Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa từ thực tiễn quận thanh xuân, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU TRANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Chính sách Cơng
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN



HÀ NỘI, 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC
DI SẢN VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT VỀ QUẬN THANH XUÂN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ...................................................................................................................................... 10

1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 10
1.2. Khái quát về quận Thanh Xuân ................................................................ 24
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI....................................................................................................................... 30

2.1. Hệ thống văn bản chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tại
quận Thanh Xuân ............................................................................................ 30
2.2. Thực trạng việc triển khai chính sách bảo tồn và phát huy giá trị Di sản
văn hóa tại quận Thanh Xuân.......................................................................... 43
2.3. Đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa tại quận Thanh Xuân.......................................................................... 54
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................... 61

3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị Di sản văn hóa tại quận Thanh Xuân............................................. 61
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị Di sản văn hóa tại quận Thanh Xuân .................................................... 64

3.3. Khuyến nghị với các cấp .......................................................................... 70
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DSVH
UBND
HĐND
QHCT

Di sản văn hóa
Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân
Quy hoạch chi tiết


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế giao lưu hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay, xu thế tất yếu của
nhiều quốc gia trên thế giới là bằng mọi cách khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân
tộc để hội nhập quốc tế và phát triển hợp lý, phù hợp với xã hội hiện đại, trong đó
có Việt Nam. Văn hóa là nguồn lực tinh thần to lớn của mỗi dân tộc thể hiện ra ở
những giá trị hàm chứa trong vốn Di sản văn hóa (DSVH), là tất cả những giá trị vật
thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên và văn hóa, là tất cả
những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia. Như vậy, có thể thấy rằng: Tìm
về cội nguồn và tìm về DSVH là một việc làm có ý nghĩa to lớn, bởi DSVH chính là
cội nguồn sức sống tiềm tàng to lớn của dân tộc, của mỗi quốc gia được tạo ra trong
quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát huy trong xã hội hiện đại.

Trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, những giá trị DSVH Việt
Nam vẫn trường tồn cho đến ngày nay. Kế thừa di sản văn hóa là quy luật tất yếu
của văn hóa, cơng tác bảo tồn, phát huy giá trị DSVH đóng một vai trị khơng kém
phần quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường
và mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao
bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, kế thừa và
phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lịng tự hào văn hóa dân tộc
Việt Nam. Tại Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn,
tơn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các DSVH vật thể và phi vật thể
của dân tộc, các giá trị nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng
các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian, kết hợp hài hòa việc
bảo tồn, phát huy các DSVH với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch.
Gắn liền với sự phát triển của Thăng Long - Hà Nội, quận Thanh Xuân đang
lưu giữ những DSVH vô cùng phong phú. Sự hiện diện của những di sản quý giá ấy
đã minh chứng cho bề dày lịch sử văn hóa hàng ngàn năm của mảnh đất cửa ngõ
phía Tây Nam Kinh thành Thăng Long - Hà Nội xưa.
1


Là vùng đất địa linh nhân kiệt, tụ khí anh hoa, quận Thanh Xuân trở thành
một trong những trung tâm, cái nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của thành Hà Nội.
Những tinh hoa văn hóa ấy lại được truyền tỏa đến mọi miền của đất nước. Trên
nền tảng của truyền thống hiếu học, từ bao đời nay, người dân Thanh Xuân đã xây
dựng cho mình nếp sống thuần phong mỹ tục. Nét đẹp ấy được thể hiện trong các
tập tục, trong các mối quan hệ ứng xử giữa cá nhân với dòng họ, với cộng đồng,
giữa các dòng họ, giữa các làng xã với nhau và cao hơn là trong mối quan hệ với
quốc gia, dân tộc. Sự hiện tồn của các DSVH vật thể và phi vật thể cùng sinh hoạt
làng xã sống động thông qua lễ hội đang từng ngày, từng giờ được khôi phục lại đã
khẳng định sức sống bền vững của những yếu tố truyền thống tốt đẹp trên vùng đất
Kẻ Mọc - Tam Khương xưa trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước

hơm nay.
Q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa làm cho các làng xã xưa của quận
Thanh Xuân có những thay đổi mạnh mẽ. Q trình đó đã tác động không nhỏ đến
mọi mặt đời sống của nhân dân địa phương. Địa bàn chuyển biến nhanh nhất phải
kể đến các làng nằm ở phía Đơng Bắc của quận như làng Khương Trung (thuộc
phường Khương Trung, một phần phường Khương Mai); làng Phương Liệt (phường
Phương Liệt); làng Thượng Đình (phường Thượng Đình - một phần Hạ Đình). Các
làng nằm ở phía Tây Bắc, Đơng Nam của quận như phường Nhân Chính, phường
Khương Đình, Hạ Đình, sự chuyển biến có phần chậm hơn. Tuy vậy, tính chất làng
xã xưa cịn bảo lưu khá đậm nét trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của nhân dân
tại các địa phương này. Phần phía Tây Nam của quận thuộc địa bàn các phường
Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam, một phần của phường
Nhân Chính là nơi hình thành các nhà máy, xí nghiệp, các khu nhà ở tập thể, chung
cư cao tầng, là nơi nhiều luồng cư dân từ nơi khác chuyển về sinh sống, do đó
những vết tích của ruộng vườn ao hồ, làng xã cũ phần nhiều bị khỏa lấp, nếp sinh
hoạt làng xã xưa trên địa bàn này cũng vì thế bị mai một dần.
Khu vực đường vành đai 3, hướng đi cầu Thanh Trì được giải phóng mặt
bằng, hình thành tuyến đường mới Khuất Duy Tiến - Nguyễn Xiển. Những khu dân
2


cư cũ thuộc các làng Nhân Chính, Hạ Đình, Kim Giang nhường chỗ cho các dự án
xây dựng khu chung cư, đường giao thông... phục vụ đời sống dân sinh. Hiện tại
khu dân cư thuộc làng xã xưa đã trở thành những khu vực đan xen, chia hai phần rõ
rệt: khu vực thuộc các làng xã cũ một phần thuộc các phường Phương Liệt, Khương
Đình, Hạ Đình, Khương Trung, Nhân Chính vẫn cịn tồn tại những nếp nhà truyền
thống, từ đường các dòng họ, người dân sống quây quần theo dịng họ, theo ngõ
xóm, mối quan hệ trong cộng đồng dân cư khá mật thiết. Khu dân cư mới xây dựng
về sau này trên địa bàn các phường Khương Mai, Kim Giang, Thượng Đình, Thanh
Xuân Bắc, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam và một phần Nhân Chính, đại bộ

phận là các khu nhà lắp ghép, tập thể, nhà cao tầng khép kín tách biệt và các khu
chung cư hiện đại.
Tất cả những sự thay đổi nói trên cho thấy tồn cảnh diện mạo đời sống văn
hóa tinh thần của cộng đồng cư dân Thanh Xuân ngày nay vừa bảo lưu, phát huy
những yếu tố văn hóa truyền thống, vừa hội nhập những yếu tố văn hóa hiện đại,
trong đó ít nhiều có tiếp thu văn hóa từ các vùng miền trong cả nước, tạo thành một
“phức hợp” văn hóa đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, nhắc đến Thanh Xuân, ở khía cạnh nào đó, nhất là về các DSVH
lại chưa xứng tầm với tiềm năng vốn có của nó, vẫn cịn đó tình trạng các Di tích bị
xâm lấn, chưa được giải tỏa, một số Di tích bị xuống cấp trầm trọng chưa được kịp
thời trùng tu, nhiều DSVH vật thể, trong đó có lễ hội lớn mang nhiều nét độc đáo
riêng có của Thanh Xn như lễ hội Đình Vịng, Lễ hội 5 Làng Mọc, rất cần phát
huy, gìn giữ ; cao hơn nữa làm sao để gắn chặt phát triển văn hóa với phát triển kinh
tế, phát huy giá trị các DSVH gắn liền với phát triển du lịch, chính vì vậy tác giả
luận văn mong muốn tập trung nghiên cứu Đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị Di sản văn hóa từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội”, là một hoạt động có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và cấp bách đối với quận Thanh
Xuân nói riêng, Hà Nội và cả nước nói chung.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình thực hiện và nghiên cứu về chính sách bảo tồn, phát huy
giá trị các Di sản văn hóa ở Việt Nam
Lịch sử dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm xây dựng và phát triển, để lại cho
chúng ta hôm nay những di sản văn hố vơ cùng q giá. Nhiệm vụ của chúng ta
hiện nay là bảo tồn các di sản văn hoá, khai thác, sử dụng và phát huy những giá trị
của di sản văn hoá ấy một cách hợp lý, bền vững và hiệu quả.
Một thời gian dài do hoàn cảnh lịch sử, những hoạt động gắn với việc bảo

tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá thiếu vắng trong sinh hoạt văn hoá cộng
đồng. Nhiều di sản văn hố khơng được trân trọng đúng mức, nhất là những cơng
trình kiến trúc tơn giáo - tín ngưỡng bị bng lỏng quản lý, sử dụng khơng đúng
chức năng vốn có của nó, hoặc bị xâm phạm và xem thường dẫn đến sự tự huỷ hoại
chúng theo thời gian.
Trước thực trạng đó, hàng ngàn di tích được xếp hạng và tu bổ trong mấy
chục năm qua đã thể hiện sự nỗ lực to lớn của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo
vệ di tích. Song do đất nước còn nghèo, nhất là giai đoạn vừa trải qua 2 cuộc chiến
tranh xâm lược, trước mắt tập trung phát triển kinh tế, chúng ta chưa có điều kiện
chăm lo, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị các DSVH. Trong những năm gần đây
mặc dù đã có nhiều cố gắng song đến nay nhiều di tích bị vi phạm chưa được giải
tỏa do phần lớn các vi phạm này đã diễn ra từ hàng chục năm nay, nhiều di tích bị
xuống cấp trầm trọng. Việc giải quyết cần quyết tâm và sự phối hợp đồng bộ của
nhiều cấp, nhiều ngành.
Phần lớn các di tích sau khi được ghi tên vào danh mục các DSVH và thiên
nhiên thế giới đều trở thành những điểm đến du lịch hấp dẫn, thu hút hàng triệu du
khách trong và ngoài nước đến mỗi năm. Điều này mang lại nguồn thu không nhỏ
cho đất nước, tạo thêm công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần thay đổi
cơ cấu kinh tế của địa phương như các chương trình Festival Huế, Đêm hội trăng
rằm phố cổ Hội An…, đã thu hút nhiều khách tham quan và dần trở thành ngày hội
văn hóa lớn của cả nước.
4


Thời gian qua, việc trùng tu mới chỉ tập trung ở những di tích nổi tiếng, song
cũng ít di tích được đầu tư tu bổ hoàn chỉnh từ kiến trúc tới hạ tầng, mới chỉ ưu tiên
trùng tu từng hạng mục hoặc một số hạng mục bị xuống cấp trầm trọng. Bên cạnh
đó chất lượng tu bổ di tích chưa đạt yêu cầu. Việc tăng cường quản lý nhà nước và
xây dựng đội ngũ kiến trúc sư, nghệ nhân, các chuyên gia về sử học, các nghệ nhân,
công nhân lành nghề…, phục vụ tu bổ di tích là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay.

Trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị Di sản hiện nay còn bộc lộ
những thiếu sót đó là:
- Nhận thức của tồn xã hội nói chung, các cấp lãnh đạo nói riêng về bảo tồn
và phát huy DSVH chưa toàn diện, chưa sâu sắc, còn hạn chế,
- Chúng ta còn lúng túng trong việc xử lý một cách hài hòa mối quan hệ giữa
bảo tồn và phát triển, chưa nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của Di tích trong quá
trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, cá biệt có lúc, có nơi vẫn tồn tại xu
hướng thương mại hóa di tích, đặt các mục tiêu, dự án phát triển kinh tế cao hơn các
mục tiêu về bảo vệ di tích, có những dự án về phát triển kinh tế, khai thác nhưng
không quan tâm đề xuất các biện pháp để bảo tồn di tích.
- Cơng tác quản lý di tích vẫn tiếp tục được củng cố, tập trung giải quyết các
Di tích cần phải giải tỏa vi phạm.
- Cơng tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị Di sản còn thiếu
định hướng, thiếu chính sách, chế tài để khuyến khích, kêu gọi sự đóng góp của các
tổ chức, cá nhân. Các nguồn lực do dân đóng góp chưa được quản lý minh bạch rõ
ràng, nên việc sử dụng chưa thực sự hiệu quả.
2.2. Tình hình thực hiện và nghiên cứu về chính sách bảo tồn, phát huy
giá trị các Di sản văn hóa tại quận Thanh Xuân
Quận Thanh Xuân là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hố và cách mạng
được phản ánh đậm nét trong DSVH vật thể và phi vật thể còn lưu giữ được đến
ngày nay. Bề dày lịch sử ấy còn được biểu hiện qua tên đất, tên làng, tên phố như:
Kẻ Mọc; Giáp Nhất, Khương Hạ, Phương Liệt; đường Lai Kinh, Cầu Nhân Mục...
hay các kiến trúc nổi tiếng như đình, chùa và cổng làng xưa. Đó cịn là khu di tích
5


lịch sử chống quân Minh - Gò Đống thây, Lễ hội 5 Làng Mọc nổi tiếng, với các
làng khoa bảng như Giáp Nhất, Thượng Đình, Hạ Đình, Phương Liệt… cũng như
nghề thủ công cổ truyền và sản vật đặc sắc - những thành quả lao động được kết
hợp từ trí tuệ sáng tạo, bàn tay tài khéo của nhân dân ta, được tích tụ và lưu truyền

từ đời này qua đời khác. Thanh Xuân còn là nơi sinh sống của các nhà quân sự, trí
thức, văn nghệ sĩ yêu nước trên mọi miền Tổ quốc về chiến đấu, lao động, học tập,
lập nghiệp, tạo cho Thanh Xuân một diện mạo văn hoá đa dạng từ mọi miền đất
nước, vừa phong phú, vừa năng động, luôn luôn tiếp thu cái mới.
Trên địa bàn quận có nhiều điểm di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh khi
Người về thăm các Nhà máy trong Khu cơng nghiệp Thượng Đình hay nơi Người
tun bố thành lập Binh chủng Đặc công thuộc phường Thanh Xn Bắc. Phường
Khương Mai có di tích Sở chỉ huy K18 - Cơ quan đầu não Phịng khơng Quốc gia,
trực tiếp chỉ huy các phi đội không quân, pháo cao xạ chiến đấu, đập tan cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên bầu trời miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Trên địa bàn quận tập trung nhiều loại hình di sản văn hoá như:
- Di sản văn hoá vật thể: Chủ yếu là các di tích lịch sử văn hố, cách mạng
kháng chiến như mộ chí danh nhân, văn chỉ, bi ký, sắc phong, bằng lưu niệm, đồ
lưu niệm, các đồ thờ tự, tế khí, văn tự thư tịch cổ, nhạc khí và ấn phẩm trong các gia
đình, nhà thờ họ tộc, trong đền, miếu, đình, chùa…
- Di sản văn hoá phi vật thể: Tập trung vào làng nghề truyền thống, lễ hội,
phong tục tập quán, lối sống, nếp sống, truyền thống hiếu học… văn hóa dân gian
truyền miệng như tục ngữ, dân ca, ca dao, ca trù, các bài văn tế, thơ ca và nhạc lễ ở
đền, miếu, đình, chùa, nhà thờ họ, trong các dịp hiếu hỉ, hội làng hay các điệu múa,
rước kiệu…
Luật Di sản văn hoá đã khẳng định: Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn
hố thuộc sở hữu tồn dân và có chính sách bảo vệ, phát huy giá trị của chúng nhằm
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước đóng góp, tài
trợ cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hoá dân tộc.
6


Chúng ta phải coi những di sản ấy là vô giá, là tài sản do các thế hệ ông cha
truyền lại, cần được trân trọng giữ gìn và phát huy. Các di sản văn hố ấy kết tinh

tài năng trí tuệ và sức sáng tạo bền bỉ của tiền nhân. Đây cũng chính là những sản
phẩm lao động được các thế hệ sàng lọc và trường tồn theo thời gian và khơng gian
lịch sử. Đó là thơng điệp từ q khứ gửi lại cho mai sau, để lại cho chúng ta tri thức,
kinh nghiệm trong lao động và chiến đấu để bảo vệ sự sống sinh tồn và phát triển
của mỗi cá nhân và cả dân tộc. Di sản ấy chỉ cho chúng ta cách thức ứng xử hài hòa
với thiên nhiên và cộng đồng; đem đến cho chúng ta niềm vui thưởng thức và giải
trí các giá trị văn hóa. Chúng ta có thể tự đặt cho mình một câu hỏi: Tại sao cha ông
ta bảo tồn và lưu truyền được đến ngày nay còn chúng ta để mai một và thất
truyền?. Chúng ta chỉ có thể bảo tồn, khai thác phát huy hiệu quả sức mạnh tiềm
tàng, vô tận của di sản văn hoá nếu hiểu và làm đúng bản chất sinh thành và tồn tại
của DSVH. DSVH hình thành từ quá trình lâu dài học hỏi, lao động sản xuất, chiến
đấu tự bảo vệ để sinh tồn, từ tình yêu thương giữa người với người và từ tình u
q hương đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lý luận chính sách Bảo tồn và phát huy giá trị Di tích văn hóa để
xem xét thực tiễn thực hiện chính sách, thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH, đề xuất những giải pháp hồn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH trên địa bàn quận Thanh Xuân trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về chính sách bảo tồn, phát huy giá
trị các DSVH ở Việt Nam hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Nghiên cứu và tìm ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở quận Thanh Xuân.
7



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội thông qua các hoạt động
quản lý Nhà nước đối với các Di tích văn hóa của UBND quận, đồng thời nghiên
cứu hoạt động quản lý, bảo vệ, khai thác và phát huy giá trị các DSVH của các cơ
quan chức năng và nhân dân trên địa bàn quận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH trên địa bàn quận Thanh Xuân từ năm 2012 đến nay.
Phạm vi không gian: Địa bàn quận Thanh Xuân
Phạm vi nội dung: Các chính sách về DSVH gồm Luật DSVH năm 2001, sửa
đổi năm 2009 và các văn bản qui phạm pháp luật của Chính phủ và Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch về DSVH.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp tổng hợp tài liệu: tài liệu khoa học, văn bản quản lý, báo chí liên
quan đến quản lý nhà nước về văn hóa nói chung và quản lý các hoạt động về bảo tồn,
phát huy giá trị các DSVH ở Việt Nam nói chung và quận Thanh Xuân nói riêng.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Đối tượng phỏng vấn là các cán bộ lãnh
đạo chính quyền các cấp, cán bộ làm cơng tác quản lý văn hóa ở quận, phường và
những người trực tiếp tham gia hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH trên
địa bàn quận.
Ngoài ra sử dụng phương pháp khảo sát; phương pháp thống kê, so sánh,
phân tích đánh giá chính sách…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa những lý luận chung về chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị các DSVH ở Việt Nam hiện nay.

8



- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa nói chung DSVH nói
riêng trong những năm qua ở quận, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả chất lượng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở quận
Thanh Xuân trong thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
quản lý văn hóa, kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ trực tiếp lãnh đạo, quản lý các
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nói chung, quản lý nhà nước về các
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH cấp quận nói riêng, thơng qua đó giáo
dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ. Vì trước thực trạng hiện nay các giá trị
lịch sử, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa của nhân dân chưa thực sự được coi trọng.
7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các Di sản
văn hóa và khái quát về quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Chương 2. Thực trạng việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
Di sản văn hóa từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Chương 3. Phương hướng, giải pháp và khuyến nghị nâng cao chất lượng
thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa tại quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
CÁC DI SẢN VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT VỀ QUẬN THANH XUÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm Chính sách và Chính sách cơng
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về chính sách hay chính sách cơng, có
thể hiểu đơn giản, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay
các nhà quản lý đề ra nhằm giải quyết một số vấn đề nào đó trong phạm vi thẩm
quyền của mình.
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra khái niệm “Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong
thời gian nhất định, trên nhiều lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa...” .
Thuật ngữ Chính sách cơng được sử dụng rất phổ biến ở các quốc gia. Với
nhiều cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều
định nghĩa khác nhau: “Chính sách cơng là tất cả những gì Nhà nước chọn làm
hoặc khơng làm” (Thomas R. Dye, 1984).
“Chính sách cơng là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề
phát sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” (Giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách
cơng, của Học viện Hành chính Quốc gia, 2013) [40]
“Chính sách cơng là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng
và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện giải quyết
các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”. (PGS.TS. Đỗ Phú Hải) [36]
Như vậy, các khái niệm, định nghĩa có khác nhau, song trong chừng mực
nhất định đều có các nội hàm sau:
10


- Chính sách cơng là chính sách của Nhà nước.
- Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau.
- Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề xã hội

theo ý chí của Đảng cầm quyền.
1.1.1.2. Khái niệm Văn hóa, chính sách văn hóa và Di sản văn hóa, chính
sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng, liên quan đến đời sống vật
chất và tinh thần của con người; xuất phát từ nhiều cách tiếp cận, có nhiều quan
niệm và cách lý giải khác nhau về văn hóa.
Quan điểm của triết học Mác - Lê Nin cho rằng “Văn hóa là tồn bộ thành
quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người hoạt động sản
xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người”,[46, tr
136,137], văn hóa là thiên nhiên thứ hai, thiên nhiên được con người cải biến. Văn
hóa là “tác phẩm của con người”, là phương thức hoạt động sống đặc thù, phương
thức hoạt động sống riêng có của con người. Đó là phương thức mà con người sử
dụng lao động sáng tạo của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản
chất cố hữu của mình” để cải tạo hiện thực khách quan, “nhào lặn”, “xây dựng”
thực tại khách quan cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp”.
Trong quan điểm của triết học Mác - Lê Nin, văn hóa khơng chỉ đóng vai trị
là cơ sở, nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại mà cịn là lĩnh vực ln
ảnh hướng đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đến sự phát triển xã hội.
Trong sự tác động và ảnh hưởng đó, văn hóa khơng chỉ ảnh hưởng đến ngun nhân
sinh ra nó đến tồn tại xã hội, đến q trình sản xuất vật chất của con người mà cịn
góp phần quyết định phương thức vận động và phát triển của lịch sử nhân loại, của
xã hội lồi người. Văn hóa đem lại cho con người sự điều chỉnh và định hướng hoạt
động của mình và qua đó, điều tiết q trình sản xuất vật chất, điều tiết sự phát triển
xã hội, trở thành nguồn nội sinh cho phát triển xã hội bền vững - phát triển vì mục
tiêu nhân văn, vì giá trị nhân đạo.

11


Hồ Chí Minh nhận định về văn hóa ở cấp độ khái quát như sau: “Vì lẽ sinh

tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn.” [46,
tr.431].
Từ đó, chúng ta thấy văn hóa là tồn bộ những gì con người tạo ra và lao
động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa. Văn hóa chỉ tất cả các khía cạnh
biểu tượng và học thức của xã hội lồi người. Văn hóa vật chất bao gồm các đồ vật,
công nghệ và cả một bộ phận nghệ thuật. Văn hóa phi vật chất bao gồm ngơn ngữ,
các kiến thức, kỹ năng, giá trị, tín ngưỡng và tập quán. Như vậy bản chất của văn
hóa là có tính người và tính xã hội. Văn hóa là một thực thể sống của con người.
“Người ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy và cảm thấy bằng những cách khác
nhau của một nền văn hóa, một thời đại văn hóa, một giá trị văn hóa do con người
tạo ra”.[45, tr.11].
Theo từ điển triết học “Văn hóa là tồn bộ giá trị vật chất và tinh thần do
con người tạo ra trong quá trình thực tiễn và xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình
độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”.”.[46, tr.656].
Tính phức tạp của nội hàm khái niệm văn hóa được thể hiện rõ khi bản thân
văn hóa là một yếu tốt mang tính “động”. Tính động ở đây chính là tính chất biến
đổi khơng ngừng của văn hóa theo tiến trình lịch sử cũng như thay đổi của nó theo
khơng gian văn hóa. Khi nói đến văn hóa, chúng ta phải xem xét trên cả hai chiều
thời gian và không gian, nếu thiếu đi một trong hai chiều nói trên thành tố văn hóa
sẽ trở nên phiến diện.
Tóm lại, trong luận văn này, tác giả luận văn sử dụng khái niệm văn hóa là
tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, tích lũy lại trong
q trình hoạt động thực tiễn - xã hội. Những giá trị vật chất và tinh thần đó làm nên
12



hệ giá trị xã hội, là một thành tốt cốt lõi tạo ra bản sắc riêng của một cộng đồng xã
hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của con người sống
trong cộng đồng xã hội ấy.
Khái niệm Chính sách văn hóa được UNESCO đưa ra: “Chính sách văn hóa
là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết định các cách thực hành, các
phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng
làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa”.
Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH là một bộ phận của chính sách
văn hố, nó được cụ thể hóa trong nhiều loại văn bản: Hiến pháp, Chiến lược phát
triển văn hóa, Luật DSVH, các Thông tư, Nghị định hướng dẫn Luật DSVH.
Việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH là việc triển khai
thực hiện Luật DSVH, các Thông tư, Nghị định của Chính phủ, các Thơng tư hướng
dẫn thực hiện Luật và các Nghị định bằng những hành động thiết thực nhằm bảo tồn
và phát huy giá trị to lớn của các DSVH.
Di sản văn hóa : Theo nghĩa Hán Việt, DSVH là những tài sản có giá trị của
quá khứ còn tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. Di là để lại, còn lại,
dịch chuyển, chuyển lại. Sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. DSVH được
hiểu bằng sự tổng hợp của các ý nghĩa nói trên.
Năm 1989, UNESCO định nghĩa “DSVH là tập hợp những biểu hiện vật thể
hoặc biểu tượng di sản quá khứ truyền lại cho mỗi nền văn hóa và do đó là của tồn
thể nhân loại. Là một phần của việc khẳng định cũng như làm giàu thêm bản sắc văn
hóa, là một dạng di sản nhân loại, DSVH mang lại những đặc điểm riêng cho mỗi địa
danh cụ thể và vì thế nên là nơi cất giữ kinh nghiệm con người. Việc bảo tồn và giới
thiệu DSVH này là cốt lõi của mọi chính sách văn hóa”.
Khái niệm DSVH Việt Nam được nêu tại lời mở đầu Luật DSVH Việt Nam
năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) sau đây gọi là Luật DSVH (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) như sau: “DSVH Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các Dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của DSVH nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân ta”.[41, tr.17]

13


Các loại DSVH Việt Nam được nêu tại điều 1 Luật Di sản (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) gồm: DSVH phi vật thể, DSVH vật thể là những sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa , khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo quan điểm trên con người bao giờ cũng có 2 nhu cầu cơ bản, đó là nhu
cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, hoạt động của con người cũng có 2 loại cơ bản,
đó là sản xuất ra của cải vật chất và sản xuất ra các giá trị tinh thần, tương ứng với
nó là những giá trị của DSVH vật thể và DSVH phi vật thể.
DSVH vật thể bao gồm toàn bộ những sản phẩm do sản xuất vật chất của con
người tạo ra như các cơng trình kiến trúc, cơng cụ sản xuất và sinh hoạt, đồ ăn, đồ
mặc, các phương tiện đi lại. DSVH vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ
yếu dưới dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường
nét, màu sắc, kiểm dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. DSVH vật
thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt.
DSVH vật thể được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài bản thân con
người, ln chịu sự thách thức của quy luật bào mịn của thời gian, trong sự tác
động của con người thời đại sau. DSVH vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng
hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên gốc. Do đó, vấn đề bảo tồn những DSVH vật
thể lâu đời địi hỏi cần cơng nghệ kỹ thuật cao mới có thể phục nguyên lại như cũ.
DSVH phi vật thể bao gồm những sản phẩm do hoạt động sản xuất tinh thần
của con người sáng tạo ra như phong tục, tập quán thể hiện trong lối sống, trong các
mối quan hệ xã hội của con người, các quy ước thể hiện mối quan hệ giữa các cá
nhân và cộng đồng, giữa con người với tổ tiên, với lực lượng siêu nhiên mà con
người ln tin tưởng. Đó là tồn bộ tri thức liên quan đến việc sản xuất ra của cải
vật chất để duy trì sự sống và phát triển của con người như sản xuất lương thực, y
học dân gian, văn hóa ẩm thực, nghề thủ cơng,.. đó cịn là các loại hình nghệ thuật
biểu diễn như âm nhạc, múa rối, sân khấu, các loại hình trình diễn cho đến kiến

trúc, trang trí, đồ họa,...các loại hình nghệ thuật ngôn từ như truyện kể, dân ca,
thành ngữ, tục ngữ, ca dao.
14


Trên thực tế, sự phân biệt 2 chủ thể loại DSVH như trên chỉ mang ý nghĩa
quy ước, bởi chúng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, khó phân biệt rạch rịi.
Cả 2 loại này sẽ mất đi nếu không được cộng đồng, cá nhân bảo tồn và phát huy.
1.1.1.3. Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa
Theo Từ điển tiếng Việt của Hồng Phê, “bảo tồn” có nghĩa là giữ lại khơng
để cho nó mất đi [39, tr.37], cịn “phát huy” là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng
và tiếp tục nảy nở thêm [39, tr.742].
Bảo tồn là không để mai một, “khơng để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái”.
Như vậy trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái niệm “cải biến”, “nâng
cao” hoặc “phát triển”.
Đối tượng bảo tồn, cần phải thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là “giá trị” đích thực được thừa nhận
minh bạch, khơng có gì phải hồ nghi, bàn cãi.
Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, tiềm năng, đứng vững lâu dài trước
những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là giai
đoạn hiện nay với chính sách mở cửa trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và q
trình tồn cầu hóa đang diễn ra hết sức sơi động.
Bảo tồn có 2 dạng: bảo tồn ngun vẹn (bảo tồn trong trạng thái “tĩnh” và
bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng “động”).
“Phát huy có nghĩa là cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác dụng và nảy nở
thêm”, phát huy DSVH chính là việc khai thác, sử dụng di sản một cách có hiệu
quả. Phát huy DSVH là một hoạt động có tính liên ngành, có tiêu chí chung, mục
đích là phục vụ cho tiến bộ của xã hội, cho việc phát triển du lịch bền vững và góp
phần quan trọng trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc, đồng thời là nhịp cầu nối với bạn bè năm châu.

Cách thức phát huy của mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau, điều đó tùy
thuộc vào văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng tất thảy các
hoạt động này đều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm tôn vinh vẻ đẹp và
phát triển các giá trị văn hóa đó. Hình thức chủ đạo của phát huy DSVH là quảng bá
15


hình ảnh của di sản trên mọi phương diện nhằm khai thác, thu hút khách đến tham
quan, đầu tư. Qua đó giúp việc phục hồi tối đa các giá trị văn hóa truyền thống, tạo
cơ hội giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau góp phần hiểu biết lẫn nhau và tăng
cường mối quan hệ quốc tế vì hịa bình, vì sự phát triển của xã hội. Mặt khác, nếu
biết phát huy lợi thế của DSVH thì đây cịn được xem như là một tiềm lực kinh tế
để phát triển xã hội.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều cho rằng DSVH tồn tại trong đời
sống kinh tế - xã hội như một tất yếu khách quan, minh chứng cho quá trình hình
thành và phát triển của quốc gia, dân tộc. Vì thế, DSVH là vấn đề được nhiều tổ
chức quốc tế quan tâm và được chú trọng trong quan điểm đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy Di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đề cao giá
trị của DSVH trong sự phát triển văn hóa của dân tộc. Quan điểm chỉ đạo của Đảng
ta trong suốt 88 năm qua là: Trân trọng, bảo vệ, kế thừa và phát huy những giá trị
văn hóa của dân tộc vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, vì tiến bộ của nhân dân.
Đặc biệt, từ năm 1986 đến nay, khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng ta
không chỉ đổi mới về kinh tế mà còn đổi mới về nhận thức và tư duy “Phát triển
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, gắn chặt với phát triển văn hóa”. Đảng ta
nhận thức một cách đúng đắn và sâu sắc hơn về vai trị của văn hóa trong phát triển
kinh tế- xã hội. Trên nền tảng đó, các DSVH được tơn tạo phát triển, góp phần làm
cho cuộc sống tinh thần của xã hội ngày càng phong phú.

Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VII (tháng 1/1993) đã khẳng định “Văn
hóa là nền tảng tinh thần xã hội, một động lực phát triển kinh tế -xã hội, đồng thời
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” [50] và đề ra nhiệm vụ: trước mắt tập trung xây
dựng để sớm ban hành Luật xuất bản và Luật bảo vệ DSVH dân tộc…, cần có chính
sách cụ thể bảo tồn và nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng dân tộc và từng dân
tộc. Vấn đề này cần được quan tâm một cách toàn diện từ sưu tầm, nghiên cứu, phổ
16


biến các DSVH dân tộc đến đào tạo cán bộ văn hóa cho các dân tộc… Nhà nước có
kế hoạch xây dựng các bảo tàng, bảo vệ và tôn trọng các di tích lịch sử, xây dựng
các tượng đài về các anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa ở Thủ đô và các thành
phố lớn.
Phát triển tư duy đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) Đảng ta đã
ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc và khẳng định: DSVH là tài sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc là cốt
lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết
sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học
và dân gian, văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể). [24]
Nghị quyết TW5 cũng đã nhấn mạnh việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
dân tộc. DSVH của dân tộc khơng chỉ bó hẹp ở phạm vi trong nước mà còn phải
“làm việc tốt, giới thiệu văn hóa đất nước và con người Việt Nam với thế giới”.[3]
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng tiếp tục nói rõ bảo
tồn và phát huy các DSVH dân tộc, các giá trị văn học nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ
viết, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Tơn tạo các di tích lịch sử - văn hóa và danh
lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh hoa và góp
phần làm phong phú nền văn hóa của nhân loại.[25, tr.115]
Trong Kết luận của Hội nghị TW10 khóa IX, mục tiêu các nhiệm vụ trung
tâm và giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới
được Đảng đề ra: trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn

hóa cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị của văn hóa Việt Nam đương
đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị tốt đẹp
của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hóa văn hóa thế giới,
bắt kịp sự phát triển của thời đại. [27,tr.243]
Đại hội X, Đảng ta xác định tiếp tục phát triển sâu rộng nâng cao chất lượng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ hơn giữa
văn hóa với phát triển kinh tế -xã hội. Làm cho văn hóa thấm sâu vào mỗi lĩnh vực
đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam.
17


Bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, sinh
viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống nâng cao năng lực trí tuệ, đạo đức
và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, chú trọng đến đầu tư trong việc bảo tồn,
tơn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, di tích văn hóa vật thể, phi vật
thể. Kết hợp hài hòa giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và phát triển bảo tồn di tích
lịch sử với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân
trong xây dựng văn hóa. Đồng thời tăng cường quản lý Nhà nước về văn hóa. Xây
dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định. Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế về văn hóa. Chống sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng, phản động. Xây
dựng, nâng cao đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa.
Tiếp tục phát triển các quan điểm của Đại hội trước, Đại hội XI của Đảng đã đưa
ra nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa tập trung vào 4 nội dung quan trọng:
Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng môi trưởng văn hóa lành mạnh, phong
phú, đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội,…
Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các
DSVH truyền thống, cách mạng.
Ba là, chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin giáo dục, tổ chức và

phản biện xã hội của các phương tiện thơng tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và
đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất
bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu
của thời kỳ mới.
Bốn là, đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. [29]
Từ những quan điểm trên của Đảng cho thấy, nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng mang bản sắc dân tộc, vừa phản ánh đậm cốt cách truyền thống dân tộc, vừa
hiện đại phù hợp với trào lưu tiến bộ chung của nhân loại.

18


Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời gian tới. Đây là định
hướng hết sức quan trọng cần được quán triệt, thống nhất nhận thức về một số vấn
đề chủ yếu sau:
Một là, nắm vững tư tưởng chỉ đạo phát triển văn hóa. Kế thừa, phát triển
quan điểm chỉ đạo, những định hướng lớn của Đảng và tình hình phát triển văn hóa
Việt Nam thời gian qua, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.[51, tr. 126] Trong tư tưởng đó, cần
nhận thức rõ hai điểm quan trọng nổi bật, là: thứ nhất, xây dựng, phát triển nền văn
hóa phải gắn chặt với xây dựng, phát triển con người, không tách khỏi cội nguồn
dân tộc. Thứ hai, văn hóa khơng chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà là sức
mạnh nội sinh trực tiếp để phát triển bền vững.
Hai là, thống nhất nhận thức về mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt
Nam. Mục tiêu trước mắt là, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển

văn hóa; làm cho văn hóa tham gia tích cực vào thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng những giá trị văn hóa mới đi đơi
với việc mở rộng giao lưu quốc tế. Nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động,
sáng tạo văn hóa của nhân dân; từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn
hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Tăng cường đầu tư của Nhà nước,
nâng cao tỷ lệ ngân sách cho văn hóa, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa,
huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa; coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư
cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ
thống thiết chế văn hóa, chú trọng các cơng trình văn hóa lớn, tiêu biểu; nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống các thiết chế văn hóa cơ sở, v.v. Mục tiêu lâu
19


dài là, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho
văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, quán triệt, thực hiện tốt nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa. Nền
văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện chuyển tải. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Bốn là, tích cực đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái thù địch trên
lĩnh vực văn hóa. Phát triển nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là mục
tiêu xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát
triển văn hóa là cơ sở rất quan trọng để biến mục tiêu thành hiện thực, góp phần xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng tinh thần xã hội vững
mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đó là sự tiếp biến các giá trị văn hóa nhân loại một cách tự nhiên trong quá

trình hội nhập và phát triển. Đảng đã nhận thức sâu sắc vai trị của văn hóa, đặc biệt
chú trọng các DSVH đối với sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay để hội nhập mà
không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Thơng qua các DSVH để giáo dục lịch sử
dân tộc cho mỗi con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, khơi dậy niềm tự hào
dân tộc để sống có lý tưởng, niềm tin, có một thế giới quan và nhân sinh quan cách
mạng đúng đắn, tránh sự cám dỗ của kẻ thù, chạy theo lối sống thực dụng, xa rời
mục tiêu và lý tưởng cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
1.1.2.2. Chính sách của Nhà nước
Chỉ ngay sau khi độc lập chưa đầy 3 tháng, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký và cơng bố Sắc lệnh 65/SL về bảo tồn cổ tích trên tồn cõi Việt
Nam. Trong Sắc lệnh này, thuật ngữ “Cổ tích” được hiểu với nghĩa DSVH, bao
gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Từ đó đến nay, nhiều văn bản quy phạm pháp

20


luật ra đời. Hiến pháp 1992 đã quy định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức và
nhân dân về bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc.
Quyết định số 25/TTg ngày 19/01/1993 của Thủ tướng Chính phủ về một số
chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, trong đó nêu
rõ: Đầu tư 100% kinh phí cho việc tu bổ, tơn tạo các di tích cách mạng, những di
tích gắn với q trình hoạt động của Đảng và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc;
hỗ trợ một phần kinh phí và vốn đầu tư của nước ngồi để bảo tồn và tơn tạo các di
tích lịch sử văn hóa khác, kể cả các cơng trình mang tính chất tơn giáo đã được cơng
nhận là di tích lịch sử văn hóa. Đầu tư 100% cho công tác sưu tầm, chỉnh lý, biên
soạn, bảo quản lâu dài, phổ biến các sản phẩm văn hóa tinh thần như: văn hóa dân
gian, các điệu múa, các làn điệu âm nhạc của các dân tộc, bảo tồn các nghề thủ công
truyền thống, các loại nhạc cụ dân tộc. Đầu tư 100% kinh phí cho việc xây dựng tiết
mục, luyện tập thường xuyên và trang bị cho các đơn vị nghệ thuật dân tộc: tuồng,
chèo, dân ca, cải lương, múa rối,…

Tại Quyết định số 62/QĐ-TTg ngày 03/02/1994, Thủ tướng Chính phủ đã
giao cho Bộ Văn hóa –Thơng tin quản lý điều hành ba chương trình có mục tiêu cấp
nhà nước; trong đó có chương trình chống xuống cấp và tơn tạo các di tích lịch sử
văn hóa Việt Nam. Thời gian thực hiện tập trung từ 1994 đến 2000 với những nội
dung chủ yếu tập trung bảo vệ, nâng cấp tơn tạo các di tích lịch sử cách mạng và
kháng chiến đặc biệt quan trọng, các di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị lớn đang
có nguy cơ sụp đổ cần tu bổ gấp; xây dựng mới một số khu di tích lịch sử và cách
mạng quan trọng.
Tại văn bản số 4739/KG-TW ngày 26/8/1994, Thủ tướng Chính phủ đã cho
phép Bộ Văn hóa –Thơng tin triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia về văn hóa.
Hoạt động này đã thể hiện sự đầu tư đúng hướng, trên cơ sở các chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa.
Đặc biệt, Luật DSVH đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua
ngày 14/6/2001 được xem là văn bản hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay về vấn đề
21


×