Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.98 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH NGỌC THỦY

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
DƯỚI 18 TUỐI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH Sự VÀ TỐ TỤNG HÌNH Sự

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRỊNH TIÉN VIỆT

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình khoa học nào khác.Các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 21 tháng 3 năm 2018
Học viên

ĐINH NGỌC THỦY


MỤC LỤC




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự với chế tài hình phạt nghiêm khắc là cơng cụ cơ bản, hữu hiệu trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, giáo dục ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật
cho các chủ thể trong xã hội.
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ đã
có sự tác động tích cực đến đời sống của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Những năm
gần đây, đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh khơng ngừng được cải thiện, tình hình chính trị xã hội được ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, hiệu lực quản lý Nhà nước được
nâng lên. Điều này làm cho lòng tin trong nhân dân với Đảng, với Nhà nước ngày càng được
nâng cao, nhân dân phấn khởi, đoàn kết xây dựng tỉnh ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển luôn đi kèm, tình hình tội phạm diễn biến ngày
càng phức tạp, trong đó, tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng có xu hướng gia
tăng nhanh cả về số vụ lẫn tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội như tội phạm về ma túy, tội
giết người, tội cố ý gây thương tích, tội cướp tài sản, tội hiếp dâm, tội chống người thi hành
công vụ, tội gây rối trật tự cơng cộng... Năm 2013, Tịa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ đã thụ lý giải quyết 44 vụ án hình sự với 64 bị cáo là người chưa thành niên; năm
2014 thụ lý giải quyết 52 vụ án hình sự với 68 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2015 thụ
lý giải quyết 16 vụ án hình sự với 19 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2016 đã thụ lý giải
quyết 27 vụ án hình sự với 31 bị cáo là người chưa thành niên; năm 2017 đã thụ lý giải quyết
24 vụ án hình sự với 31 bị cáo là người chưa thành niên.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta thể hiện rõ bản chất nhân đạo và dân chủ của nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trước ki Bộ luật Hình sự năm 2015 ra đời, Nhà
nước sử dụng khái niệm người chưa thành niên phạm tội để chỉ những người dưới 18 tuổi
phạm tội và quy định hình phạt áp dụng đối với chủ thể của tội phạm này. Bộ luật Hình sự năm
2015 là bước phát triển mới so với các quy định của pháp luật hình sự trước đây về quy định
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong đó cụ thể hóa các hình phạt và

áp dụng triệt để nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự phù hợp với đặc thù của chủ thể
phạm tội này. Đặc biệt, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội (người phạm tội dưới 18 tuổi)
là khái niệm mới, thay thế cho khái niệm người chưa thành niên phạm tội trước đây. Do đó, rất

4


cần được nghiên cứu về khái niệm cũng như các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Về mặt thực tiễn, Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018, nhưng
các quy định về cơ bản trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 nên rất
cần đánh giá, tổng kết từ thực tiễn để có những giải pháp phù hợp góp phần áp dụng có hiệu
quả các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Mặt khác, để nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cần phải tổng kết thực tiễn thi hành các quy định có liên quan để
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm do người dưới 18 tuổi gây ra trên địa bàn
tỉnh. Hiện tại, chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu về nội dung này.
Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ “Áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ’" bảo
đảm đầy đủ tính lý luận, khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Người chưa thành niên, nay là người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng nghiên cứu
chính của nhiều cơng trình khoa học đã được thực hiện dưới các hình thức nghiên cứu khác
nhau: sách chuyên khảo, giáo trình, bài viết trên tạp chí, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ, cơng trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp nhà nước....
Các cơng trình đã được nghiên cứu được thực hiện dưới các góc độ khác nhau, phạm
vi nghiên cứu khác nhau (có thể là ở một địa phương, một vùng hoặc trong cả nước), có cơng
trình của các nhà khoa học trong nước, có cơng trình lại được tiến hành bởi các nhà khoa học
nước ngồi như: A.I. Đơn-gơ-va, Những khía cạnh tâm lý - xã hội về tình trạng phạm tội của
người chưa thành niên, Nxb. Sách pháp lý, Matxcơva, 1981, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1987 (sách

dịch); Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc cơng bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản (chủ biên), Tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2007; Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa chủ biên); Đào Thị Nga, Quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 1997; Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,

5


2003; Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Trịnh Thị Yến, Quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Đỗ Ngọc Thùy (2011), Hình phạt tù đối với người chưa
thành niên phạm tội - Lý luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội...
Ngồi ra, cịn có các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học luật uy tín như:
Lương Ngọc Trâm (2014), “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tịa án nhân dân (19); TS. Trần Văn Dũng,
Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số
5/2000; PGS. TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; TS. Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc
quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; PGS.
TS. Trần Văn Luyện, Những điểm mới về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 12/2000; ThS. Đặng Thanh Sơn, Pháp luật Việt Nam về
tư pháp người chưa thành niên, Số chuyên đề của Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng

12/2008; ThS. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội,
Tạp chí Tịa án nhân dân, số 6/2007; ThS. Đoàn Tấn Minh, Bàn về phạm vi sử dụng thuật ngữ
“người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 9(5)/2008; ThS. Trương Hồng
Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề quyền của người
chưa thành niên phạm tội, Tạp chí điện tử ngày 20/8/2009 (Http://hvcsnd.edu.vn/); TS. Trịnh
Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 7, 8/2010...
Các cơng trình trên phần lớn đã xây dựng được nền tảng lý luận và pháp lý đối
với trách nhiệm hình sự, quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18
tuổi - người chưa thành niên phạm tội như khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên
phạm tội; các quy định của pháp luật về người chưa thành niên phạm tội, một số vấn đề
phát sinh trên thực tiễn về người chưa thành niên phạm tội cần phải hoàn thiện về mặt
pháp luật để điều chỉnh..

6


Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên về cơ bản chưa nghiên cứu, cập nhật
các quy định mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi. Hơn nữa, khơng có cơng trình nào nghiên cứu về thực tiễn áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Vì vậy,
cơng trình nghiên cứu “Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ’" của luận văn này đảm bảo tính mới của
luận văn thạc sĩ và khơng bị trùng với bất kỳ cơng trình nào đã nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn “Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ" nhằm lãm sáng tỏ
hơn về mặt lý luận về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi; đánh giá
thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi, từ đó rút ra những kết quả đạt
được và chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục về mặt pháp luật cũng như tổ chức
thực hiện pháp luật. Từ đó, để xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi để đạt kết quả
cao.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ phân tích, làm rõ các khái niệm, đặc điểm của người phạm
tội dưới 18 tuổi; khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự, hình phạt và áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Luận văn khái quát q trình hồn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi ở Việt Nam, tập trung làm rõ và đánh giá các quy định của Bộ
luật Hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Luận văn phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế , chỉ ra những nguyên nhân
của hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ.
Luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ
chức thực hiện pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ.

7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về hình phạt áp dụng đối
với người phạm tội dưới 18 tuổi và các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Đồng thời, luận văn nghiên cứu tình hình áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18
tuổi trong những năm gần đây từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu

Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau:
Nghiên cứu về một số vấn đề lý luận liên quan đến áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi (như: khái niệm và đặc điểm của người phạm tội dưới 18 tuổi; trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi; áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi; áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chưa thành niên tại một số quốc gia
trên thế giới).
Nghiên cứu, đánh giá về các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ
và Bộ luật Hình sự năm 2015 về các quy định liên quan đến áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi.
Nghiên cứu, đánh giá về tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 đến năm 2017, chỉ ra những bất
cập, hạn chế cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với nhóm chủ
thể này.
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện về mặt pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thực
hiện pháp luật liên quan đến áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hình phạt và cải tạo con người; các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật nói chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là
các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với tội phạm dưới 18
tuổi, cũng như việc áp dụng hình phạt đối với chủ thể tội phạm này.

8


5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích,
tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh... để nghiên cứu nhằm đạt được mục đích nghiên

cứu. Cụ thể:
Chương 1 tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh
luật để làm rõ các vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.
Chương 2 tác giả sử dụng phương pháp phân tích và phương pháp so sánh luật để làm
rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
và các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
dưới 18 tuổi, đánh giá những thành tựu, những hạn chế của các quy định.
Chương 3 tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và phương pháp
so sánh kết hợp với việc sử dụng hệ thống bảng thống kê, dẫn chứng cụ thể để đánh giá thực
tiễn áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhằm
làm rõ những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục. Từ đó, đề xuất các giải
pháp cụ thể về hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành quy định áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội dưới 18 tuổi của Bộ luật Hình sự năm 2015 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ góp phần làm rõ và hồn thiện lý luận về áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam. Đây sẽ làm tài liệu tham khảo lý luận
cần thiết cho các nhà khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến luận văn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn sẽ góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, của những người áp dụng pháp
luật về vấn đề người phạm tội dưới 18 tuổi và hình phạt áp dụng đối với họ, góp phần nâng
cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo
chủ thể tội phạm là người dưới 18 tuổi hiện nay trên địa bàn tỉnh nói riêng và trong cả nước
nói chung.
Đồng thời, luận văn cũng sẽ góp phần hồn thiện pháp luật, để người có thẩm quyền
áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên nghiên cứu để áp dụng trong thực tiễn, góp
phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng và chống tội phạm, cũng như cơng tác giáo

9



dục, cải tạo chủ thể tội phạm là người dưới 18 tuổi hiện nay trên địa bàn tỉnh nói riêng và
trong cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18
tuổi
Chương 2: Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp luật hình
sự Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thi hành và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ

10


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN DỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI DƯỚI 18 TUỔI
1.1 Khái quát về người phạm tội dưới 18 tuổi
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của người phạm tội dưới 18 tuổi
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, đặc biệt
là về tâm - sinh lý, hạn chế trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống. Ở lứa tuổi này, con
người ta dễ bị kích động, lơi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Tuy nhiên, hoạt
động cảm hóa, giáo dục, cải tạo đối với họ lại mang lại hiệu quả cao.
Bộ luật Hình sự năm 2015 kế thừa các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
người phạm tội dưới 18 tuổi nhưng không sử dụng cụm từ “người chưa thành niên phạm
tội” mà sử dụng cụm từ “người phạm tội dưới 18 tuổi”. Việc quy định như vậy nhằm cụ thể

hóa và thống nhất cách hiểu về độ tuỏi của người chưa thành niên phạm tội. Trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay, các cụm từ “người chưa thành niên”, “người chưa đủ 18 tuổi”
được sử dụng với cùng một nội hàm và ngữ nghĩa như “Người chưa thành niên là người
chưa đủ mười tám tuổi ” (Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015) , “Người lao động
chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” (Điều 161 Bộ luật Lao động năm 2012)...
Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị
tước quyền tự do (Quy tắc Havana) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
14/12/1990 ghi nhận cụ thể: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi
dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người
chưa thành niên” [9, quy tắc 2.1 mục a].
Do cụm từ “người chưa thành niên phạm tội” được pháp luật hình sự sử dụng phổ
biến trước đây nên đã có nhiều nhà khoa học định nghĩa người chưa thành niên phạm tội
như: “Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực
trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm" [4, trang
9]; “Người chưa thành niên phạm tội là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm chưa đến tuổi trưởng thành


nhưng có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật
định” [49, trang 14-15]; Người chưa thành niên phạm tội là người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Bộ
luật Hình sự quy định là loại tội phạm mà người đó phải chịu trách nhiệm hình sự nếu
phạm phải”[49, trang 16]...
Người phạm tội dưới 18 tuổi là khái niệm được hợp thành từ hai khái niệm: Người
phạm tội (hay tội phạm - thực hiện hành vi bị pháp luật hình sự quy định là tội phạm) và
người dưới 18 tuổi.
về khái niệm tội phạm, hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về tội phạm như:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc

vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm
2015), “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải
chịu hình phạt” [39, trang 50], “Tộiphạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy
định trong Luật hình sự và phải chịu hình phạt” [35, trang 64], “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi” [10, trang 111]... Như vậy, chủ thể
của tội phạm phải thỏa mãn những yêu cầu nhất định về năng lực pháp luật hình sự mà
không phải tất cả người nào thực hiện các hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm đều
trở thành tội phạm. Tức là, họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự. Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện ở khả năng nhận thực và
điều khiển hành vi của con người.
Khả năng nhận thức phụ thuộc vào độ tuổi và trạng thái thần kinh. Khả năng điều khiển
hành vi lại được quyết định bởi khả năng nhận thức cùng với sự tự do của ý chí và sự lành
mạnh về thể chất. Do đó, những người mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi sẽ


khơng có năng lực trách nhiệm hình sự. Và ngược lại, người có năng lực nhận thức và điều
khiển hành vi tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội sẽ là người có năng lực trách nhiệm
hình sự. Mặt khác, người có năng lực trách nhiệm hình sự cũng phải đạt đến độ tuổi nhất
định. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự khơng thống nhất trong pháp luật hình sự của các nước
trên thế giới, nó dao động từ 7 đến 17 tuổi như pháp luật Singapore, Ân Độ, Kenya, Jamaica
quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 7 tuổi; Scotland quy định là 8 tuổi; Hà Lan,
Canada quy định là 12 tuổi, Việt Nam quy định là đủ 14 tuổi trở lên..
về khái niệm, người chưa đủ 18 tuổi được xác định là những người mà tại thời điểm
cần xác định tuổi của họ đến trước ngày sinh nhật lần thứ 18 của họ. Điều 12 Bộ luật Hình
sự năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua
bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội
trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép
chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần
mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều
287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương


tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc
phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện
quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
Ở đây còn xuất hiện thêm khái niệm “người từ đủ 14 tuổi trở lên”. Khái niệm này
được hiểu là tại thời điểm cần xác định tuổi tính từ ngày sinh nhật lần thứ 14 của họ trở đi.
Như vậy, có thể định nghĩa: Người phạm tội dưới 18 tuổi là người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm khi họ từ đủ 14 tuổi (ngày
sinh nhật lần thứ 14) trở lên đến dưới 18 tuổi (trước ngày sinh nhật lần thứ 18) và có năng
lực trách nhiệm hình sự.
Đặc điểm tâm, sinh lý là đặc thù của người phạm tội dưới 18 tuổi. Họ là những
người tuổi đời cịn ít, chưa có nhiều kinh nghiệm sống, sự hiểu biết pháp luật và các chuẩn
mực xã hội còn hạn chế. Ở lứa tuổi này đang có sự biến đổi mạnh mẽ về tâm, sinh lý và là
giai đoạn quan trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
về mặt sinh lý, sự phát triển mạnh mẽ của hệ tuần hoàn, đặc biệt là tim dẫn đến sự
mất cân bằng trong hoạt động của hệ tim mạch. Cơ thể người dưới 18 tuổi, đặc biệt là từ khi
dậy thì, tuyết nội tiết hoạt động mạnh, tiết ra nhiều hooc môn tăng trưởng và hooc môn sinh
dục. Những thay đổi này gây ra sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung
ương. Điều này làm cho người dưới 18 tuổi có những cơ xúc động mạnh, những phản ứng
nóng nảy vơ cớ, mất kiểm sốt và có những hành vi bất thường. Do đó, họ dễ thực hiện các
hành vi lệch chuẩn.
Về mặt tâm lý, ở lứa tuổi này, con người ra thường có nhu cầu độc lập cao. Họ
khơng muốn phụ thuộc vào người khác, quá tự tin vào khả năng của chính mình, muốn tự
khẳng định mình. Điều này thể hiện bằng các dạng hành vi ngang bướng, cố chấp, bảo thủ,
tự ái, phô trương, mạo hiểm, côn đồ. Tuy nhiên, họ cũng có nhu cầu khám phá thế giới rất
cao. Đồng thời, khả năng nhận thức, nhất là nhận thức pháp luật và kinh nghiệm sống chưa


nhiều, dẫn đến họ dễ bị kích động, lơi kéo vào việc khám phá những điều chưa lành mạnh,
trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Như vậy, vể mặt sinh lý và về mặt tâm lý, người dưới 18 tuổi đều có nguy cơ phạm
tội rất cao. Tuy nhiên, đây là đặc tính tự nhiên của con người và điều này có thể hiểu được,
cần sự đối xử nhân đạo đối với họ. Chính vì vậy, không chỉ riêng Việt Nam mà pháp luật
quốc tế, pháp luật hình sự các quốc gia khác cũng dành dự quan tâm, đối xử đặc biệt đối với
họ để răn đe, giáo dục, cải tạo họ thành người có ích cho xã hội nếu lỡ gây ra lỗi lầm.
1.1.2 Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
Về mặt khoa học, khái niệm trách nhiệm hình sự được định nghĩa theo nhiều

phương diện khác nhau như “trách nhiệm hình sự là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội,
thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước nhà
nước” [41, trang 41]; “trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách
nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật
hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện” [24, trang 14]; “trách nhiệm hình sự là
hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với
người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy
định” [5, trang 609]...
Mặc dù được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như vậy, nhưng tựu trung lại,
trách nhiệm hình sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, chỉ
phát sinh khi có sự việc phạm tội xảy ra. Người phạm tội thực hiện hành vi bất hợp pháp,
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác; lợi ích của tập thể, lợi
ích của nhà nước. Chính vì vậy, họ phải gánh chịu hậu quả pháp lý được pháp luật hình sự
quy định - hậu quả xấu đối với bản thân họ (có thể là tước đoạt tự do, giới hạn sự tự do, mất
đi lợi ích kinh tế.... của họ) để thể hiện sự trừng trị nghiêm khắc của xã hội đối với hành vi
đi ngược lại pháp luật, đạo đức, văn minh của họ, và cùng từ đó giúp họ nhận ra lỗi lầm, cải
tạo họ thành người có ích.


Thứ hai, trách nhiệm hình sự ln ln được thực hiện trong phạm vi quan hệ pháp
luật hình sự giữa một bên là Nhà nước và một bên là người phạm tội. Mối quan hệ pháp luật
hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Khác với xã hội cổ xưa, xã hội có
Nhà nước là xã hội văn minh. Nếu như ở xã hội nguyên thủy, sự xâm hại quyền, lợi ích của
nhau được đáp trả tương ứng và thường đó là mối quan hệ giữa nạn nhân với người gây hại.
Tuy nhiên, trong xã hội văn minh - xã hội có Nhà nước, Nhà nước đại diện cho toàn xã hội
sẽ lên án và áp đặt ý chí, trừng trị người phạm tội về những điều xấu mà họ gây ra cho xã
hội, cho cá nhân, tổ chức khác một cách bất hợp pháp.
Thứ ba, trách nhiệm hình sự được áp dụng theo trình tự đặc biệt bởi cơ quan tư pháp

hình sự có thẩm quyền. Bản chất của trách nhiệm hình sự là sự trừng trị, hậu quả xấu mà
người phạm tội phải gánh chịu khi họ thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải có quy
trình chặt chẽ để đảm bảo sự cơng bằng cho nạn nhân cũng như chính người vi phạm, đảm
bảo các mục đích áp dụng trách nhiệm hình sự được thực hiện, đảm bảo tính nhân văn, nhân
đạo cũng như tính văn minh. Trình tự này được Nhà nước quy định một cách chặt chẽ trong
pháp luật tố tụng hình sự - các quy định về mặt hình thức nhằm thực hiện pháp luật hình sự.
Thứ tư, trách nhiệm hình sự chỉ được thể hiện tại bản án của Tồ án đã có hiệu lực
pháp luật bằng việc kết tội và áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.
Thứ năm, đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân, trách nhiệm hình sự áp dụng đối
với người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định. Trách
nhiệm hình sự đối với cá nhân mang tính cá biệt đối với mỗi người vi phạm, mặc dù nhiều
người cùng thực hiện hành vi vi phạm giống nhau, có vai trị như nhau nhưng trách nhiệm
hình sự đối với mỗi cá nhân thực hiện hành vi phạm tội là riêng biệt.
Đây là trách nhiệm hình sự của mọi loại tội phạm. Tuy nhiên, đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi, như phân tích trên, họ có những điểm đặc biệt trong phát triển tâm sinh lý,
thêm vào đó, trách nhiệm hình sự đối với họ chủ yếu mang tính cải tạo, giáo dục là chủ yếu,
tính chất trừng trị chỉ là thứ yếu. Do đó, trách nhiệm hình sự của người phạm tội dưới 18
tuổi có những nét đặc thù riêng, theo hướng có lợi hơn so với với người phạm tội từ đủ 18
tuổi trở lên (người phạm tội đã thành niên) như:


về mức độ, trách nhiệm hình sự của người phạm tội dưới 18 tuổi có tính chất giảm
nhẹ hơn so với người phạm tội đã thành niên.
về điều kiện áp dụng các chế định ở Phần chung của Bộ luật Hình sự như xóa án
tích, giảm mức hình phạt.... đối với người phạm tội phạm tội dưới 18 tuổi thấp hơn so với
điều kiện áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội như án đã tuyên đối với người phạm
tội dưới 16 tuổi khơng được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự, người phạm tội dưới 18 tuổi, đặc biệt là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm

nhất định như tội cướp tài sản, tội giết người.
về hình phạt, người phạm tội dưới 18 tuổi chỉ phải chịu một số hình phạt mà Bộ luật
Hình sự quy định. Đặc biệt, họ khơng phải chịu hai hình phạt nghiêm khắc nhất là tù chung
thân và tử hình và họ khơng phải chịu hình phạt bổ sung. Đối với cùng hình phạt, người
phạm tội dưới 18 tuổi chịu hình phạt nhẹ hơn so với người phạm tội đã thành niên nếu họ có
cùng điều kiện áp dụng và vị trí, vai trị trong thực hiện hành vi phạm tội.
về mặt hình thức, việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội dưới 18
tuổi được tiến hành theo thủ tục đặc biệt. Không chỉ riêng pháp luật Việt Nam mà pháp luật
các quốc gia khác trên thế giới đều có những quy định tố tụng riêng để áp dụng đối với đối
tượng là người phạm tội dưới 18 tuổi được thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của những
người tham gia tố tụng; về điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn; về việc tham gia bắt
buộc của người bào chữa; về sự tham gia của gia đình, nhà trường trong quá trình tố tụng...
Như vậy, trách nhiệm hình sự của người phạm tội dưới 18 tuổi có những điểm đặc
biệt và mang tính đặc thù xuất phát từ chính đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt của người phạm
tội dưới 18 tuổi.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, mục đích và ý nghĩa áp dụng hình phạt đoi
với người phạm tội dưới 18 tuổi
Hình phạt là một trong những đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học luật hình
sự. Khái niệm hình phạt cũng được nhiều nhà khoa học định nghĩa khác nhau như:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do Tịa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và


giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phịng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật
tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân" [15, trang 29]; “hình phạt
là biện pháp cưỡng chế của nhà nước do Toà án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm
theo quy định của luật hình sự, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của
người bị kết án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm "
[44, trang 23]; "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được
quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án để tước bỏ hay hạn chế

quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự" [2, trang 10].
Dưới góc độ pháp luật thực định, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chỉ đến khi
ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, Nhà nước mới quy định khái niệm hình phạt tại Điều
26: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật
Hình sự và do Toà án quyết định”. Kế thừa quy định này, tại Điều 30 Bộ luật Hình sự năm
2015 đã quy định khái niệm hình phạt: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó.
Như vậy, cho dù khái niệm hình phạt được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau
như trên, nhưng về bản chất, cho dù là định nghĩa như thế nào thì hình phạt đều mang
những đặc trưng sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Tính
nghiêm khắc của hình phạt ở việc mặc dù Nhà nước đặt ra nhiều biện pháp cưỡng chế như
xử phạt hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật... nhưng chỉ có hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: hình phạt hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự
do thân thể, lợi ích kinh tế, cá biệt hình phạt còn loại bỏ quyền được sống của người phạm
tội..
Thứ hai, hình phạt chỉ được và phải được quy định trong Bộ luật Hình sự. Chỉ có Bộ
luật Hình sự mới có thể xác định tội phạm và hình phạt dành cho mỗi tội phạm cụ thể,
khơng thể có văn bản nào khác được quy định điều này.


Thứ ba, hình phạt được áp dụng theo bản án của Tịa án. Mặc dù có hệ thống cơ
quan tư pháp và trình tự, thủ tục tư pháp áp dụng đối với chủ thể tội phạm nhưng Tòa án là
cơ quan duy nhất có quyền tuyên án - xác nhận tội danh cho người phạm tội đồng thời cũng
là cơ quan duy nhất áp dụng hình phạt đối với chủ thể đó.
Thứ tư, hình phạt được áp dụng đối với chủ thể của tội phạm. Chỉ chủ thể nào phạm
tội được quy định trong Bộ luật Hình sự mới phải chịu và bị áp dụng hình phạt được quy

định tương ứng với tội danh đó.
Thứ năm, hình phạt là cơng cụ để luật hình sự thực hiện nhiệm vụ của mình là bảo
vệ chế độ, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội;
là công cụ hữu hiệu để đấu tranh phịng chống tội phạm.
Hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi mang đầy đủ các đặc
trưng trên của hình phạt. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, người chưa thành niên phạm tội
là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, chưa nhận thức đầy đủ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, người chưa thành niên dễ có nguy cơ
thực hiện tội phạm nếu họ sống trong một môi trường xã hội khơng lành mạnh, tỷ lệ tội
phạm cao. Bên cạnh đó, người chưa thành niên cũng là người dễ uốn nắn, cải tạo, việc giáo
dục, cải tạo người chưa thành niên thường dễ dàng hơn so với người đã thành niên, đạt hiệu
quả của hình phạt cao hơn. Trong pháp luật hình sự, người phạm tội dưới 18 tuổi là chủ thể
đặc biệt và cũng là đối tượng bảo vệ của pháp luật hình sự. Trách nhiệm hình sự, hình phạt
áp dụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi chủ yếu mang tính chất giáo dục, cải tạo họ là
chính, việc trừng trị đối tượng này cũng chỉ yếu hướng đến mục đích trên. Do đó, người
phạm tội dưới 18 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự ở mức nhẹ hơn so với người phạm
tội thành niên. Tức là, hình phạt áp dụng đối với họ sẽ ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt
áp dụng đối với người đã thành niên trong cùng điều kiện và họ cùng thực hiện hành vi có
mức độ nguy hiểm ngang nhau. Và chỉ một số hình phạt được áp dụng đối với người phạm
tội dưới 18 tuổi, khơng áp dụng hình phạt bổ sung hay hình phạt tù chung thân, hình phạt tử
hình đối với chủ thể tội phạm này.
Như vậy, có thể khái qt, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự,


do Tòa án quyết định cụ thể áp dụng đối người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị
tuyên án được thể hiện bằng sự tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người đó nhằm giáo
dục, cải tạo, trừng trị họ để họ trở thành thành người có ích cho xã hội, góp phần bảo vệ
chế độ, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong
xã hội, của toàn xã hội và của Nhà nước.

Do đó, có thể định nghĩa: Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi
được hiểu là việc xác định hình phạt cụ thể được áp dụng đối với người phạm tội dưới 18
tuổi sau khi đã tuyên án đối với họ, bao gồm: loại hình phạt áp dụng, mức độ hình phạt áp
dụng. Như vậy, sau khi tuyên án đối với người phạm tội dưới 18 tuổi, Tịa án sẽ xác định cụ
thể hình phạt được áp dụng đối với họ. Tuyên án và áp dụng hình phạt là quá trình liên tiếp
nhau. Tuyên án là điều kiện cần và áp dụng hình phạt là điều kiện đủ để xác định trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung và người phạm tội dưới 18 tuổi nói riêng.
Có thể có tun án nhưng khơng có áp dụng hình phạt khi Tịa án xác định người phạm tội
thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Nhưng về cơ bản và phổ biến vẫn là tuyên án
và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
Hoạt động áp dụng hình phạt đối với người phạm tội có những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đây là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do Tịa án thực hiện.
Chỉ có Tịa án mới có chức năng áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Các cơ quan tư
pháp khác hoặc chỉ có chức năng tham gia vào việc làm rõ tội phạm, đề xuất Tòa án xử lý
đối với tội phạm đã xảy ra hoặc là tổ chức thực hiện bản án của Tòa án, tức là tổ chức thi
hành hình phạt đối với người phạm tội. Việc áp dụng hình phạt của Tịa án ngồi việc tn
theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định cịn phải căn cứ vào tội danh cụ
thể, hình phạt được quy định, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự... do
pháp luật hình sự quy định. Đây là việc Tịa án hiện thực hóa hình phạt được quy định trong
pháp luật hình sự đối với tội phạm cụ thể xảy ra trên thực tế.
Thứ hai, áp dụng hình phạt là giai đoạn kế tiếp của tuyên án - xác định tội danh của
tội phạm đã xảy ra và không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Nếu khơng
xác định được tội danh thì có nghĩa người đó khơng phải là tội phạm, do đó, khơng phải
chịu trách nhiệm hình sự, tức là khơng thể bị trừng trị bằng hình phạt. Việc áp dụng hình


phạt chỉ có thể được tiến hành sau khi xác định tội danh của tội phạm - việc phạm tội thỏa
mãn các dấu hiệu của tội phạm được pháp luật quy định và cần thiết phải áp dụng hình phạt
đối với chủ thể của tội phạm đã thực hiện.
Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi ngồi việc

mang các đặc điểm chính trên cịn có một số điểm đặc thù như:
Một là, người phạm tội dưới 18 tuổi, đặc biệt là người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội danh nhất định, do đó,
hình phạt đối với họ cũng chỉ trong phạm vi và khi họ thực hiện các tội danh này.
Hai là, người phạm tội dưới 18 tuổi chỉ phải chịu một số hình phạt nhất định mà
khơng phải tất cả các hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự như họ khơng phải
chịu hình phạt tù chung thân, án tử hình; họ cũng khơng phải chịu hình phạt bổ sung. Mặt
khác, khi khơng cần thiết áp dụng hình phạt thì người phạm tội dưới 18 tuổi có thể được
xem xét để chuyển sang áp dụng các biện pháp tư pháp khác dành riêng cho loại chủ thể tội
phạm này như khiển trách, hòa giải tại cộng đồng...
Ba là, về mức hình phạt cụ thể, người phạm tội dưới 18 tuổi phải chịu mức hình
phạt nhẹ hơn người đã thanh niên nếu họ phạm tội trong cùng điều kiện.
1.3 Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trong pháp
luật hình sự một số nước trên thế giới
Người dưới 18 tuổi phạm tội là một thực tế mà đỏi hỏi pháp luật hình sự của các
quốc gia trên thế giới đều phải điều chỉnh. Mặc dù xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong
pháp luật quốc tế và quốc gia nhưng việc phạm tội của người dưới 18 tuổi không thể khơng
bị truy cứu để đảm bảo an tồn xã hội, đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị, truyền thống pháp luật và các yếu tố
chi phối khác mà mỗi quốc gia có quan điểm riêng và quy định nó pháp luật trong pháp luật
hình sự của mình để giải quyết vấn đề người phạm tội dưới 18 tuổi.
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, thực tế tồn tại ở tất cả các quốc
gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội bằng những cách thức khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội,
truyền thống pháp luật và quan điểm của nhà lập pháp.


* Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi trong pháp
luật hình sự Liên bang Nga
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga được ban hành năm 1996 và được sửa đổi, bổ sung

năm 2010 hiện đang có hiệu lực. Trong Bộ luật này, người phạm tội dưới 18 tuổi được gọi là
người chưa thành niên phạm tội như cách gọi trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của Việt
Nam. Cũng giống như pháp luật hình sự Việt Nam, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga cũng
ban hành một chế định (một chương riêng) quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên phạm tội tại Mục 5 Chương 14 [38, trang 126].
Điều 87 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định: “người chưa thành niên là người
thực hiện tội phạm đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi”. Với chủ thể tội phạm này, quan
điểm của Nhà nước và pháp luật Liên bang Nga là nhằm mục đích giáo dục, phịng ngừa là
chủ yếu. Do đó, Điều 88 quy định: “Đối với người chưa thành niên phạm tội có thể quyết
định hình phạt hoặc áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc”. Người chưa thành niên phạm
tội được áp dụng áp dụng biện pháp giáo dục khi: “Người chưa thành niên phạm tội ít
nghiêm trọng và nghiêm trọng có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu xác định được
rằng việc giáo dục cải tạo người chưa thành niên phạm tội có thể đạt được hiệu quả thơng
qua áp dụng các biện pháp giáo dục bắt buộc” (Điều 90).
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga ưu tiên áp dụng các quy định có lợi cho người chưa
thành niên. Việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc được
quy định tại Điều 90 và miễn chấp hành hình phạt được quy định tại Điều 92 với những điều
kiện rõ ràng, có lợi và hướng đến người chưa thành niên nên quy định rất mở và tạo điều
kiện để áp dụng một cách triệt để đối với các trường hợp người chưa thành niên phạm tội.
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga cịn cho phép áp dụng các biện pháp xử lý chuyển
hướng đối với người chưa thành niên, tức là áp dụng các biện pháp thay thế trong trường
hợp không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội như:
Cảnh cáo; giao cho cha mẹ hoặc người thay cha mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
buộc bồi thường thiệt hại gây ra; hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những đòi hỏi riêng đối với
cư xử người chưa thành niên được quy định tại các Điều 90, Điều 91.


Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định chỉ một số hình phạt được áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội, gồm: phạt tiền; tước quyền làm công việc nhất định; lao
động bắt buộc; lao động cải tạo; hạn chế tự do và tù có thời hạn, đồng thời quy định rõ điều

kiện và thời hạn áp dụng đối với mỗi loại hình phạt này. Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy
định khơng áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm
tội. Hình phạt tù giam được áp dụng đối với người chưa thành niên ở mức nhẹ hơn so với
người trưởng thành và chỉ áp dụng đối với người từ 16 tuổi trở lên. Mức phạt tù đối với
người chưa thành niên bị kết án là không quá 10 năm Điều 88 (trong khi đó thời hạn phạt tù
đối người thành niên quy định tại Điều 57 là không quá 20 năm).
Chỉ khi thật cần thiết Bộ luật Hình sự Liên bang Nga mới cho phép áp dụng hình
phạt tù đối với người phạm tội. Và ngay cả khi cịn có thể áp dụng án treo thì Bộ luật Hình
sự Liên bang Nga vẫn cho phép áp dụng trong trường hợp tái phạm: “Trong trường hợp
phạm nhân là người chưa thành niên được hưởng án treo, mà trong thời gian thử thách lại
phạm một tội mới, nhưng không đặc biệt nghiêm trọng thì Tịa án sẽ căn cứ vào những tình
tiết của vụ án và nhân thân người phạm tội có thể lặp lại quyết định về hình phạt án treo
đối với người đó sau khi đã xác định thời hạn thử thách mới và buộc người này phải thực
hiện những trách nhiệm đã được quy định đối với được hưởng án treo căn cứ vào khoản 5
Điều 73 Bộ luật này” [38, trang 130].
Việc quyết định áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được Bộ
luật Hình sự Liên bang Nga quy định rất chặt chẽ tại Điều 89. Theo đó, việc quyết định áp
dụng hình phạt ngồi việc tn thủ các căn cứ chung như: tính có lỗi của hành vi phạm tội;
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội; các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ thì khi quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên, Tịa án có thẩm quyền còn phải căn cứ vào các yếu
tố:
Thứ nhất, tính đến hồn cảnh sinh sống và giáo dục, mức độ phát triển tâm sinh lý,
các đặc điểm khác về nhân thân khác và cả tầm ảnh hưởng của những người lớn tuổi hơn
đối với người phạm tội chưa thành niên.
Thứ hai, căn cứ độ tuổi chưa thành niên và xem đây như một tình tiết giảm nhẹ
được cân nhắc cùng với các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ hình phạt khác. Tức là, tuổi


càng nhỏ thì việc giảm nhẹ càng phải được lưu ý và đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.

Các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong
Bộ luật hình sự Liên bang Nga (trừ biện pháp giáo dục hoặc chữa bệnh dành riêng cho
người chưa thành niên) còn được phép áp dụng trong trường hợp đặc biệt đối với người tù
18 đến 20 tuổi sau khi Tòa án cân nhắc tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân người
phạm tội (Điều 96). Quy định này giúp cho những người trẻ tuổi mắc sai lầm có thêm cơ hội
hưởng khoan hồng của pháp luật để phấn đấu trở lại làm người có ích cho xã hội.
* Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp
luật hình sự Nhật Bản
Bộ luật Hình sự hiện hành của Nhật Bản được ban hành năm năm 1907, và được
sửa đổi, bổ sung nhiều lần, lần gần đây nhất là sửa đổi, bổ sung năm 2011. Theo quy định
tại Điều 41 của Bộ luật này thì: “Hành vi của người dưới 14 tuổi không bị xử phạt ”. Bộ
luật Hình sự của Nhật Bản khơng phân biệt người phạm tội chưa thành niên với người phạm
tội đã thành niên (trưởng thành), do đó, khơng có chế định riêng quy định về trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên phạm tội. Do đó, về nguyên tắc, tất cả các hình phạt
được quy định tại Điều 9 và chương II Bộ luật Hình sự Nhật Bản đều có thể được áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, bao gồm các hình phạt: Tử hình; Tù có lao động
bắt buộc; Tù khơng có lao động bắt buộc; Phạt tiền; Phạt giam hình sự; Phạt tiền về tội
hình sự nhỏ; Phạt giam vì khơng nộp đủ tiền phạt [50].
Nhật Bản có nền giáo dục tiên tiến và truyền thống xã hội kỷ luật cao, trong nhiều
năm gần đây tỷ lệ sinh rất thấp, do đó, người chưa thành niên được xã hội đặc biệt quan tâm
chăm sóc, giáo dục nên tình hình người chưa thành niên phạm tội không là đáng kể. Nhật
Bản cũng dành sự quan tâm, đối đãi đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuy
khơng được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng trong Luật người chưa thành niên quy
định mang tính ngun tắc là “khơng trừng phạt những người chưa thành niên phạm tội mà
giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của
người chưa thành niên phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh người
chưa thành niên đã mắc phải sai lầm" [50]. Theo đó, việc xét xử đối với người chưa thành


niên phạm tội phải phải “chân tình, có lợi" cho người chưa thành niên và “cần có mọi cố

gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của người chưa thành niên và làm
cho người chưa thành niên có niềm tin". Do đó, trên thực tế, người chưa thành niên ở Nhật
Bản ít bị xét xử về hình sự và áp dụng hình phạt mà chủ yếu được xử lý bằng các biện pháp
cải tạo phi hình sự. Vì vậy, nghiên cứu Bộ luật hình sự Nhật Bản cho thấy khơng quy định
riêng về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên, mà chỉ có nguyên tắc chung
phục vụ cho thực tiễn khi xét xử phải theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng
hình phạt khơng q nghiêm khắc mà thơi.
* Quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội dưới 18 tuổi theo pháp
luật hình sự Vương quốc Thụy Điển
Pháp luật hình sự hiện hành của Vương quốc Thụy Điển là Bộ luật hình sự năm
1962 và được sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất năm 2009. Bộ luật Hình sự Vương quốc
Thụy Điển thể hiện chính sách hình sự hết sức nhân đạo của Nhà nước Thụy Điển và khơng
quy định hình phạt tử hình, hình phạt cao nhất chỉ là tù chung thân.
Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
đủ 15 tuổi trở lên và người chưa thành niên theo pháp luật hình sự của Thụy điển là người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 21 tuổi.
Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội quy định trong Bộ luật Hình
sự Vương quốc Thụy Điển bao gồm: phạt tiền, phạt tù có thời hạn, hình phạt có điều kiện,
buộc phải chịu thử thách và đưa vào cơ sở chăm sóc đặc biệt. Khi quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội, Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định: Tịa
án phải đặc biệt cân nhắc đến độ tuổi của người đó, hình phạt áp dụng phải nhẹ hơn hình
phạt quy định đối với tội phạm tương ứng do người đã thành niên thực hiện [37, trang 282]
(Điều 3 Chương 1 và Điều 7 Chương 29).
Điều 7 chương 29 Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định: “Khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội dưới 21 tuổi, Tòa án cần đặc biệt cân nhắc đến
độ tuổi của người đó nhưng hình phạt khơng được nhẹ hơn so với hình phạt đã quy định đối
với tội đã thực hiện. Hình phạt tù chung thân khơng áp dụng đối với người phạm tội dưới
21 tuổi”.



×