Mangan dioxit vì ion permanganat sẽ phản ứng với giấy lọc tạo
ra thêm Mangan dioxit. Các dung dịch chứa lượng dư chất chuẩn Permanganat không
bao giờ được đun nóng bởi vì, như đã nói ở trên, chúng sẽ phân hủy bằng việc oxy hóa
nước.


<b>Các chất chuẩ n cơ b ản </b>


Natri Oxalat (Na2C2O7) được dùng tương đối phổ biến để chuẩn độ các dung dịch


permanganat và Cerium(IV). Trong dung dịch axít, ion oxalat bị chuyển sang axít khơng
phân ly.



2MnO4- + 5H2C2O4 + 6H+ → 2Mn2+ + 10 CO2 (khí) + 8H2O


Cùng một sản phẩm oxy hóa sẽ được tạo ra khi oxalat phản ứng với permanganat và
Cerium(IV).


Phản ứng giữa ion permanganat và axít oxalic rất phức tạp và quá trình phản ứng xảy
ra chậm, trừ khi có sự hiện diện của Mangan (II). Khi mà nồng độ của Mangan(II) tăng
lên, quá trình phản ứng sẽ nhanh dần lên do kết quả của hiện tượng tự xúc tác.


Điều này đã được quan sát khi các dung dịch của natri oxalat được chuẩn độ ở 600<sub>C và </sub>


900<sub>C, lượng ion permanganat mất đi khoảng 0.1-0.4% nhỏ hơn so với lý thuyết. Sự </sub>


chênh lệnh này có thể do sự oxy hóa khơng khí của axít oxalic. Trong suốt q trình
chuẩn độ như thế này, sau khi permanganat phản ứng hết, dung dịch được đun nóng
lên 600<sub> và tiến hành chuẩn độ cho đến khi có màu hồng ở điểm cuối xuất hiện và có thể </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(139)</span><div class='page_container' data-page=139>

phần chất chuẩn cơ bản có thể được theo sau bằng sự chuẩn độ của hai hay ba phần
nữa khơng được đun nóng cho đến khi chuẩn độ hết mẫu cần chuẩn độ.


<b>Kali Dicromat</b>


Ion cromat bị khử đến ion Crom(III) có màu xanh lục.
Cr2O72- + 14H+ + 6e- ↔ 2Cr3+ + 7H2O E0 = 1.33V


Chuần độ Dicromat thường được thực hiện trong các dung dịch có nồng độ khoảng 1M
với sự có mặt của axít hydrocloric hay axít sunfuric. Trong các dung dịch này, điện thế
hình thức cho bán phản ứng là từ 1.0 đến 1.1 V.



Các dung dịch Kali dicromat tương đối bền và có thể đun nóng mà khơng bị phân ly.
Các tác nhân chuẩn cơ bản có bán trên thị trường của các mặt hàng hóa chất tại Việt
Nam, một số thuốc thử chuyên biệt khác được nhập vể từ nước ngoài mà chủ yếu là
sản phẩm được sản xuất tại Trung Quốc và Đức, rất ít các sản phẩm được nhập vào
Việt Nam từ U.K và USA. So với Permanganat và Cerium(IV) thì Kali Dicromat có một
số nhược điểm là nó nằm ở thế điện cực thấp hơn và phản ứng xảy ra chậm khi tương
tác với một số thuốc thử.


Đối với hầu hết các mục đích phân tích thì thuốc thử ưu việt thường là Kali Dicromat đạt
yêu cầu và cho phép việc chuần bị trực tiếp các dung dịch mẫu. Chất rắn được làm khô
ở 150-2000<sub> C trước khi đem đi cân. Màu vàng của dung dịch dicromat không đủ nhạy </sub>


cảm để phát hiện điểm cuối. Diphenylamin sulfonic axít là một chỉ thị tuyệt vời cho các
quá trình chuẩn độ với dicromat. Dạng oxy hóa của chỉ thị có màu tía, và dạng khử thì
về cơ bản là khơng màu. Do đó trong phép chuẩn độ trực tiếp màu quan sát được sẽ
chuyển từ màu xanh lục của ion Crom(III) sang màu tía.


Yếu tố cơ bản của việc sử dụng dicromat cho việc chuẩn độ thể tích của Fe(II).
Cr2O72- + 6Fe2+ + 14H+ → 2Cr3+ + 6Fe3+ + 7H2O


</div>
<span class='text_page_counter'>(140)</span><div class='page_container' data-page=140>

dung dịch Fe(II) bằng việc chuẩn độ với dicromat được thực hiện đồng thời với q trình
phân tích bởi vì các dung dịch của Fe(II)hời chuẩn độ với dicromat được thực hiện
dicromat.phân tích. n oxy hóa đa dạng.romat.tác với một số thuốc thử có xu hướng bị
oxy hóa bởi khơng khí. Phương pháp này đã được ứng dụng cho việc xác định các ion
nitrat, clorat, permanganat, và dicromat, cũng như đối với các peroxit hữu cơ và nhiều
tác nhân oxy hóa khác.


<b>Iot</b>


Một số dung dịch của Iot là các tác nhân oxy hóa yếu mà chúng được dùng để xác định


các tác nhân khử mạnh.


I3-<sub> + 2e</sub>-<sub> ↔ 3I</sub>-<sub> E</sub>0<sub> = 1.33V</sub>


Các dung dịch chuẩn Iot có ứng dụng tương đối hạn chế so với các chất oxy hóa khác,
chúng ta phải nên xét các đặc tính của nó vì thế điện cực của cặp I3-<sub>/I</sub>-<sub> thấp hơn. Thế </sub>


điện cực thấp là một điều rất thuận lợi bởi vì nó phổ biến một mức độ chọn lựa cho
phép có thể xác định các tác nhân khử mạnh với sự có mặt của một số tác nhân khử
yếu. Một thuận lợi quan trọng nữa của Iot đó là dễ chuẩn bị dung dịch chuẩn, tính nhạy
cảm và chỉ thị hồn ngun cho các q trình chuẩn độ. Dung dịch Iot mặc dù là thiếu
tính ổn định và phài chuẩn lại thường xun.


Iot khơng phải là chất dễ hịa tan trong nước (~0.001M). Để có các dung dịch có nồng
độ thích hợp dùng được cho phân tích, iot sẽ được hịa tan trong một lượng KI có nồng
độ vừa phải. Iot dễ hịa tan hơn trong mơi trường như thế này.


I2(rắn) + I- ↔ I3- K= 7.1x 10-2


</div>
<span class='text_page_counter'>(141)</span><div class='page_container' data-page=141>

4I-<sub> + O</sub>


2(khí) + 4H+ ↔ 2I2 + 2H2O


Sự oxy hóa khơng khí tăng lên khi có mặt của axít, ánh sáng và nhiệt độ.


Dung dịch có thể được chuẩn độ ngược bằng natri thiosunfat hoặc bari thosunfat
monohydrat.


OCl-<sub> + 2I</sub>-<sub> + 2H</sub>+ <sub>↔ Cl</sub>-<sub> + I</sub>



2 + H2O (lượng dư KI không xác định)


I2 + 2S2O32- → 2I- + S4O6


<b>2-Kali Bromat</b>


Chất chuẩn cơ sở kali bromat có thể được dùng để chuẩn bị trực tiếp các dung dịch
chuẩn có tính ổn định cao. Chuẩn độ trực tiếp với kali bromat là tương đối hiếm. Thay
vào đó kali bromat được dùng khá phổ biến như là một nguồn của brôm. Trong phươn
pháp này, lượng kali bromua không xác định được thêm vào dung dịch mang tính axít
của chất phân tích. Việc thêm một thể tích xác định của chất chuẩn kali bromat dẫn đến
việc sinh ra một hàm lượng brôm hợp thức.


BrO3- + 5Br- + 6H+ → 3Br2 + 6H2O


Việc phát sinh Brôm một cách gián tiếp đã khắc phục được tính khơng ổn định của dung
dịch chuẩn Brơm.


Chất chuẩn kali bromat được dùng chủ yếu để xác định các hợp chất hữu cơ phản ứng
được với brôm. Rất ít các phản ứng loại này xảy ra đủ nhanh để cho phép chuẩn độ
trực tiếp. Thay vào đó một lượng dư xác định của chất chuẩn bromat được thêm vào
dung dịch chứa mẫu cộng với một lượng dư KI. Sau khi axít hóa, hỗn hợp được cho
phản ứng cho đến khi có sự xuất hiện của brôm như là một dấu hiệu để kết thúc quá
trình chuẩn độ. Để xác định lượng brơm dư, lượng dư Ki không xác định được đưa vào
để chuyển lượng brôm dư sang iot:


2I-<sub> + Br</sub>


2→ I2 + 2Br



</div>
<span class='text_page_counter'>(142)</span><div class='page_container' data-page=142>

phản ứng cộng.
Thái Phú Khánh Hòa


<b>hoahocvietnam.com</b>


<i><b>CHẾ BIẾN RƯỢU TỪ CÂY DỪA NƯỚC</b></i>


<i>Cây dừa nước (Nipa Palm-theo tiếng Philippine) một loài </i>
<i>cây phổ biến ở nước ta, việc chế biến rượu từ dừa nước </i>
<i>là một giải pháp mới giúp người nơng dân có thể tận dụng</i>
<i>các loại đất rừng sát ngập mặn để mang lại hiệu quả kinh</i>
<i>tế cao hơn. Hàng năm Philippine sản xuất cồn 95 độ từ </i>
<i>các buồng quả dừa nước, với hàng chục triệu lít cồn </i>
<i>nguyên liệu rẻ tiền nhất để chế tạo cồn 95 độ.</i>


<i>Dừa nước được trồng với mật độ 2000 cây/ha, sau ba đến bốn năm, khi cây đạt 8 lá, bắt</i>
<i>đầu ra hoa, mỗi ha trung bình có khoảng 700 cây ra hoa. Mỗi cây chỉ ra một buồng quả </i>
<i>tận cùng rồi chết. Những cái rễ (căn hành) của chúng sẽ mọc lên những cây con như </i>
<i>các bụi chuối. Khi buồng hoa đã ra các quả non, ta cắt cuống buồng sát đến giới hạn </i>
<i>hình thành quả, thường cách mặt đất khoảng 60-80 cm. Ta đút cuống buồng đã cắt vào </i>
<i>đốt ống tre và hứng dịch ngọt tuba chảy ra. Dịch ngọt này chứa 17% đường và có kèm </i>
<i>theo các Enzyme lên men rượu từ cuống buồng tiết ra.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(143)</span><div class='page_container' data-page=143>

<i>mới lại tiếp tục chảy ra - và cứ thế lần lượt. Có thể thu hoạch như vậy liên tục trong 90 </i>
<i>ngày. Sau đó chặt tồn bộ cây dừa nước, thu lá dừa để lợp nhà và làm củi đun.</i>


<i>Mỗi cây bình quân trong một vụ ba tháng sẽ thu được </i>
<i>khoảng 43 lít. Mỗi ha 700 cây ra hoa sẽ thu được khoảng </i>
<i>30000 lít dịch tuba. Mỗi lần thu dịch ngọt từ rừng dừa </i>
<i>nước về đến nhà trong vòng 10 giờ nó đã tự lên men hồn</i>


<i>chỉnh thành rượu tuba khoảng 5,6 độ, có thể dùng uống </i>
<i>ngay như nước cơm rượu. Dùng khoảng 20 lít dịch tuba tự</i>
<i>lên men để cất ngay khi vừa mới về đến nhà sẽ được 1 lít </i>
<i>cồn 95 độ, chưng phân đọan.</i>


<i>Như vậy bình quân trên một ha dừa nước hàng năm sẽ </i>
<i>thu hoạch và chế biến được 1.500 lít cồn 95 độ một cách nhẹ nhàng và dễ dàng với giá </i>
<i>thành rẻ hơn bất cứ phương pháp chế tạo cồn etylic nào khác, xứng đáng được sự quan</i>
<i>tâm đầy đủ đến cây dừa nước. Các loại đất rừng ngập mặn đều có thể trồng dừa nước </i>
<i>được. Ngồi ra nếu gần các lị đường, ta có thể dùng các rỉ đường (molasse) trộn chung</i>
<i>với tuba, lợi dụng men của tuba để lên men rỉ đường thành rượu rất nhanh chóng.</i>


<i>Huỳnh Tấn Lộc</i>


<i><b>hoahocvietnam.com</b></i>


<b>Bộ gien nho tiết lộ những bí mật về hương vị của ruợu vang </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(144)</span><div class='page_container' data-page=144>

sức khỏe trong ruợu vang, và có lẽ sẽ giúp các nhà khoa học nhân giống các loại chống
lại bệnh tật hoặc có nhiều hợp chất vị thơm nhất định.


Nhóm đã chọn một biến thể nho được lấy từ các vùng canh tác Pinot Noir, và giải mã bộ
gien bằng cách dùng trình tự "shotgun" tiêu chuẩn, một kĩ thuật phá vỡ có hiệu quả các
dải DNA thành các đoạn được đọc một cách riêng lẻ, trước khi thông tin được ráp lại
giống như một mảnh ghép hình lớn.


Nho mà họ dùng được trồng một cách riêng biệt để có tính đồng chủng cao, để các bản
sao chép của mỗi cặp nhiễm sắc thể mang một kiểu tương tự của hầu hết các gien của
cây trồng. Nhiều biến thể nho có số lượng đặc biệt cao (trên 13%) các khác biệt về gien
giữa một cặp nhiễm sắc thể, sẽ làm cho phương pháp thiết lập trình tự shotgun cực kì


khó khăn.


Đây chỉ là chuỗi gien đứng thứ tư của cây ra hoa (sau cải xoong Arabidopis, lúa, và
bạnh dương), nhưng thông tin đã giúp các nhà khoa học phát thảo một "cây gia hệ" cho
biết sự tiến hóa của các lồi cây này.


<b>Những gien vị giác</b>


Các phân tích đầu tiên về bộ gien nho đã nhận thấy các enzim tổng hợp stilbene (STSs)
chịu trách nhiệm tổng hợp resveratrol, một dẫn xuất phenol đã được biết là có ích cho
sức khỏe khi uống rượu vang một cách điều độ, được mô tả bởi một lượng rất lớn các
gien. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy 43 gien STS, với ít nhất 20 cái được biết là đang
hoạt động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(145)</span><div class='page_container' data-page=145>

Các nhà khoa học cũng có thể dùng thơng tin bộ gien để cải tiến cây
trồng cung cấp hàm lượng cao những hợp chất tốt cho sức khỏe trong việc sản xuất
nước trái cây.


Các enzim kết hợp với hương thơm cũng được mô tả trong bộ gien, so sánh với các
cây trồng khác. Sự tổng hợp terpene (TPSs) liên quan đến tác động qua lại của cây
trồng với mơi trường, nhưng trong cây nho nó cũng tạo ra hương thơm.


Ba cây trồng khác đã được sắp xếp theo trình tự có từ 30 đến 40 gien để thực hiện việc
tổng hợp này, nho có đến 89 gien TPS và 27 pseudogenes. Điều này cho thấy sự đa
dạng về mùi vị của rượu bắt nguồn từ bộ gien của nho.


Thành Phương dịch
(Theo RSC)


<b>hoahocvietnam.com</b>



<b>NHẬN BIẾT CÀFE GIẢ MẠO</b>


Các nhà nghiên cứu Mỹ đã phát triển một kỹ thuật khoa học giúp phát hiện được cà phê
có trộn lẫn ngũ cốc để làm tăng khối lượng. Cùng với Bộ
Nông nghiệp Mỹ, họ phát triển phương pháp kiểm tra
nhanh để ngăn chặn việc làm giả mạo này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(146)</span><div class='page_container' data-page=146>

trọng làm ảnh hưởng đến chất lượng khi bị làm giả. Trộn lẫn với ngũ cốc, cà phê và
đường thường được vơ gói như sản phẩm thật. Theo mô tả của các nhà nghiên cứu,
phương pháp kỹ thuật này được phát triển dựa trên việc phân tích hàm lượng của một
loại vitamin E có trong cà phê Brazil. Khi bị rang (trong quá trình rang cà phê), ngũ cốc
sẽ có hàm lượng vitamin E tăng cao, do đó nó sẽ là dấu vết cho việc phát hiện sự giả
mạo. Đây là cơng trình được đăng trên Tạp chí Hóa học nơng nghiệp và thực phẩm Mỹ.
Hữu Tín


(Theo Science Daily)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>SẦU RIÊNG KHƠNG MÙI</b>


Người hâm mộ chỉ trích loại dịu hơn của trái cây đậm mùi nhất châu Á. Những quả sầu
riêng gần như không mùi được lai tạo bởi 90 loại trái cây khác nhau và đang được phát
triển ở trung tâm nghiên cứu Tung Phaen. Bạn có thể lấy đường ra khỏi nước ngọt và
chất béo ra khỏi đồ ăn vặt. Nhưng loại bỏ mùi hăng ra khỏi loại trái có lẽ đậm mùi nhất
thổi bùng lên những tranh luận quốc tế chính yếu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(147)</span><div class='page_container' data-page=147>

hương vani và khi cắn thường thấy vị hơi đăng đắng.


Bob Halliday, một tác giả viết sách về thực phẩm ở Bangkok nói: “Đối với những ai


khơng thích sầu riêng thì nó có mùi mèo chết, nhưng nếu bạn là người thích thưởng
thức sầu riêng thì mùi của nó khơng hề khó chịu tí nào, mà rất cuốn hút khiến bạn thèm
ăn cực kỳ”. Dầu vậy, một nhà khoa học làm việc cho chính phủ ở Thái Lan, sau 3 thế kỉ
nghiên cứu và là chuyên gia hàng đầu thế giới về sầu riêng nói rằng ơng hiện đang
nghiên cứu tìm cách tách bỏ mùi hơi của nó.


Làm việc tại một vườn cây ăn quả ở đây, gần biên giới Campuchia, nhà khoa học
Songpol Somsri đã lai hơn 90 loại sầu riêng, nhiều loại chỉ tìm thấy trong thiên nhiên
hoang dã, trong đó có một loại mà ông cho biết mùi dịu như mùi chuối. Ơng đặt tên cho
nó là Chantaburi Số 1 dựa trên địa danh tỉnh quê nhà của ông và nơi tọa lạc của trung
tâm nghiên cứu. Ông cho biết điều này sẽ làm người tiêu dùng Thái hài lòng và giúp mở
rộng sự chấp nhận sầu riêng, mở ra một cánh cửa cho người tiêu dùng châu Mỹ và
châu Âu; và như nhiều người Thái, họ có thể từ chối loại quả có mùi hơi như chiếc vớ
thể thao chưa giặt sạch từ mùa tập trước. Tiến sĩ Songpol nói: “Hầu hết người Thái
khơng thích những mùi quá nặng, ngoại trừ một số người cao tuổi”.


Những người u thích sầu riêng đã có lần hồi nghi và khó chịu với viễn cảnh sầu
riêng không mùi. Họ phàn nàn rằng trái cây đang thuần nhất như cà chua nhạt nhẽo
được sản xuất để nhìn đẹp hơn dưới lớp vỏ bao bọc bằng nhựa.


Somchai Tadchang, ông chủ một vườn cây sầu riêng ở Kret, một hịn đảo trên sơng
Chao Phraya phía bắc Bangkok, nơi sầu riêng đặc biệt Gan Yao (thân dài) bán với giá
hơn $40 mỗi trái, tương đương với tiền công sau nhiều ngày làm việc của một người lao
động ở đây, ơng nói: “Tơi nghĩ khơng thể tạo ra sầu riêng khơng mùi. Dẫu sao, sầu riêng
thật thì có mùi thơm. Chỉ có sầu riêng hư mới bốc mùi”.


Sầu riêng hầu như không mùi đã không được tiết lộ chính thức và sẽ nhận được sự
chấp thuận từ Bộ Nơng nghiệp Thái Lan trong nhiều tuần tới.


Thậm chí khái niệm sầu riêng khơng mùi cịn khó hiểu đối với những ai sống ở



</div>
<span class='text_page_counter'>(148)</span><div class='page_container' data-page=148>

Chang Peik Seng, chủ nơng trại sầu riêng ở Penang, một hịn đảo của Malaysia nói:
“Mùi phải là mùi thật tốt ra từ quả sầu riêng”. Phải mất nhiều phút để giải thích khái
niệm cho ơng Chang, và ơng đưa ra kết luận cuối cùng rằng sầu riêng không mùi sẽ
khơng được bày bán ở nước ơng. Ơng nói: “Nếu sầu riêng khơng nặng mùi thì khách
hàng chỉ trả có 1/3 giá mà thơi”.


Tiến sĩ Songpol đã phát triển một loại sầu riêng khác có thể làm hài lòng người dân
Malaysia và Indonesia. Mùi hăng của giống sầu riêng đó, Chantaburi số 3, sẽ phát triển
3 ngày sau khi thu hoạch cho phép không bốc mùi trong q trình vận chuyển.


Khơng có một loại trái cây nào khác có thể gợi nên cảm xúc mạnh mẽ và khiến người ta
có thể thay đổi thình lình như sầu riêng. Nhưng tai họa có thể ập đến đối với những
người quá đam mê sầu riêng. Hiếm khi có mùa sầu riêng nào qua đi mà khơng có báo
cáo của báo chí ở Đơng Nam Á về việc tử vong do sầu riêng. Theo Wilailak Srisura, một
nhà dinh dưỡng ở Bộ Y Tế Thái Lan thì loại trái cây này rất giàu carbonhydrate, protein,
chất béo và hợp chất chứa lưu huỳnh (vì vậy mới có mùi hăng), được cho là loại thực
phẩm ”nóng” và vì vậy có thể gây tử vong cho những người đang mắc bệnh cao huyết
áp.


Theo truyền thống cũng lưu truyền rằng phải tránh hịa trộn rượu với sầu riêng vì bất kỳ
lý do gì. Ơng Somchai, chủ vườn trái cây nói: “Sầu riêng tính “nóng” và rượu cũng làm
bạn “nóng”, đó là sức nóng gấp đơi”. Tiến sĩ Songpol nói ơng khơng tìm thấy một giải
thích khoa học nào về vấn đề tại sao sầu riêng và rượu khơng tương thích với nhau
nhưng sẽ khơng dám dùng thử 2 thứ cùng một lúc.


Lớn lên giữa một vườn ăn trái, Tiến sĩ Songpol bắt đầu nghiên cứu về trái cây năm
1977 khi vừa tốt nghiệp đại học ngành nông nghiệp. Với niềm lo lắng rằng nhiều giống
cây sẽ biến mất vì trồng trọt được thương nghiệp hóa, ơng đã sưu tầm hàng tá loại cây
từ nhiều nơi trên thế giới và trồng chúng ở Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp



</div>
<span class='text_page_counter'>(149)</span><div class='page_container' data-page=149>

Tiến sĩ Songpol đã tiến hành nhiều thí nghiệm kết hợp lai các giống sầu riêng trước khi
khám phá ra Chantaburi Số 1. Vụ mùa năm nay chưa chín tới nhưng những người đã
nếm và ngửi sầu riêng năm ngối nói rằng trái cây năm nay có mùi rất nhẹ. Saowanee
Srisuma, người chăm sóc vườn cây ăn quả nói đó là mùi sầu riêng dịu nhẹ nhất mà ông
từng ngửi thấy trong 10 năm làm việc ở đây. Suchart Vichitrananda, giám đốc Trung
tâm nghiên cứu trồng trọt nơng nghiệp, nói sầu riêng Chantaburi Số 1 khơng có mùi,
nhưng khi miêu tả hương vị của giống trái cây này, ơng ngập ngừng: “Khơng thể nói
giống sầu riêng này tốt hơn loại nguyên bản nhưng hy vọng sẽ có nhiều triển vọng hơn”.
Những người u thích sầu riêng lo ngại rằng những quả sầu riêng hầu như khơng có
mùi chỉ là một cách khác làm bào mịn nền văn hóa sầu riêng. Sầu riêng là một loại trái
cây cộng đồng, được bán theo truyền thống và được nhiều nhóm bạn thưởng thức trên
vỉa hè. Trái này có cùng phương pháp phân tích giống với rượu, được ngửi mùi và bàn
luận trong bữa tiệc tối của người Paris .


Gần đây sầu riêng bán chạy ở nhiều siêu thị và có thể dùng ngay sau khi mua: chỉ việc
tách vỏ ngoài lấy các múi quả gói giấy bóng kính lại vì giấy này có thể làm giảm bớt mùi
sầu riêng ra xung quanh.


Ở Thái Lan, nơi đã thương nghiệp hóa dữ dội ngành trái cây, thì những người nơng dân
ở Montong có nhiều chuyên môn về loại quả ngọt hơn, hầu như vị ngọt là nhờ các loại
đường saccharine trong quả. Nông dân Thái Lan sử dụng hóa chất để kích thích cây
sầu riêng ra quả trái mùa, vì vậy vùng Montong ln sẵn có sầu riêng quanh năm và
đem bán trên tồn thế giới. Năm ngối, Thái Lan đã bán được khoảng 50 triệu quả sầu
riêng ra nước ngồi trị giá khoảng 90 triệu đơla.


Sầu riêng đã có ở Mỹ từ hàng thế kỉ trước, hầu hết ở tiệm bán rau quả châu Á. Theo Bộ
Nông nghiệp, năm ngoái, Mỹ nhập khẩu gần một ngàn tấn sầu riêng, toàn bộ là từ Thái
Lan với tổng trị giá hơn 1,7 triệu đôla.



</div>
<span class='text_page_counter'>(150)</span><div class='page_container' data-page=150>

bán sỉ từ $3.50 đến $4 một pound, và bán lẻ khoảng $35 cho một trái cỡ 7 pound. Một
trái sầu riêng đơng lạnh có giá khoảng $10.


Tiến sĩ Songpol, 52 tuổi, nói cơng việc của ơng cịn lâu mới hồn thành. Ông đang vẽ
biểu đồ DNA của sầu riêng và hy vọng một ngày nào đó có thể xác định được gen mùi
hăng của nó. Và trong lúc chờ đợi, ông đang cố gắng sản xuất ra một loại sầu riêng lấy
tên ”duri” – theo tiếng Malaysia có nghĩa là gai khơng nhọn.


Phương Ngọc Minakate
(Theo The New York Times)
<b>hoahocvietnam.com</b>


<b>VỤ KIỆN CHẤT NGỌT NHÂN TẠO</b>


Những nhà sản xuất chất ngọt nhân tạo bị kiện. Chất ngọt sắp sử a làm đề tài
tranh cãi gay gắt ở phòng xét xử. Skip to next paragraph Một bên là chất ngọt
nhân tạo trong túi màu xanh dương, hiệu Equal; và một bên là đối thủ cạnh
tranh đang bán chạy nhất với túi màu vàng, hiệu Splenda.


Nhà sản xuất của hãng Equal cho rằng Splenda đã lừa dối hàng triệu người tiêu dùng
qua truyền hình và tài liệu quảng cáo bằng cách đưa ra khái niệm là sản phẩm Splenda


được làm


</div>
<span class='text_page_counter'>(151)</span><div class='page_container' data-page=151>

đầu từ đường.


Thứ hai tuần sau, một vụ kiện của nhà sản xuất Equal, hãng Merisant, chống lại nhà
sản xuất của Splenda, công ty McNeil Nutritionals, đã được lên kế hoạch xét xử trước
bồi thẩm đoàn ở phiên tòa Liên bang quận Philadelphia.



Nhà lãnh đạo thị trường chất ngọt với nhiều cạnh tranh gay gắt tổng trị giá 1,5 tỉ đôla
hiện đang bị đe dọa. Equal đã một lần thống trị thị trường này, tìm hướng phát triển cho
hơn 6,000 sản phẩm tiêu thụ như Diet Coke và Diet Pepsi, hai hãng mua chất ngọt nhân
tạo nhiều nhất thế giới. Nhưng kể từ khi hãng Splenda xuất hiện vào cuối năm 1999,
Equal đã bị hất ra một bên và Splenda hiện nay đang giữ vị trí số 1 chiếm 62% thị
trường ở Mỹ.


Thật khơng bình thường khi một cuộc tranh chấp về quảng cáo dẫn đến xét xử trước
ban hội thẩm. Vụ việc xốy vào dịng giới thiệu của hãng Splenda: “Làm từ đường nên
mùi vị như đường” – một bằng chứng mà Equal chế nhạo giống như ”chuyện hoang
đường ở thành thị” trên trang web của hãng.


Trong khi cả hai phía đều chờ đợi một hội gồm những nhà sinh học thần kinh và nhà
hóa học là những chuyên gia làm sáng tỏ vụ việc thì cuộc tranh cãi xoay quanh vai trị
của ngơn ngữ trong việc tạo dựng và định nghĩa sản phẩm.


Tháng trước, thẩm phán xem xét vụ việc, Gene E. K. Pratter, đã cho ý kiến như sau:
“Cụm từ ‘làm từ đường’ có vẻ như đủ đơn giản rồi nhưng nó đã sản sinh ra một trận
chiến kéo dài giữa hai phía về việc dùng cách diễn đạt và cú pháp thích hợp”.


“Ví dụ, hãng McNeil cho rằng cụm từ ‘làm từ đường’ rõ ràng loại trừ việc giải thích rằng
sản phẩm Splenda là đường hay Splenda được làm với đường”. Cơ nói tiếp: “Làm với
đường có nghĩa đường là một thành phần có tên trong danh sách trên bao bì. Bày vẽ
thường là cơng cụ khoa trương hiệu quả, McNeil đặt câu hỏi là làm thế nào người tiêu
dùng có thể hiểu rằng một sản phẩm ‘làm từ đường’ và ‘vị như đường’ thật sự là
đường?”


Kevin L. Keller, một giáo sư chuyên ngành tiếp thị ở Trường kinh doanh Tuck ở


</div>
<span class='text_page_counter'>(152)</span><div class='page_container' data-page=152>

sự thật trong mỗi nhận định khác nhau này như thế nào”.



Merisant đang tìm một sự chi trả tối thiểu 176 triệu đôla trong lợi nhuận của Splenda
cũng như sự phê chuẩn của tòa án để buộc nhà sản xuất hãng Splenda phải điều chỉnh
lại cách tiếp thị và quảng cáo. Phiên xét xử của bồi thẩm đồn ước đốn kéo dài 2 tuần.
Thành phần chính của Splenda là chất làm ngọt phi dinh dưỡng không phát triển trên
những cánh đồng mía hay xuất hiện trong thiên nhiên ở bất kì nơi đâu. Hơn nữa,
nguyên liệu chính là đường sucralose được sản xuất trong phịng thí nghiệm như một
hợp chất tổng hợp. Mặc dù tên nghe quen tai nhưng sucralose hồn tồn khơng giống
như sucrose, tên chuyên môn của đường khối nguyên chất.


Nhà sản xuất hãng Splenda, McNeil, một đơn vị của hãng dược phẩm và tiêu thụ sản
phẩm khồng lồ Johnson & Johnson, đã sáng chế nhiều cách để sản xuất sucralose. Một
số thì dựa trên sucrose. Thậm chí có một loại cịn dựa trên raffinose, một chất liên quan
đến đường được tìm thấy trong đậu, củ hành tây và bông cải. Nhưng một số loại khác
dựa trên những chất không phải đường – một điều mà nhà sản xuất của hãng Equal đã
nắm vững thông tin qua việc tìm kiếm trong các tài liệu sáng chế.


McNeil nói q trình sản xuất Splenda bắt đầu từ đường đơn nguyên chất. Để làm
sucralose, McNeil cho thêm 3 nguyên tử chlorine được tìm thấy tự nhiên trong thực
phẩm như muối và rau diếp vào 1 phân tử sucrose. Sucrose biến mất trong quá trình
sản xuất nhưng kết quả là — sucralose — ngọt gấp 600 lần so với đường khối thơng
thường. Sau đó Splenda trộn hai nhân tố lớn hơn là dextrose và maltodextrin vào
sucralose. Chất hóa học này thật phức tạp và có thể cản trở bồi thẩm đồn lắng nghe
về quy trình sản xuất là bắt đầu bằng đường nhưng kết thúc cho thành phẩm thì lại mất
nó.


Mặc dù điểm xuất phát là dùng đường để sản xuất sucralose, nhưng dịng chữ “đường”
hay “sucrose” đã khơng thấy xuất hiện trên danh sách thành phần của Splenda. Điều
này là vì theo quy định của Bộ thực phẩm và dược phẩm F.D.A. không thể lên danh
sách liệt kê một chất đã bay hơi trong quá trình sản xuất.



</div>
<span class='text_page_counter'>(153)</span><div class='page_container' data-page=153>

quá trình nhiều giai đoạn mà khởi đầu là bằng đường mía”. Nhưng sau đó hãng nói
thêm: “Splenda là một chất ngọt nhân tạo khơng có đường” – vì vậy có thể đốn rằng
đường đã biến mất trong quá trình sản xuất.


Trong giấy tờ đệ trình lên tịa án và đã được niêm phong – nhưng rồi tháng trước thẩm
phán đã đem trích dẫn khi bà đưa ra ý kiến của mình – McNeil thừa nhận “đường khơng
chuyển hóa/sucrose khơng phải là thành phần đường Splenda”. Rebecca Tushnet, một
giáo sư về luật quảng cáo ở Đại học Georgetown, một người đã theo suốt vụ việc nói:
“Vấn đề trọng tâm ở đây là bạn có thể nói gì về sản phẩm được sản xuất trong phịng
thí nghiệm và mối liên hệ của nó với thiên nhiên? Bạn giả thuyết là nó tự nhiên bao
nhiêu và liệu vì những thành phần được tìm thấy trong tự nhiên hay là cơ thể bạn
chuyển hóa nó một cách tự nhiên?”


Skip to next paragraphMerisant tranh cãi rằng nó là chất hóa học, vị ngọt của Splenda
không phải do đường. Luật sư chính bên phía của Merisant, Gregory LoCascio của
cơng ty luật Kirkland & Ellis nói: “Vào cuối ngày, họ nói Splenda là ‘làm từ đường’. Mọi
người nghĩ nó là đường không tạo năng lượng, đường đã gạn lọc hay đường kì diệu
nhưng nó khơng phải thế. Nó là chất làm ngọt nhân tạo”.


Những luật sư chính bào chữa cho McNeil nhắc đến những yêu cầu của người phát
ngôn McNeil, Julie Keenan, người cung cấp lời tuyên bố Splenda “được làm từ đường
mía nguyên chất bằng một quá trình sáng tạo làm 3 nguyên tử chuyển hóa thành phân
tử đường (sucrose)”. Bà nói: “Kết quả chất ngọt gọi là sucralose vẫn duy trì vị ngọt của
đường”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(154)</span><div class='page_container' data-page=154>

Hơn nữa, Equal có thể nắm thế mạnh nếu liên minh trong trận chiến kiện hãng Splenda
với: Hiệp hội sản xuất đường mía, một tập đoàn hành lang và thương mại với 10 tỉ đơla
trong ngành cơng nghiệp đường mía thiên nhiên của Mỹ. Hội liên hiệp đã đơn phương
kiện những nhà sản xuất hãng Splenda về việc tuyên bố sản phẩm có liên quan đến


đường.


Những cuộc chiến pháp lý về tính xác thực của sản phẩm tiêu thụ khơng phải mới mẻ
gì. Năm 1996, nhà sản xuất Ragu, Conopco, đã thất bại khi kiện nhà sản xuất của
Prego, cơng ty Soup Campell, do Prego nói rằng nước chấm Prego là “cô đặc nhất”.
Trong một vụ kiện khác, hãng Hot Wax cũng đã thất bại khi kiện Turtle Wax vào năm
1999, tranh luận hãng đã khiến người tiêu dùng cảm tưởng là sáp đánh bóng xe hơi thật
sự chứa sáp (thật ra là khơng có sáp).


Sản phẩm Equal được bán lần đầu tiên vào năm 1982 bởi G. D. Searle, sau đó được
hãng Monsanto mua lại. Merisant, một công ty tư nhân ở Chicago được miêu tả như
chàng David nhỏ bé bên cạnh người khổng lồ McNeil, đã mua lại Equal là một phần
kinh doanh của Monsanto vào tháng 3 năm 2000. Một nhãn hiệu khác của đường
aspartame, NutraSweet, được bán bởi công ty Nutra-Sweet, cũng ở Chicago.


</div>
<span class='text_page_counter'>(155)</span><div class='page_container' data-page=155>

Trong vòng chưa đầy một thế kỉ, Splenda đã thống trị thị trường chất ngọt nhân tạo ở
Mỹ. Năm ngoái doanh thu của hãng là 212 triệu đôla, làm giảm doanh số bán của Equal
là 49 triệu đôla. Hiện nay, Splenda khơng chỉ bán trong các bao gói nhỏ và thùng lớn mà
cịn có mặt trong các sản phẩm Cocoa Puffs, Diet Coke, Pedialyte và gần 4.500 sản
phẩm tiêu thụ khác.


Trong hồ sơ phiên tịa, Merisant trích dẫn lời quảng cáo của Alchemy, một công ty
quảng cáo của hãng Splenda là “quyết định đặt Splenda như là đường phi nhân tạo”.
Trong loạt bài giới thiệu này, cơng ty quảng cáo nói rằng Splenda phải được xem như
“đường không cung cấp năng lượng”, rời xa ý nghĩa của “chất làm ngọt nhân tạo”.


Một thời gian sau vào năm 2002, McNeil thêm vào dịng “nhưng khơng phải là đường”.
Lập tức, doanh số bán xuống dốc nhanh chóng. McNeil đã bỏ đi dịng chữ đó và trở lại
với câu “được làm như đường, vị như đường” và “nghĩ đến đường thì nói Splenda”.
Doanh số bán tăng trở lại.



Một lí do rõ ràng cho thấy người tiêu dùng bị thu phục bởi McNeil, theo một tuyên bố
được niêm phong và ghi chép bởi một luật sư của Merisant, người đã xem qua tài liệu
này, dòng giới thiệu “làm từ đường” khiến một số người mập mờ khơng rõ sản phẩm
Splenda có thật sự là tự nhiên. Lời chỉ trích được thẩm phán trích dẫn khi phát biểu ý
kiến của bà trong tháng 3.


Giáo sư Keller ở Dartmouth nói rằng “Tất cả đã tác động đến nhận định của người tiêu
dùng, họ đã hiểu lời quảng cáo như thế nào và hiểu có chính xác hay khơng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(156)</span><div class='page_container' data-page=156>

(Theo The New York Times)
hoahocvietnam.com


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' />

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×