Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

VẤN đề bảo tồn, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI sản văn hóa PHI vật THỂ ở THỪA THIÊN HUẾ TRONG QUÁ TRÌNH đổi mới và hội NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.9 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------------------

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ ĐẠI HỌC HUẾ
NĂM 2014- 2015

Tên đề tài

VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI
VẬT THỂ Ở THỪA THIÊN HUẾ TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
VÀ HỘI NHẬP

Mã số: DHH 2014-01-65

Chủ nhiệm: TS. Trần Thị Hồng Minh

Huế, 12.2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập. Các kết quả số
liệu nêu trong đề tài là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ
quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của đề tài là mới và hoàn
toàn có căn cứ khoa học.
Tác giả đề tài

Trần Thị Hồng Minh



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DSVH

:

Di sản văn hóa

KTTT

:

Kinh tế thị trường

UBND

:

Ủy ban nhân dân

TTBTDTCĐ

:


Trung tâm bảo tồn di tích cố đô

TTH

:

Thừa Thiên Huế


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI...............................................................1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA ĐỀ TÀI TRONG
VÀ NGOÀI NƯỚC........................................................................................3
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.......................................................................6
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU..................................................6
5. CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................7
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI....................................7
7. KẾT CẤU ĐỀ TÀI.....................................................................................7
NỘI DUNG............................................................................................................................8
Chương 1................................................................................................................................8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ....................................................................................................8

1.1. Cơ sở lý luận của bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể....8
1.1.1. Khái niệm văn hóa và di sản văn hóa phi vật thể.................................................8
1.1.2. Các quan điểm về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể.........................14
1.1.3. Tầm quan trọng của bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể đối với quá

trình đổi mới và hội nhập.............................................................................................24

1.2. Kinh nghiệm của một số nước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể.......32
1.2.1.Kinh nghiệm từ Trung Quốc...............................................................................32
1.2.2. Kinh nghiệm từ Nhật Bản..................................................................................36
1.2.3. Kinh nghiệm của Thái Lan.................................................................................41
Chương 2..............................................................................................................................46
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN
HÓA PHI VẬT THỂ Ở THỪA THIÊN HUẾ TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI
NHẬP...................................................................................................................................46

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể ở Thừa Thiên Huế trong quá trình đổi mới, hội nhập...............................46
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên - xã hội............................................................................46
2.1.2. Về nhận thức của các cấp chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế............................49
2.1.3. Về ý thức của nhân dân Thừa Thiên Huế...........................................................52

2.2. Thực trạng của việc bảo tồn, phát huy DSVH phi vật thể ở Thừa Thiên
Huế hiện nay.................................................................................................54
2.2.1. Đặc điểm của di sản văn hóa phi vật thể ở Thừa Thiên Huế..............................54


2.2.2. Thành tựu của việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Thừa Thiên
Huế hiện nay.................................................................................................................58
2.2.3. Thành tựu của việc phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Thừa Thiên Huế hiện
nay................................................................................................................................66
2.2.4. Hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và những vấn đề đặt ra của công tác bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở TTH hiện nay.........................................71

2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn di

sản văn hóa phi vật thể ở Thừa Thiên Huế đáp ứng nhu cầu đổi mới và hội
nhập..............................................................................................................78
2.3.1.Những nguyên tắc chung của việc bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể........78
2.3.2. Các giải pháp bảo tồn và phát huy.....................................................................79
KẾT LUẬN..........................................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................98


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG ĐỀ TÀI
Trang
Bảng 3.1: Tổng số khách du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế
trong những năm gần đây.....................................................................................................67
Bảng 3.2: Doanh thu từ du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế từ 2006-2014.............................67
Bảng 3.3: Lượt khách và doanh thu của nhà hát Duyệt Thị Đường và Minh Khiêm Đường
từ 2003 đến 2009..................................................................................................................69


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lịch sử phát triển của một số quốc gia trên thế giới đã chứng minh
rằng: Nếu phát triển kinh tế mà không quan tâm đến văn hóa sẽ dẫn đến mất
cân đối. Đây cũng là nguyên nhân của sự phát triển không bền vững. Văn hóa
nói chung, trong đó có DSVH phi vật thể nói riêng là vốn quý của mỗi quốc
gia trong hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Ở đó, thể hiện một cách tập
trung nhất, đầy đủ và toàn diện nhất bản sắc văn hóa của một dân tộc. Vì vậy,
phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa là hướng đi phù hợp nhất đối
với mỗi quốc gia muốn phát triển bền vững.
Nhận thức được vai trò to lớn của văn hóa đối với quá trình đổi mới và
hội nhập, trong giai đoạn hiện nay, công tác bảo tồn và phát huy DSVH ở
nước ta đã được Đảng hết sức quan tâm. Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ

XI, Đảng ta đã tiếp tục nhấn mạnh công tác bảo tồn, phát huy giá trị DSVH
dân tộc: “... Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt... Hoàn thiện và thực hiện
nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ về bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc... Gắn kết chặt chẽ
nhiệm vụ phát triển văn hóa văn nghệ, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại... Xây dựng và thực
hiện các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ chữ viết các
dân tộc thiểu số...” [20, tr. 224- 225.]
Ngày nay, TTH là trung tâm văn hóa - du lịch quốc gia và quốc tế
hấp dẫn, đã được tổ chức UNESCO công nhận hai DSVH của nhân loại.
Nơi đây hiện đang lưu giữ trong lòng nhiều DSVH vật thể và phi vật thể
chứa đựng giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh các di sản vật thể, TTH là nơi tập trung nhiều giá trị văn hóa phi
vật thể phong phú, đa dạng với các loại hình nghệ thuật diễn xướng cung
đình bác học, nghệ thuật trang trí, mỹ thuật, ẩm thực, phong tục tập quán,
1


trong đó Nhã nhạc Việt Nam-Âm nhạc cung đình Triều Nguyễn đã được
UNESCO công nhận là kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại;
Ca Huế vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là DSVH phi
vật thể quốc gia. Ngay sau ngày Việt Nam thống nhất, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng khi vào thăm Huế đã mừng rỡ cho rằng: "Giải phóng xong, Việt
Nam may ra còn có Huế để đối ngoại về văn hóa" [22, tr.4]. Trong nhiều
năm qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng sự giúp đỡ của
cộng đồng quốc tế, đặc biệt là sự tham gia đầy nhiệt huyết của các cấp
chính quyền địa phương, cán bộ, Đảng viên và nhân dân TTH, công tác bảo
tồn và phát huy DSVH nói chung và DSVH phi vật thể nói riêng đã có
những chuyển biến lớn lao và đạt nhiều thành tựu to lớn. Nhiều giá trị
DSVH phi vật thể tưởng chừng bị mai một đã dần dần sống lại trong sinh

hoạt cộng đồng, trong nếp nghĩ và việc làm người dân cố đô Huế, góp phần
mở rộng giao lưu, hội nhập trong đời sống văn hóa của dân tộc Việt Nam
với các nước trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, do đặc thù của DSVH phi vật thể chủ yếu tồn tại trong trí nhớ,
được lưu truyền bằng con đường truyền miệng và nhất là trong bối cảnh phát
triển với tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ; cùng với giao lưu hội nhập toàn
diện đã tác động một cách sâu rộng đến mọi tầng lớp dân cư nơi đây. DSVH phi
vật thể ở TTH cũng đang chịu sự tác động của nền KTTT và quá trình toàn cầu
hóa, nhất là toàn cầu hóa trong lĩnh vực thông tin đã làm thay đổi nhanh chóng
nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, DSVH phi vật thể cũng dễ bị mai một và
luôn tiềm ẩn nguy cơ biến mất nhanh chóng. Mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát
triển chưa được giải quyết bằng những giải pháp hợp lý đã tạo nên những ràng
buộc, kìm hãm đà phát triển của TTH trong xu thế hội nhập và phát triển. Kho
tàng văn hóa phi vật thể: ca múa nhạc cung đình, các lễ hội dân gian, các ngành
nghề truyền thống vẫn chưa được bảo tồn, khai thác và đầu tư hiệu quả. Vai trò
chủ thể của nhân dân TTH trong việc bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể
cũng chưa được khẳng định.
2


Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng nói trên, để TTH xứng đáng là
nơi đại diện cho những giá trị biểu trưng của trí tuệ, tâm hồn dân tộc Việt Nam.
Làm sao để các giá trị DSVH nói chung và DSVH phi vật thể ở đây tiếp tục
được phát huy có hiệu quả, góp phần xây dựng TTH trở thành một tỉnh vững về
chính trị, giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, đủ sức để hội nhập mà không hòa tan,
tôi đã quyết định chọn đề tài: "Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa
phi vật thể ở Thừa Thiên Huế trong quá trình đổi mới và hội nhập"để làm
đề tài nghiên cứu của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA ĐỀ TÀI
TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

Ngoài nước: Từ nữa sau thế kỷ XX, các tổ chức quốc tế như
UNESCO, UNDP đều nỗ lực nghiên cứu đánh giá tiềm năng quá khứ của
nhân loại, đặc biệt là về DSVH. UNESCO chia DSVH thành hai loại: di sản
“văn hóa vật thể” (tangible culture) và di sản “văn hoá phi vật thể”
(nonphysicalculture).
Trên thế giới nhiều học giả đã nghiên cứu khái niệm DSVH (Cultural
heritage). Abraham Moles quan niệm DSVH như một “mã di truyền xã hội”,
một thứ “ký ức tập thể”. Feredico Mayor hình dung DSVH như một “hệ thống
các giá trị”, những nhân tố hình thành nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Người Nhật quan niệm giá trị văn hoá như một thứ tài sản - “tài sản văn
hoá” (Cultural propeties) và họ chia DSVH thành hai loại: tài sản văn hoá
“hữu hình” và tài sản văn hoá “vô hình”. Các thuật ngữ vật thể, phi vật thể, vô
hình, hữu hình hiện nay được sử dụng rộng rãi trên thế giới khi nói về DSVH.
Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ DSVH vật thể và phi vật thể: Hướng
đến Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19 đến
23/10/2004, Tuyên bố Yamato về Phương pháp tiếp cận tổng thể trong bảo vệ
DSVH vật thể và phi vật thể đã được thông qua. Với bản Tuyên bố này, các
quan niệm về DSVH đã được nhân loại định nghĩa cụ thể trên phương diện lý
luận theo Công ước và Quy chế của UNESCO. Đây là những quan niệm cụ
3


thể nhằm giúp nhận diện một cách đúng đắn khoa học về DSVH vật thể và
phi vật thể trên thế giới.
Trong nước: Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, bài viết,
nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về công tác bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH nói chung và DSVH phi vật thể nói riêng theo các cách tiếp cận khác
nhau. Tiêu biểu, có thể kể đến các công trình sau:
Các công trình “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”, “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển DSVH dân tộc”, “Phát

triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 những vấn đề phương pháp
luận”, “Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi
mới(1986- 2010)”, đã phân tích, đánh gía thực trạng văn hóa Việt Nam và
thực trạng lãnh đạo, quản lý văn hóa của Đảng, Nhà nước ta; chỉ rõ mối quan
hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực phát triển kinh tế- xã hội; xây dựng văn hóa
chính trị; đề xuất mục tiêu, quan điểm, định hướng và các giải pháp có tính
chất đột phá để phát triển văn hóa dân tộc trong thập kỷ tới.
Công trình “Bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể ở Thăng Long
– Hà Nội”, bàn về kinh nghiệm bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể trên cơ
sở tổng kết lịch sử và thực tế ở Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo
tồn DSVH phi vật thể Thăng Long- Hà Nội.
Ngoài ra còn có một số bài viết đăng ở các tạp chí khoa học như:
- GS.TS Ngô Đức Thịnh: Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể, tạp chí
cộng sản số 15, năm 2007; Chu Thái Thành: Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, Tạp chí Cộng sản số 14, năm 2007; Nguyễn Văn Huyên: Công nghiệp
hóa - hiện đại hóa và vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Tạp chí triết học,
năm 2007; Nguyễn Chí Bền: Bảo tồn DSVH phi vật thể ở nước ta hiện nay, Tạp
chí Cộng sản số 7, năm 2007; Giáo sư Hoàng Chương: Thực trạng vấn đề bảo tồn
và phát huy văn hóa dân tộc, đây là bài đăng trên trang 5 báo Nhân Dân ngày
2/4/2012 cũng bàn đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn
DSVH ở Việt Nam trong thời gian gần đây.
4


Nghiên cứu trực tiếp đến việc bảo tồn giá trị DSVH phi vật thể ở Thừa
Thiên Huế có các công trình như:
Tập san kỷ niệm 5 năm thực hiện dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy
giá trị di tích cố đô Huế: “ Thời gian đã chứng minh”, TTBTDTCĐ Huế,
7/2001, Sách “ Huế Di sản và cuộc sống” của TTBTDTCĐ Huế, giấy phép
xuất bản 114/GP- XB do sở Văn hóa Thông tin TTH cấp ngày 19/8/2003, Hội

thảo: “DSVH Huế nghiên cứu và bảo tồn” do TTBTDTCĐ Huế, Phòng
nghiên cứu khoa học và hướng dẫn tổ chức năm 2010; Sách 30 năm bảo tồn
và phát huy giá trị DSVH Huế (1982- 2012), của TTBTDTCĐ Huế, Huế,
tháng 6.2012. Trong đó có nhiều bài viết bàn đến công cuộc bảo tồn và phát
huy DSVH phi vật thể ở TTH hiện nay.
Ngoài ra còn có bài viết của Phan Tiến Dũng: Bảo tồn DSVH phi vật
thể - một yếu tố cơ bản làm cho giá trị quần thể di tích Huế luôn được tỏa
sáng [56] cũng liên quan đến đề tài.
Như vậy, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH với những kết quả đáng trân trọng. Tuy nhiên,
từ mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau, phạm vi nghiên cứu khác nhau, cách tiếp
cận khác nhau,…phần lớn các công trình chủ yếu nghiên cứu về bảo tồn và
phát huy DSVH thuần túy mà chưa đề cập nhiều đến mối quan hệ giữa bảo
tồn, phát huy DSVH và quá trình đổi mới và hội nhập với những biểu hiện
phong phú, đa dạng và phức tạp của quan hệ này; các công trình nghiên cứu
và tư liệu nêu trên đều chưa đi sâu nghiên cứu một cách chuyên biệt, hệ thống
và quy mô về thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể ở
TTH trong quá trình đổi mới và hội nhập. Làm thế nào để nâng cao nhận
thức, ý thức, trách nhiệm của chủ thể trong quá trình bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH phi vật thể ở Huế nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bền
vững cũng đang là những vấn đề cấp thiết hiện nay.
5


Do đó, đề tài này rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
3.1 Mục tiêu chung
Đề tài khảo sát thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể ở
TTH từ năm 1996 đến nay. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp góp phần
đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giữ gìn và phát huy các giá trị DSVH phi

vật thể tại địa phương này phù hợp với quá trình đổi mới, hội nhập hiện nay.
3.2 Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của việc bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH phi vật thể ở TTH trong quá trình đổi mới và hội nhập.
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra những nguy cơ, thách thức của công
cuộc bảo tồn DSVH phi vật thể ở Thừa Thiên Huế trong bối cảnh mới.
- Đưa ra các quan điểm làm cơ sở và một số giải pháp kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả của việc bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể tại địa
phương nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới và hội nhập.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi
vật thể ở tỉnh TTH dưới góc độ triết học. Chủ yếu nghiên cứu thực trạng bảo
tồn và phát huy DSVH phi vật thể ở TTH trên những nét tiêu biểu gắn liền
với quần thể di tích Huế, do TTBTDTCĐ Huế quản lý.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
phi vật thể ở TTH với trọng tâm số liệu giới hạn trong khoảng thời gian từ
1996 đến nay, các giải pháp đưa ra cho thời kỳ đến năm 2020.
- Về không gian: Qua quá trình điền dã thực tế, kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các công trình đi trước, tác giả lựa chọn và tập trung khảo sát
chủ yếu các DSVH phi vật thể ở TTH gắn liền với các hoạt động văn hóa diễn
ra trên địa phương và gắn liền với quần thể di tích cố đô Huế
6


5. CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1 Cách tiếp cận
Từng bước tiến hành khảo sát, xử lý số liệu, sử dụng các nguyên tắc
của phép biện chứng duy vật để xem xét, đánh giá vấn đề: nguyên tắc khách

quan, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc thực tiễn, mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội với ý thức xã hội....
Tiếp cận hệ thống; kết hợp tiếp cận định lượng và tiếp cận định hình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của
Nhà nước về văn hóa, DSVH, bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể. Cơ sở
thực tiễn của đề tài là phân tích kinh nghiệm của một số nước và đánh giá
thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể ở tỉnh TTH.
- Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể: Phương pháp phân
tích- tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lý thông tin. Đồng thời có sự kế
thừa các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
- Làm rõ thực trạng bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể ở tỉnh TTH với
những nét đặc thù riêng có của một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung bao gồm: những kết qủa đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của vấn bảo
tồn và phát huy DSVH phi vật thể ở tỉnh TTH trong thời gian tới.
7. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 2 chương, 5 tiết.

7


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Cơ sở lý luận của bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể.
1.1.1. Khái niệm văn hóa và di sản văn hóa phi vật thể
- Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng, liên quan đến đời sống
vật chất và tinh thần của con người. Xuất phát từ nhiều cách tiếp cận, có
những quan niệm và cách lý giải khác nhau về văn hóa.
Hiện nay, có khá nhiều định nghĩa về văn hóa, nhưng hầu hết các định
nghĩa đó đều xoay quanh 2 xu hướng nhất định: Xu hướng thứ nhất là loại định
nghĩa miêu tả liệt kê các thành tố về văn hóa, xu hướng thứ hai là loại định nghĩa
nêu đặc trưng của văn hóa. Các xu hướng có thể khác nhau nhưng đều thống
nhất ở một điểm rất quan trọng là khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa con
người với tự nhiên, nơi nào có con người là nơi đó có văn hóa, văn hóa là sản
phẩm thích ứng giữa con người với tự nhiên.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa ở phương Tây thì khái niệm văn
hóa có nguồn gốc từ tiếng Latinh Colère- Cultura nghĩa là trồng trọt để chỉ
sự chăm sóc đất đai canh tác. Ở Phương Đông, trong Chu Dịch có nói đến:
“Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ” (Quan sát dáng vẻ con người để
giáo hóa thiên hạ). Ở đây, văn hóa được giải thích như một phương thức
dùng văn để cải hóa con người.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Văn hóa là toàn bộ những
thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người - hoạt
động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người”
[33, tr.136-137], văn hóa là thiên nhiên thứ hai, thiên nhiên được con người
8


cải biến. Văn hóa là “tác phẩm của con người”, là phương thức hoạt động
sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con người. Đó là

phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo của mình để biến đổi
và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của mình” để cải tạo hiện
thực khách quan, “nhào nặn”, “xây dựng” thực tại khách quan cho chính mình
“theo các quy luật của cái đẹp”. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844,
C. Mác viết: “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo giới
tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là một sinh vật
có tính loài có ý thức (…) Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác
phẩm của nó (con người) và thực tại của nó” [33, tr.136-137].
C.Mác cho rằng, văn hóa xuất hiện trong quá trình hoạt động thực tiễn
của con người, trong đó hoạt động đặc trưng, cơ bản nhất là lao động và cải
tạo xã hội. Văn hóa xuất hiện trong mối tương tác giữa con người với tự nhiên
và với chính bản thân mình. Văn hóa chính là trình độ người của các quan hệ
đó. Chủ thể sáng tạo văn hóa là con người. Con người sử dụng văn hóa để
phát triển năng lực của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự nhiên, đồng
thời cải tạo chính bản thân mình. Trong quá trình đó, con người ngày càng ý
thức một cách rõ ràng hơn sức mạnh xã hội của lao động và ý thức đầy đủ
hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người của mình- sáng tạo văn
hóa, tái sản xuất ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho chính mình
“theo quy luật của cái đẹp”. Bằng hoạt động lao động sáng tạo đó và với
chính sự tồn tại, phát triển của mình trong thế giới hiện thực, con người đã tự
xác định cho mình cái ranh giới để phân biệt phương thức sống của mình với
phương thức sinh hoạt sinh tồn của loài vật.
Hồ Chí Minh nhận định về văn hóa ở cấp độ khái quát như sau: Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn
9



hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra. Nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [34, tr.431].
Từ nhận xét trên của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể thấy văn hóa là toàn
bộ những gì con người tạo ra và lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của
văn hóa. Văn hóa chỉ tất cả các khía cạnh biểu tượng và học thức của xã hội
loài người. Văn hóa vật thể bao gồm các đồ vật, công nghệ và cả một bộ phận
nghệ thuật. Văn hóa phi vật thể bao gồm ngôn ngữ, các kiến thức, kỹ năng, giá
trị, tín ngưỡng và tập quán. Như vậy, bản chất của văn hóa là có tính người và
tính xã hội. Văn hóa là một thực thể sống của con người. “Người ta có thể nhìn
thấy, nghe thấy, sờ thấy và cảm thấy bằng những cách khác nhau của một nền
văn hóa, một thời đại văn hóa, một giá trị văn hóa do con người tạo ra” [2828,
tr.11].
Theo từ điển triết học: “văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần
do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội- lịch sử và tiêu biểu cho
trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [53, tr.656].
Định nghĩa này khẳng định văn hóa được biểu hiện trong toàn bộ giá trị
vật chất, giá trị tinh thần và là kết quả khách quan của hoạt động con người.
Cùng với quan điểm này còn có định nghĩa của GS.TS.Trần Ngọc Thêm: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [40, tr.27]
Định nghĩa văn hóa được cộng đồng thế giới sử dụng nhiều và được
nhiều người trích dẫn hơn cả là định nghĩa của UNESCO: Văn hóa là tổng thể
những nét đặc thù về tinh thần và vật chất, về trí tuệ và cảm xúc quy định tính
cách của một xã hội hay một nhóm xã hội nên được đề cập đến như là một tập
hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã
hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và
nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
10



thống và đức tin [56].
Có thể nói, tính phức tạp của nội hàm khái niệm văn hóa được thể hiện rõ
khi bản thân văn hóa là một yếu tố mang “tính động”. Tính động ở đây chính là
tính chất biến đổi không ngừng của văn hóa theo tiến trình lịch sử cũng như thay
đổi của nó theo không gian văn hóa. Vì vậy khi nói đến văn hóa, chúng ta phải
xem xét trên cả hai chiều thời gian và không gian, nếu thiếu đi một trong hai
chiều nói trên, thành tố văn hóa mà chúng ta quan sát có thể trở nên vô nghĩa.
Vậy, để thống nhất về mặt nhận thức, chúng tôi đưa ra định nghĩa sau để
giải quyết các vấn đề của đề tài: Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội. Những giá trị vật chất và tinh thần đó làm nên hệ giá trị xã hội, là một
thành tố cốt lõi tạo ra bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng
chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của con người sống trong cộng đồng
xã hội ấy.
- Khái niệm DSVH phi vật thể
Các nhà nghiên cứu cho rằng, con người bao giờ cũng có hai loại nhu cầu
cơ bản, đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. Theo đó, hoạt động của
con người cũng có hai loại cơ bản, đó là sản xuất ra của cải vật chất và sản xuất ra
các giá trị tinh thần. Tương ứng với nó là những giá trị của DSVH vật thể và
phi vật thể:
DSVH vật thể bao gồm toàn bộ những sản phẩm do sản xuất vật chất của
con người tạo ra như các công trình kiến trúc, công cụ sản xuất và sinh hoạt, đồ
ăn, đồ mặc, các phương tiện đi lại. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của
văn hóa chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng
lượng, đường nét, màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác
định. DSVH vật thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu
ấn lịch sử rõ rệt. Văn hóa vật thể được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể
ngoài bản thân con người. DSVH vật thể luôn chịu sự thách thức của quy luật
bào mòn của thời gian, trong sự tác động của con người thời đại sau. DSVH vật

11


thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên
gốc. Hiện nay, vấn đề bảo tồn những DSVH vật thể lâu đời đòi hỏi công nghệ kỹ
thuật cao mới có thể phục nguyên lại như cũ.
Tại điều 4, Luật DSVH định nghĩa DSVH vật thể như sau: “DSVH
vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm
di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia” [14, tr.15-16].
DSVH phi vật thể bao gồm những sản phẩm do hoạt động sản xuất tinh
thần của con người sáng tạo ra như phong tục, tập quán thể hiện trong lối
sống, trong các mối quan hệ xã hội của con người, các quy ước thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với tổ tiên, với lực lượng
siêu nhiên mà con người luôn tin tưởng. Đó là toàn bộ tri thức liên quan đến việc
sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự sống và phát triển của con người như
sản xuất lương thực, y học dân gian, văn hóa ẩm thực, nghề thủ công. Đó là các
loại hình nghệ thuật biểu diễn như âm nhạc, múa rối, sân khấu, các loại hình
thức trình diễn cho đến kiến trúc, trang trí, đồ họa…Đó là các loại hình nghệ
thuật ngôn từ như truyện kể, ca dao, dân ca, thành ngữ, tục ngữ.
Tại điều 2 của bản Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể, khái niệm
DSVH phi vật thể được UNESCO hiểu như sau: “Các tập quán, các hình thức
thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật,
đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các
nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một
phần DSVH của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, DSVH
phi vật thể được các cộng đồng và nhóm người không ngừng tái tạo để thích
nghi với môi trường và quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử
của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua
đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của

con người” [14, tr.84].
Sau định nghĩa này, công ước đã miêu tả DSVH phi vật thể theo 5 lĩnh
12


vực chính:
a, Văn hóa truyền miệng và các biểu hiện của nó, trong đó ngôn ngữ là
một phương tiện của DSVH phi vật thể
b, Nghệ thuật trình diễn
c, Tập quán xã hội, tín ngưỡng lễ hội
d, Tri thức và tập tục liên quan đến tự nhiên và vũ trụ
e, Nghề thủ công truyền thống.
Điều 4 của Luật DSVH cho rằng: DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh
thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng,
không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [37].
Có thể thấy, quan niệm của UNESCO thể hiện qua Công ước về bảo vệ
DSVH phi vật thể và Luật DSVH của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng. Xét
một cách tổng thể thì quan niệm của Việt Nam có phần rộng rãi, đầy đủ và sát với
đời sống thực tiễn hơn. Trên thực tế, không phải ai cũng dùng thuật ngữ “phi vật
thể” để miêu tả các giá trị DSVH không “đụng chạm trực tiếp”, “không sò mó”
vào được như di tích, tranh vẽ, sách hay những đồ vật do con người tạo ra. Trong
bối cảnh hay môi trường khác nhau, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các thuật ngữ
khác nhau như: “văn hóa truyền thống”, “di sản truyền miệng”, “lối sông dân
gian”, “phong tục tập quán”, “DSVH sống” v.v.. Không chỉ các nhà nghiên cứu
mà ngay cả những người dân- nơi lưu giữ văn hóa, chủ thể văn hóa – cũng không
có chung một quan điểm về DSVH phi vật thể. Do đó, để có thể bảo tồn hay phát
huy được nó còn phụ thuộc rất nhiều vào vai trò và việc huy động đóng góp công
sức của người dân.

Từ quan niệm trên, chúng ta có thể xác định DSVH phi vật thể TTH bao
gồm các thể loại văn hóa dân gian, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, lễ
hội, nghệ thuật biểu diễn, văn hóa ẩm thực, ngành nghề truyền thống…của cư dân
sinh sống trên mãnh đất có bề dày lịch sử- văn hóa này.
13


1.1.2. Các quan điểm về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể
Theo từ điển Tiếng Việt thì “bảo tồn” có nghĩa là giữ lại không để cho
mất đi. Theo bách khoa toàn thư Canada, “bảo tồn di sản- đó là sự nhận thức,
sự thừa nhận giá trị và bảo tồn một cách xác đáng những vật thể được coi là
quan trọng đối với sự phát triển văn hóa và lịch sử của đất nước” [31, tr.87].
Còn “phát huy” có nghĩa là “làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục
nảy nở thêm” [35, tr.39]. Nói một cách đơn giản, phát huy DSVH chính là
việc khai thác, sử dụng di sản một cách có hiệu quả, làm cho các DSVH đó
tiếp tục tồn tại, thích nghi và phát triển theo thời gian. Về bảo tồn và phát
huy DSVH phi vật thể, UNESCO giải thích rằng: “đó là các biện pháp có
mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của các DSVH phi vật thể, bao gồm việc
nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy cũng cố,
truyền dạy, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc không
chính thức cũng như việc làm sống lại các phương diện khác nhau của loại
hình di sản này”[14, tr.84-85].
Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể là hai việc
khác nhau, tuy nhiên có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ về nội dung nên hoạt
động này đôi khi được gọi một cách ngắn gọn là hoạt động bảo tồn. Bảo tồn
không thể tách rời đổi mới và phát triển, bảo tồn không có nghĩa là giữ
nguyên hoặc khôi phục lại cả những gì không còn thích hợp, những gì đã bị
đào thải. Muốn như thế cần có sự chắt lọc, lựa chon kỹ càng để xem những gì
cần bảo tồn nguyên vẹn, cái gì cần phải điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với
xã hội hiện nay.

- Quan điểm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của
UNESCO
Năm 1989, UNESCO đưa ra một văn bản Đề nghị về việc bảo tồn văn
hóa truyền miệng và văn hóa dân gian. Văn bản này yêu cầu các quốc gia trên
thế giới đưa ra những giải pháp bảo tồn văn hóa phi vật thể nằm trong đường
biên quốc gia của họ. Và từ năm 2001, UNESCO đã xây dựng chương trình
14


Những kiệt tác DSVH truyền miệng và phi vật thể và 4 lần công bố các danh
sách vào các năm 2001(gồm 19 di sản), năm 2003 (gồm 28 di sản), năm 2005
(gồm 43 di sản), năm 2009 (76 di sản) và gần đây nhất năm 2010 (47 di sản).
Tính đến cuối năm 2010, có 213 di sản được UNESCO công nhân là di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Chương trình này của tổ chức UNESCO có mục tiêu chính là nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể
của nhân loại. Kêu gọi các quốc gia hành động để bảo tồn và phát huy các
DSVH, bằng việc thống kê các DSVH trong lãnh thổ của mình; thiết lập một
Ủy ban bảo vệ DSVH phi vật thể.
Năm 2003, với Công ước quốc tế về bảo vệ DSVH phi vật thể đã
được các thành viên trong tổ chức UNESCO thông qua và có hiệu lực sau
khi có đủ 30 nước phê chuẩn vào năm 2005 và hiện nay đã có gần 200 quốc
gia phê chuẩn Công ước. Điều 12 của bản Công ước quy định: “Để đảm
bảo cho công việc bảo tồn, mỗi quốc gia thành viên dựa vào năng lực riêng
của mình sẽ xây dựng một hay nhiều thống kê các DSVH phi vật thể trên
lãnh thổ của họ. Những bản thống kê này sẽ được cập nhật một cách
thường xuyên”. Ngoài việc thống kê, bản công ước còn yêu cầu các quốc
gia, các cộng đồng phát triển hành động cho công việc bảo tồn các DSVH
phi vật thể.
Những điều khoản trong bản Công ước về bảo tồn DSVH phi vật thể

được hiểu theo hai dạng chính:
- Các loại hình hay trãi nghiệm có giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật caonhững loại hình nghệ thuật hay hành động này có ý nghĩa với cộng đồng và
được cộng đồng coi là truyền thống của họ.
- Di sản là những thứ cộng đồng chia sẻ và được coi là biểu trưng của
văn hóa hay được cộng đồng truyền từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, theo
bản công ước thì DSVH phi vật thể thường đi liền với tính truyền thống, vì
thế các loại hình đương đại không thuộc diện cần được bảo tồn.
15


Có thể nói, trong hơn nữa thế kỷ tồn tại của mình, UNESCO đã đóng
vai trò quan trọng trong quá trình bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể trên
khắp châu lục. Xác định rõ những mục tiêu, những yêu cầu cụ thể trong quá
trình bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể.
- Quan điểm bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể của Đảng và
Nhà nước ta.
Thứ nhất, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về bảo tồn và phát
huy DSVH phi vật thể
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dạng và phong phú, đó là nền
văn hóa của 54 dân tộc sinh sống trên đất nước ta. Nền văn hóa đó được hình
thành lâu đời và đóng vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển
của dân tộc. Nền văn hóa của chúng ta do nhân dân sáng tạo nên và ngày càng
có giá trị trong đời sống. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam không chỉ đổi
mới về kinh tế mà còn đổi mới trong nhận thức và tư duy: phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa, nhận thức vai trò của văn hóa trong sự phát triển
kinh tế- xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VII (tháng 1- 1993) đã
khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, một động lực phát triển kinh
tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của phát triển xã hội”. Sau đó, tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 5, khóa VIII, Đảng ta đã phát triển quan điểm đó lên một
bước cao hơn khi nhấn mạnh rằng: Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là

mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”[16, tr.110]. Tiếp
sau đó, vấn đề phát triển văn hóa được gắn kết với quá trình CNH, HĐH đất
nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cho rằng: Xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4
năm 2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều
kiện đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Đến Đại hội XI, nhiệm
vụ chăm lo phát triển văn hóa, bảo vệ DSVH được đúc kết cô đọng hơn, cụ
16


thể hơn: bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH truyền thống, cách mạng. Theo
đó, tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân
thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước… Hoàn
thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về
bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc.
Trải qua một chặn đường cách mạng gian khổ, hơn 80 năm qua, Đảng
ta đã đề ra nhiều biện pháp, chủ trương phù hợp với từng thời kỳ cách mạng
nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó vấn đề được đặt ra hàng đầu
có tính nguyên tắc là bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc. Đường lối, chủ
trương của Đảng được thể hiện qua các văn bản cụ thể sau:
- Xây dựng một nền văn hóa theo hướng Dân tộc- Khoa học- Đại chúng
(Đề cương văn hóa Việt Nam)
- Xây dựng một nền văn hóa có nội dung XHCN và tính chất dân tộc
(Văn kiện Đại hội lần thứ III, 1960)
- Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Văn kiện
Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X, Đại hội XI và Nghị
quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII)

Từ năm 1943 cho đến Đại hội XI, với chủ trương xây dựng nền văn hóa
mới, Đảng ta thực hiện một cách nhất quán đường lối văn hóa và luôn đề cao
tính dân tộc của văn hóa. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc ban hành các văn
bản thể hiện rõ nét các hệ thống về vấn đề nội dung bảo tồn và phát huy
DSVH dân tộc. Đặc biệt trong thập niên trở lại đây, khi Đảng ta kiên trì thực
hiện đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập với thế giới thì vấn đề bảo vệ văn
hóa dân tộc càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Năm 1948, trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”,
Trường Chinh đã viết: “…Trong văn học cổ nước ta, có nhiều hạt ngọc bị
che phủ bởi một lớp bụi thời gian, mà bổn phận của chúng ta là phải tiếp
thu…đặng tìm tòi, lượm lặt, nghiên cứu, không để bỏ sót một hạt” và đồng
17


chí yêu cầu: “ Chúng ta tìm tòi học hỏi những tác phẩm văn học nghệ thuật
của cha ông ta để lại, nhưng chúng ta phê bình, nhận xét những tác phẩm
đó và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc”. Như vậy,
ngay từ đầu khi đưa ra vấn đề văn hóa, Đảng ta đã chỉ ra nội dung bảo tồn
và phát huy giá trị DSVH dân tộc trên nguyên tắc bảo tồn có chọn lọc.
Nguyên tắc này được thể hiện một cách nhất quán trong suốt chặng đường
lãnh đạo của Đảng ta.
Khi Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước thì sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa cũng đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng. Báo cáo Chính trị của
Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ IV đã đánh giá: Mấy chục năm
qua, về cơ bản chúng ta đã xây dựng một nền văn hóa nghệ thuật XHCN…
mang bản sắc dân tộc khá phong phú, tác động sâu sắc vào đời sống tinh thần
và tình cảm của nhân dân. Vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH, Báo cáo chính
trị nêu rõ: Công tác bảo tồn, bảo tàng có tác dụng giáo dục sâu sắc cho quần
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ về lòng yêu nước và những tình cảm cách mạng

trong sáng.
Đại hội VI của Đảng chỉ ra việc phải thực hiện xây dựng nền văn hóa,
nghệ thuật XHCN đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ trương của Đảng ta là động
viên sức mạnh của toàn xã hội, tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển
văn hóa, bao gồm cả DSVH. Trong đó, nhấn mạnh đến công tác sưu tầm vốn
văn hóa nghệ thuật các dân tộc, tức là vốn văn hóa phi vật thể nhằm bảo tồn
và phát huy giá trị DSVH này.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã
nêu bật nhiệm vụ quan trọng là: Phải xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng XHCN với những đặc trưng cơ bản
là dân tộc, hiện đại, nhân văn như Hiến pháp 1992 ghi rõ. Nghị quyết khẳng
định: Phát triển văn hóa dân tộc đi liền với mở cửa giao lưu văn hóa với nước
ngoài, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền
18


văn hóa Việt Nam, ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại
văn hóa độc hại, bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Đại hội VII của Đảng đã quan tâm chú ý nhiều đến văn hóa. Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương khẳng định: “Kế thừa và phát huy
các giá trị tinh thần, đạo đức thẩm mỹ, các DSVH nghệ thuật của dân tộc. Bảo
tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của đất
nước. Trong điều kiện KTTT và mở cửa giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan
tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc”[ 16, tr.494]
Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng được coi
là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển về nhận thức của Đảng về
vai trò, vị trí to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội. Vì đây là lần đầu tiên,
Đảng ta đã xây dựng riêng một nghị quyết về lĩnh vực văn hóa, với quan
niệm: Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng

các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Nếu trước đây, quan niệm văn hóa bị bó hẹp thì bây giờ với quan niệm
đổi mới về văn hóa, Đảng ta chủ trương: Chính sách bảo tồn và phát huy
DSVH hướng vào cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Tiến hành sớm
việc kiểm kê, sưu tầm, chỉnh lý vốn văn hóa truyền thống (bao gồm cả văn
hóa bác học và văn hóa dân gian) của người Việt và các dân tộc thiểu số;
phiên dịch, giới thiệu kho tàng văn hóa Hán Nôm. Bảo tồn các di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam, thắng cảnh, các làng nghề truyền thống…Trọng đãi các
nghệ nhân bậc thầy trong các ngành nghề truyền thống. Nghị quyết Trung
ương 5 nhấn mạnh việc bảo tồn và phát huy các DSVH dân tộc không thể bó
hẹp ở phạm vi trong nước mà còn phải “làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất
nước và con người Việt Nam với thế giới”
Như vậy, những quan điểm trên của Đảng đã cho thấy, nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng mang bản sắc dân tộc, vừa phản ánh đậm cốt cách truyền
thống dân tộc, vừa hiện đại phù hợp với trào lưu tiến bộ chung của nhân loại.
19


×