Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nâng cao năng suất và tính bền vững của tôm nuôi trong hệ thống canh tác tôm lúa ở xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.41 KB, 10 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

NÂNG CAO NĂNG SUẤT VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA TƠM NI
TRONG HỆ THỐNG CANH TÁC TƠM LÚA Ở XÃ HỊA MỸ,
HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU
Lê Hữu Hiệp1*, Nguyễn Văn Hảo2, Nguyễn Công Thành1, Lưu Đức Điền3, Trương Minh Lel1,
Hồng Thị Thủy Tiên2

TĨM TẮT
Mơ hình ni tơm quảng canh kết hợp với trồng lúa chiếm diện tích tương đối lớn ở Cà Mau. Đặc
điểm của mơ hình này là thả tơm mật độ thưa, diện tích rộng nên bà con chỉ áp dụng biện pháp kỹ
thuật ở mức độ thấp. Mặc dù các rủi ro đối với vụ nuôi giảm thấp do các hệ thống ni có mức độ
thâm canh thấp, vẫn cịn có một số vấn đề gặp phải: dịch bệnh, ao không giữ nước và năng suất thấp.
Vì vậy, hệ thống canh tác lúa-tơm đã trở nên ngày càng khó khăn trong quản lý, dẫn đến ảnh hưởng
đến sinh kế của người nông dân. Nghiên cứu này nhằm đánh giá các biện pháp kỹ thuật như gia cố
bờ bao, thiết kế lại đồng ruộng, ao ương, chuyển giao một số kỹ thuật ni tơm đến hiệu quả của
mơ hình tơm- lúa. Kết quả cho thấy, các biện pháp kỹ thuật đã có đóng góp tích cực vào sản lượng
tơm của mơ hình khi so sánh với các hộ đối chứng.
Từ khóa: Tơm lúa, mơ hình, tỷ lệ sống, thiết kế, ao ương.

I. MỞ ĐẦU
Trong các mơ hình ni thủy sản ở Cà Mau,
mơ hình ni tơm quảng canh kết hợp với trồng
lúa chiếm diện tích  tương đối lớn. Đến năm
2013, diện tích nuôi trồng thủy sản này đạt gần
40 ngàn ha, chiếm 15% tổng diện tích ni tơm
của tỉnh (Sở NN&PTNT CM, 2014). Các huyện
có ni tơm-lúa kết hợp là Thới Bình, Phú Tân,
Cái Nước, Đầm Dơi. Năng suất tơm bình qn
của mơ hình từ 200 - 250 kg/ha/năm. Đặc điểm
của mơ hình này là thả tơm mật độ thưa vào mùa


khơ, và trồng lúa vào mùa mưa. Trung bình 1
tháng bà con thả từ 1-2 đợt tôm, mật độ từ 1-3
con/m2 và thu tỉa khi tơm đạt kích cỡ thu hoạch.
Mơ hình sản xuất lại có vốn đầu tư thấp, ít rủi
ro, vừa bền vững, rất phù hợp với trình độ, điều

kiện kinh tế, đất đai của đa số người nông dân.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do giá tôm
khá cao, trong khi giá lúa lại thấp, giá trị mang
lại của con tôm gấp nhiều lần so với cây lúa nên
nhiều hộ đã ưu tiên nuôi tôm hơn trồng lúa. Việc
rửa mặn khơng triệt để do cịn tơm trong ruộng,
nên độ mặn trong ruộng vẫn còn khá cao và ảnh
hưởng tiêu cực đến vụ lúa. Từ những phỏng vấn,
quan sát cho thấy, nếu vụ lúa năm trước thất bại
thì năng suất vụ tôm tiếp theo cũng giảm mạnh
do không đủ thức ăn cho tôm, khi tôm thu ở năm
sau thấp thì các nơng hộ tiếp tục thả thêm tơm
vào ruộng nhưng vì khơng đủ thức ăn nên tơm
tiếp tục thất thu, lúc này việc trồng lúa trở nên
khó khăn hơn rất nhiều do độ mặn trong đất cao
và nông hộ không đủ khả năng đầu tư chuẩn bị

Phân Viện Nghiên cứu Thủy sản Minh Hải, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2.
* Email:
2
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2.
3
Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Ni trồng
Thủy sản 2.

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015

65


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
đất trồng lúa, vụ tôm tiếp theo sẽ lại thấp hơn
năm trước. Đây như vịng luẩn quẩn người nơng
dân khơng thể thốt ra nếu khơng có giải pháp để
giải quyết tranh chấp giữa con tôm và cây lúa.
Một hệ thống nuôi với ruộng quảng canh cải tiến
nuôi tôm vào mùa khô, trồng lúa vào mùa mưa và
ao nuôi tôm bán thâm canh bậc thấp có lẽ là giải
pháp cho vấn đề.
Để tiếp tục phát huy lợi thế của mơ hình
tơm – lúa và hỗ trợ bà con nông dân nuôi tôm
bán công nghiệp, dự án SMCN/2010/083 quan
tâm đầu tư cải tạo ao đầm, đê bao chắc chắn giữ
được mức nước theo yêu cầu kỹ thuật, hỗ trợ
con giống qua kiểm tra chất lượng, quản lý chặt
chẽ môi trường ao nuôi, mật độ thả các đối tượng
hợp lý, nhằm giảm rủi ro, tăng thu nhập trên cùng
đơn vị diện tích.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mơ hình này được thực hiện từ tháng
1/2014 đến tháng 12/2014 tại ấp Thị Tường,
xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.
Mơ hình được chia làm hai nhóm thực nghiệm

và đối chứng, mỗi nhóm thực hiện gồm 6
nơng hộ.
2.1 Thiết kế thí nghiệm
Thử nghiệm trên ruộng lúa
Đối với ao (Quảng canh cải tiến) QCCT:
Nghiên cứu hỗ trợ sáu hộ thử nghiệm gia cố bờ

bao để ao giảm thất thoát nước, mở rộng ao lắng
để trữ nước cho ao nuôi, diệt khuẩn, diệt tạp
trước khi thả tôm để nâng cao tỷ lệ sống của
tôm. Các hộ đối chứng làm theo kinh nghiệm
của các hộ này, theo đó phần lớn chỉ có diệt tạp
trước khi thả tôm (Bảng 1).
Bảng 1. Thiết kế thí nghiệm
Nhóm thử
nghiệm

Nhóm đối
chứng

Gia cố bờ bao



Khơng

Mở rộng
ao lắng




Khơng

Diệt tạp



Có, khơng

Diệt khuẩn



Khơng

Hạng mục

Đối với ao ương và ao ni bán thâm canh
bậc thấp: Dự án hỗ trợ con giống, thức ăn và kỹ
thuật nuôi. Mật độ tôm ao nuôi được khuyến
cáo ở mức 15 con/m2 đối với tôm sú và 30 con/
m2 đối với tơm thẻ.
2.2 Hệ thống cơng trình ni
Hệ thống mơ hình đối chứng: Hệ thống được
thiết kế theo canh tác tơm-lúa truyền thống trong
mơ hình quảng canh cải tiến (QCCT) (Hình 1).
Hệ thống gồm bờ bao, mương, trảng và cống cấp
thốt nước.

Hình 1. Hệ thống ni QCCT truyền thống

66

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Hệ thống mơ hình thực nghiệm gồm: 1 ao ni BTC, 1 ao ương tơm giống, ao ni QCCT, ao
lắng, cống cấp thốt nước (Hình 2).

Hình 2. Hệ thống ni BTC và QCCT được thiết kế mới
2.3. Kích thước, diện tích các ao ni
Tùy theo hiện trạng diện tích và cấu trúc đất của các nông hộ, hệ thống nuôi như Bảng 2.
Bảng 2. Kích thước và diện tích các nơng hộ nhóm thực nghiệm
Nông hộ

Ao lắng (m )

Ao ương (m )

Ao BTC (m )

Ao QCCT (m )

Tổng diện tích
mặt nước ni
(m2)

M1

800


1.600

3.000

17.000

22.400

M2

1.000

1.600

3.000

20.000

25.600

M3

1.000

2.000

2.300

38.000


43.300

M4

800

3.000

3.000

35.000

41.800

M5

1.000

2.000

3.500

22.000

28.500

M6

1.000


2.000

3.000

25.000

31.000

2

2

Bảng 3. Kích thước và diện tích các mơ hình
ni đối chứng
Nơng hộ

Ao QCCT (m2)

C1

20.500

C2

17.000

C3

28.000


C4

21.000

C5

16.000

C6

20.000

2

2

2.4 Bố trí thả giống và mật độ thả
Đối với ao QCCT ở mơ hình thực nghiệm:
Tơm giống thả 3 lần/vụ, trong đó có 2 lần thả
trực tiếp tôm giốngvới mật độ là 2 con/m2 và
1 lần thả tôm ương (từ ao ương) mật độ 1 con/
m2. Cả 6 mơ hình đối chứng thả 3 lần/vụ, mật
độ tơm giống thả mỗi lần là 2 con/m2. Đối với
ao nuôi BTC: Tất cả 6 mơ hình thả tơm sú lần 1
với cùng mật độ là 12 con/m2, và 3 mô hình M1,
M2, và M4 thả tơm thẻ lần 2 với mật độ lần lượt
là 40, 75 và 50 con/m2.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015


67


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
2.5 Phương pháp cải tạo ao và chuẩn bị
nước trước thả giống
- Dọn vệ sinh quanh ao, gia cố bờ bao bằng
cơ giới.
- Diệt cá tạp bằng dây thuốc cá.
- Phơi ao, thời gian phơi từ 5-10 ngày tùy
kiều kiện từng ao
Chuẩn bị nước ao QCCT
- Nước được lấy vào ao qua lưới mành.

bộ dự án sẽ đến từng nhà để thu thập các số liệu
này mỗi tuần.
2.8. Phương pháp thu hoạch
Sử dụng phương pháp thu tỉa để thu tơm
đạt kích cỡ thương phẩm trong ao nuôi QCCT.
Dụng cụ thu tỉa là các lú thưa đặt trong mương.
Đến cuối vụ đặt lú có mắt lưới nhỏ ở cống và
tháo nước để thu toàn bộ. Đối với ao ni BTC
thì thu hoạch một lần.

- Mức nước trên trảng từ 0,2-0,4 mét và ở
mương từ 1,2-1,4 mét.

2.9. Phương pháp xử lý số liệu và đánh
giá các chỉ tiêu thu hoạch từ các mơ hình


- Sau 3-5 ngày bón phân gây màu nước màu
(DAP hoặc NPK) với liều lượng 1-2 kg/1.000
m3 cho đến khi độ trong đạt khoảng 30-40 cm.

- Sử dụng phần mền Excel để tính tốn các
giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị.

2.6. Chọn tôm giống và thả giống
Tất cả 12 mơ hình đều chọn tơm giống như
nhau. Tơm giống được chọn lựa đạt tiêu chuẩn
ngành và được đánh giá chất lượng thông qua
cảm quan và kiểm tra mô học tại Phân Viện
Nghiên cứu Thủy sản Minh Hải không mang
một số bệnh nguy hiểm thường gặp như bệnh
đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh cịi và bệnh gan
tụy. Tơm được thả vào sáng sớm. Trước khi thả
ra môi trường nước, bao tôm được thả trôi nổi
trên mặt nước từ 15-30 phút để cân bằng nhiệt
độ sau đó mới thả tơm ra.
2.7. Thu thập số liệu
Các yếu tố môi trường: pH, oxy hòa tan
đượctheo dõi lúc 6 giờ sáng và 14 giờ chiều;
3 ngày/lần trong ao nuôi BTC và ao QCCT.
Các yếu tố này được được đo bằng máy đo điện
cực Aqua-D. Độ mặn, nhiệt độ được theo dõi
hàng ngày bằng logger và chỉ theo dõi ở ao nuôi
QCCT.
Độ kiềm được đo định kỳ 10 ngày/lần bằng
testkit trong ao nuôi BTC.

Số lượng tôm, cua thu hoạch và thả giống
của nông hộ được thu thập bằng cách gửi nông
hộ một quyển nhật ký để ghi chép, sau đó cán
68

- Đánh giá tỷ lệ sống của tôm: Thông qua
số lượng giống thả và số lượng thu hoạch được.
Tỷ lệ sống = {Số lượng tôm thu hoạch (con)
/Số lượng tôm thả nuôi (con)}* 100
- Hệ số chuyển đổi thức ăn:
FCR= {Lượng thức ăn sử dụng (kg)/ Lượng
tôm thu hoạch (kg)}*100
- Năng suất quy đổi tôm các mơ hình: P
(kg/ha)
P = {Sản lượng tơm thu (kg)/diện tích (ha)}
III. KẾT QUẢ
3.1 Kết quả theo dõi các yếu tố mơi
trường ao ni QCCT ở hai mơ hình
3.1.1 Nhiệt độ
Sự biến động về nhiêt độ trong ruộng được
thể hiện ở Hình 3. Nhiệt độ trung bình ở hai
nhóm thử nghiệm và đối chứng khơng có sự
khác biệt. Nhiệt độ trung bình trong ao cao nhất
là ở tháng 4 (330C), sau đó giảm dần khi mùa
mưa đến rồi tăng lại vào tháng 8 khi giai đoạn
chuẩn bị ruộng để gieo xạ lúa. Chênh lệch nhiệt
độ vào ban ngày và ban đêm trong ruộng rất rõ
rệt, đặc biệt ở trên trảng với mực nước trung
bình là 20 cm (Hình 4).


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2

Hình 3. Nhiệt độ trung bình trong ao quảng canh cải tiến

Hình 4. Biến động nhiệt độ trong ao vào giữa mùa khô
3.1.2 Oxy hòa tan
Hàm lượng oxy hòa tan rất cao (7 mg/l) vào buổi chiều tuy nhiên lại rất thấp vào sáng sớm (1-2
mg/l) ở cả hai nhóm nghiên cứu (Hình 5,6).

Hình 5. Oxy hịa tan buổi sáng và chiều trong ao QCCT

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015

69


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 4. Các yếu tố mơi trường ao ni BTC
Mơ hình

Yếu tố
Oxy hịa tan (mg/l)
pH

M1

M3


4,3–7,2

3,8-8,13

7,67-7,86 7,71-8,79

Kiềm (mg CaCO3/l)
Hình 6. Biến động hàm lượng oxy hịa tan
trong ao vào giữa mùa khơ
3.1.3 Độ mặn
Độ mặn trong các ao của hai nhóm nghiên
cứu giảm dần từ tháng 4 khi mùa mưa đến
(Hình 7).

150

100-180

3.3 Ao ương
Tỷ lệ sống của tơm đạt 19-29% sau 60 ngày
với kích cỡ 2-3 g/tôm
3.4 Tôm thu hoạch ao bán thâm canh
Tỷ lệ sống của các ao dao động từ từ 4187,6%. Hệ số thức ăn dao động từ 1,06 - 1,44.
Bảng 5. Sản lượng tôm thu hoạch, tỷ lệ sống,
FCR ở các ao ni BTC

Hình 7. Diễn biến độ mặn trong ao quảng canh
3.2 Các yếu tố môi trường ao nuôi BTC
bậc thấp

Nhìn chung, điều kiện mơi trường ao ni
thuận lợi cho sự phát triển bình thường của tơm.
Các ao có độ sâu trung bình là 1,1 m nên nhiệt
độ, pH dao động trong ngày không lớn. Tuy
nhiên, độ kiềm ở một số mơ hình cao (trên 150
mg CaCO3/l).

70

Nơng
hộ

Tơm
ni

Thu hoạch Tỷ lệ sống
FCR
(kg)
(%)

M3

Tôm sú

532

41,2

1,44


M1

Tôm thẻ

1.100

87,6

1,06

3.5 Năng suất tôm từ ao QCCT
Sản lượng tôm thu hoạch của các nông hộ
tương đối thấp, từ 43-136 kg/ha, trung bình ở
các hộ thử nghiệm là 90 kg/ha và ở các hộ đối
chứng là 81 kg/ha. Tỷ lệ sống của tơm trong ruộng
đạt 1,5-6%. Kích cỡ tôm thu hoạch dao động từ
16,6- 41,6 g tùy vào nơng hộ.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 6. Sản lượng tơm thu hoạch ở hai mơ hình
Nhóm

Thực
nghiệm

Đối chứng


Tơm (kg)

Tỷ lệ sống (%)

Cua (kg)

M1

189

6,0

M2
M3
M4
M5
M6
C1
C2
C3
C4
C5
C6

157
299
341
182
139
149

73
152
219
125
272

3,0
4,5
4,4
3,5
2,9
3,2
1,5
3,9
5,4
4,8
4,0

82
18
200
440
180
136
120
96
0
60
0
101


3.6 Tổng sản lượng tôm trong mỗi mơ
hình
Tổng sản lượng tơm thu trên một đơn vị
diện tích ở mơ hình thực nghiệm cao hơn nhiều
so với mơ hình đối chứng (3.760 kg/ha so với
101 kg/ha).
Bảng 7. Năng suất tơm ở hai nơng hộ điển hình
của mỗi mơ hình
Nhóm

Tơm (kg/ha)

Đối chứng

101

Thực nghiệm

3.760

IV. THẢO LUẬN
Nhiệt độ là một trong những yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng đến tăng trưởng của tôm
(Wyban và ctv., 1995). Nhiệt độ nước ban ngày
ở trảng cao, từ 32-340C, đặc biệt trong giai đoạn
từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6. Nhiệt độ nước
ở trong mương trong cùng thời gian cũng trên
330C, ảnh hưởng đến việc bắt mồi của tôm vào
ban ngày khi khoảng nhiệt độ phù hợp cho tăng

trưởng bình thường của tơm 29-320C (Chen,
1999; Deering, 1995). Nhiệt độ trung bình ở

Năng suất tơm
(kg/ha)
111
79
85
90
91
82
73
43
54
104
78
136

mơ hình thử nghiệm thấp hơn so với mơ hình
đối chứng do bờ bao ở mơ hình thử nghiệm đã
được gia cố nên giữ nước tốt, ít bị rị rỉ sang ao
lân cận. Duy trì mực nước cao trên trảng sẽ góp
phần giảm tác động của nhiệt độ cao mùa khơ,
từ đó giảm stress đối với tơm, giúp tơm gia
tăng thời gian bắt mồi (Wyban và ctv., 1995).
Nhiệt độ cao trong nước ao ở tháng 5-6 cũng
trùng khớp với hiện tượng tơm ốp thân, khơng
lột xác được. Ngun nhân có lẽ bắt nguồn từ
việc tơm khơng tìm đủ thức ăn cho nhu cầu
duy trì.

Hàm lượng oxy hịa tan thấp vào sáng sớm
trong các mơ hình cũng là một trở ngại lớn để
nâng cao tỷ lệ sốngcũng như tăng trưởng của
tôm (Rosas và ctv., 1997). Chỉ số này thường
thấp dưới 1 mg/l ở đáy ao. Hiện tượng oxy hòa
tan thấp kéo dài trong vụ nuôi mặc dù không
gây chết cho tôm trong điều kiện ao quảng
canh nhưng sẽ kìm hãm tăng trưởng của tôm và
tôm dễ bị nhiễm bệnh hơn (Allan & Maguire,
1991). Biến động nhiệt độ lớn, hàm lượng oxy
hòa tan thấp vào buổi sớm dường như là bản
chất của hệ thống ni quảng canh.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015

71


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
Năng suất tơm trung bình trong cả hai mơ
hình trong nghiên cứu này tương đối thấp (8190 kg/ha) so với những công bố trước đây, 250300 kg/ha (Sở NN&PTNT Cà Mau, 2014; Thiều
Lư, 2010). Tỷ lệ sống của tôm khá thấp ở cả hai
mơ hình. Ở các hộ thử nghiệm đã có đê bao chắc
chắn giữ được mức nước theo yêu cầu kỹ thuật,
sên vét mương sâu hơn, con giống qua kiểm tra
chất lượng, quản lý chặt chẽ môi trường ao nuôi,
mật độ thả các đối tượng hợp lý, cũng như việc
đưa tôm từ ao ương có kích cỡ lớn ra ruộng ở
các mơ hình thử nghiệm nhưng kết quả khơng
khả quan hơn so với các hộ đối chứng. Bên cạnh

môi trường khắc nghiệt thì ngun nhân của năng
suất thấp có lẽ là ruộng đã nghèo thức ăn tự
nhiên do không trồng lúa được trong vài năm
trở lại đây. Hiện tượng tôm ốp thân, mềm vỏ phần
nào nói lên việc thiếu thức ăn trong ao. Thơng
thường việc thả con giống có kích cỡ lớn mang
lại tỷ lệ sống cao (83-94%) do khả năng bắt mồi
và chống chọi với cua, cá trong ao tốt hơn tơm
post (Minh, 2003). Vì vậy các giải pháp kỹ thuật
sẽ chưa thuyết phục nếu khơng có giải pháp về cải
thiện thức ăn tự nhiên trong ao. Ở đây chúng tơi
muốn nhấn mạnh lợi ích to lớn của việc trồng lúa
trong mơ hình quảng canh cải tiến.
Việc chuyển đổi một phần diện tích tơm-lúa
thành ao ni bán thâm canh cho thấy mang lại
lợi ích gấp nhiều lần trên một đơn vị diện tích.

72

Với sự hỗ trợ về kỹ thuật ni, quản lý ao, con
giống chất lượng cộng với sự nỗ lực của các hộ
thử nghiệm sẽ là nền tảng vững chắc để người
nông dân vươn lên làm chủ kỹ thuật ni từ đó
nâng cao thu nhập từ ao ni của mình. Mặc dù
vẫn cịn có hộ chưa thành cơng nhưng với 4/6
hộ nhóm thực nghiệm có thu hoạch nên bà con
đều rất tin tưởng vào kỹ thuật nuôi nắm bắt được
từ dự án để từ đó có thể độc lập canh tác khi dự án
kết thúc.
Các số liệu về sản lượng tôm thu hoạch, số

lượng tôm thả giông trong nghiên cứu này được
thu thập khá công phu bằng việc thường xuyên tiếp
xúc với người nông dân (mỗi tuần). Nên các số liệu
này là rất cập nhật và chính xác với thực tế ở nơng
hộ ở mơ hình quảng canh cải tiến.
VI. KẾT LUẬN
Kết quả cho thấy, các biện pháp kỹ thuật đã
có đóng góp tích cực vào sản lượng tơm của mơ
hình khi so sánh với các hộ đối chứng.Việc thiết
kế thêm ao mới để ương hoặc nuôi bán thâm
canh là cần thiết để góp phần cải thiện năng
suất, sản lượng tơm của mơ hình tơm lúa.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả chân thành cám ơn sự hỗ trợ
tài chính từ dự án SMCN/2010/083 do Cơ quan
Nghiên Cứu Nông Nghiệp Úc ở nước ngồi,
ACIAR,tài trợ.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông Cà Mau, 2014.
Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch năm 2013 và
kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm
2014 tỉnh Cà Mau.
Thiều Lư, Trình Trung Phi, Nguyễn Cơng Thành, Đỗ

Văn Hồng, Ngơ Minh Lý, Trần Quốc Binh,
Nguyễn Trọng Nghĩa, 2010. Nghiên cứu một số
giải pháp phát triển bền vững các mơ hình ni
tơm trên vùng chuyển đổi tại huyện Đầm Dơi,
tỉnh Cà Mau. Báo cáo khoa học, Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản 2. 103 trang
Tài liệu tiếng Anh
Allan, G.L., Maguire, G. B., 1991. Lethal levels of low
dissolved oxygen and effects of short-term oxygen
stress on subsequent growth of juvenile (Penaeus
monodon). Aquaculture 94(1), 27-37.
Chen, H.Y., & Chen, Y.L., 1999. Temperature
preferendum of postlarval black tiger shrimp
(Penaeus monodon).  Marine and freshwater
research 50(1), 67-70.
Clayton, H., 2003. Rice–shrimp farming in the Mekong
Delta: biophysical and socioeconomic issues (No.
113920). Australian Centre for International
Agricultural Research.

Deering, M.J., Fielder, D.R., & Hewitt, D.R., 1995.
Effects of temperature on growth and protein
assimilation in juvenile leader prawns Penaeus
monodon. Journal of the World Aquaculture
Society 26(4), 465-468.
Rosas, C., Sánchez, A., Díaz-Iglesia, E., Brito, R.,
Martinez, E., & Soto, L.A., 1997. Critical
dissolved oxygen level to and Penaeus schmitti
postlarvae (PL10–18) exposed to salinity
changes. Aquaculture 152 (1), 259-272.

Truong Hoang Minh, Christopher J. Jackson, Tran
Thi Tuyet Hoa, Le Boa Ngoc, Nigel Preston and
Nguyen Thanh Phuong. 2003. Growth and survival
of Penaeus monodon in relation to the physical
condition in the rice-shrimp culture system in the
Mekong Delta. In   Rice–shrimp farming in the
Mekong Delta: biophysical and socioeconomic
issuesIn   Rice–shrimp farming in the Mekong
Delta: biophysical and socioeconomic issues.
Editted by Preston, K and Clayton, H. 2003.
Technical report ACIAR Project
Wyban, J., Walsh, W.A., & Godin, D.M., 1995.
Temperature effects on growth, feeding rate
and feed conversion of the Pacific white shrimp
(Penaeus vannamei). Aquaculture 138(1–4), 267279.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015

73


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

IMPROVE PRODUCTIVITY AND SUSTAINABILITY
OF SHRIMP FARMING IN RICE-SHRIMP SYSTEM
IN HOA MY, CAI NUOC, CAMAU
Le Huu Hiep1*, Nguyen Van Hao2, Nguyen Cong Thanh1, Luu Duc Dien3, Truong Minh Lel1,
Hoang Thi Thuy Tien2
ABSTRACT
The rice- shrimp culture system accounts for a relatively large area in Ca Mau. This model is characterized by low stocking density, large area, low level of culture technique. Although the risk is

low due to reduced intensification, there are still a number of problems encountered such as disease, maintain water level and low production. Therefore, rice-shrimp culture system has become
increasingly difficult to manage, leading to impacts on farmer’s livelihoods. This study aimed to
evaluate the technical measures such as reinforce embankment, redesign fields, nursery pond, high
quality stocking, transfer shrimp culture technques. The results show that technical measures have a
positive contribution to the production of shrimp in the trial model when compared with the control
households.
Keywords: Rice-shrimp, trial model, survival rate, design, nursery pond.

Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng
Ngày nhận bài: 29/5/2015
Ngày thông qua phản biện: 10/6/2015
Ngày duyệt đăng: 15/6/2015

1
Minh Hai Sub-Institute for Fisheries Research,Research Institute for Aquaculture No 2.
* Email:
2
Research Institute for Aquaculture No 2.
3
Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2.

74

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015



×