Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Đề cương Chương trình thi tuyển sau đại học chuyên ngành duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.12 KB, 49 trang )

ĐỀ CƯƠNG CHƯƠNG TRÌNH THI TUYỂN SAU ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ DUY VẬT LỊCH SỬ
62 2280 05
(Dùng cho ngành Triết học)
A. MỤC TIÊU.
Đề cương nhằm đáp ứng việc ôn tập và thi tuyển sau đại học chuyên ngành
triết học (môn cơ bản) với những yêu cầu sau:
- Nắm được một cách hệ thống các nguyên lý, quy luật cơ bản của triết
học Mác – Lênin (6/10).
- Trên cơ sở đó vận dụng để nhận thức các hiện tượng, quá trình xảy ra
trong hiện thực, trong thực tiễn) và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
vào việc xây dựng đường lối phát triển đất nước (3/10).
- Có sự phê phán, đánh giá một cách khách quan. Khoa học các quan
niệm, lý thuyết Triết học ngoài mác xít (1/10).
* Phạm vi kiến thức: Cơ bản theo chương trình đại học có nâng cao, tương
đương 120 tiết (8 đvht); trong đó bao gồm cả tư tưởng của các nhà kinh điển:
C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
B. NỘI DUNG.
I. Đối tượng và đặc điểm của Triết học Mác – Lênin.
1. Triết học là gì?
- Đối tượng Triết học, Triết học và khoa học cụ thể.
- Vấn đề cơ bản của Triết học
- Chức năng của Triết học
- Vai trò của Triết học trong sự hình thành và phát triển thế giới
quan, nhân sinh quan và phát triển xã hội.
2.Sự ra đời, phát triển của Triết học Mác – Lênin.
- Những tiền đề của sự ra đời Triết học Mác – Lênin.
- Bản chất của bước ngoặt cách mạng trong triết học do C.Mác.
Ph.Ănghen thực hiện.
- Đối tượng, đặc điểm của Triết học Mác – Lênin.


1


- Yêu cầu của sự phát triển Triết học Mác – Lênin trong thời đại
ngày nay.
II. Vật chất và ý thức.

1. Vật chất và những phương thức tồn tại của vật chất.
- Khái quát những quan điểm triết học trước Mác về vật chất. Những
đóng góp và hạn chế.
- Định nghĩa của Lênin về vật chất:
+ Hoàn cảnh ra đời, nội dung và ý nghĩa của định nghĩa
- Tồn tại của vật chất:
+ Khơng gian, thời gian và những hình thức tồn tại của vật chất.
+ Vận động với tính cách là phương thức tồn tại của vật chất.
+ Tính thống nhất vật chất của thế giới.
2. Ý thức.
- Khái quát những quan điểm Triết học trước Mác về ý thức.
- Quan điểm của Triết học Mác – Lênin về ý thức, nguồn gốc và bản chất
của ý thức.
- Cấu trúc của ý thức: tri thức, tự ý thức, vô thức, tiềm thức và trực giác.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
- Quyết định luận duy vật và tính độc lập tương đối của ý thức.
- Vai trò của ý thức trong đời sống cá nhân và xã hội.
III. Phép biện chứng duy vật:

1. Biện chứng và siêu hình:
- Những đặc trưng của tư duy biện chứng, sự hình thành và phát triển phép
biện chứng (các hình thức : biện chứng tự phát cổ đại, biện chứng duy tâm,
biện chứng duy vật).

- Đặc trưng của tư duy siêu hình. Mặt hợp lý và hạn chế của tư duy siêu
hình.
2. Phép biện chứng duy vật – khoa học về mối liên hệ phổ biến và phát
triển.
Nội dung, tính chất, ý nghĩa phương pháp luận.
3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật (phép biện chứng duy
vật – khoa học về những quy luật chung nhất, phổ biến nhất của sự vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy).
2




Quy luật 1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
- Vị trí của quy luật trong phép biện chứng.
- Nội dung:
+ Các khái niệm: mặt đối lập, thống nhất của các mặt đối lập, đấu
tranh của các mặt đối lập.
+ Mâu thuẫn và chuyển hóa.
Vai trò của thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong quá
trình tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn của quy luật.
• Quy lật 2: Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại.
- Vị trí của quy luật trong phép biện chứng.
- Nội dung quy luật:
+ Cáckhái niệm: chất, lượng, độ, nút.
+ Biện chứng giữa chất và lượng.
- Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn của quy luật.
4. Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:

- Cái chung – cái riêng
- Bản chất – hiện tượng
- Nội dung – hình thức
- Nguyên nhân – kết quả
- Tất nhiên - ngẫu nhiên
- Khả năng – hiện thực
+ Nội dung phạm trù, sự chuyển hóa biện chứng giữa các phạm trù.
+ Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu các cặp phạm trù.
VI. Lý luận nhận thức của Triết học Mác – Lênin.

1. Những nguyên tắc và bản chất của nhận thức luận duy vật biện chứng.
- Những nguyên tắc.
- Bản chất của nhận thức, chủ thể và khách thể nhận thức.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức.
- Khái niệm và các hình thức thực tiễn.
- Vai trị của thực tiễn đối với q trình nhận thức.
- Ý nghĩa.
3


3. Quy luật phát triển nhận thức: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn.
- Trực quan sinh động, tư duy trừu tượng.
- Sự thống nhất và khác biệt giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn – nguyên tắc tối cao của nhận thức
luận duy vật biện chứng. Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
- Vai trò của chân lý – nhận thức và yêu cầu vận dụng chân lý.
- Ý nghĩa.
V. Hình thái kinh tế xã hội.


1. Khái lược một số quan điểm chung về xã hội.
- Quan điểm của triết học trước Mác về xã hội.
- Quan điểm của triết học trước Mác về xã hội (cách tiếp cận).
- Tự nhiên và xã hội. Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội. Tác động của
quy luật khách quan (QLTN, QLXH) đối với sự vận động và phát triển xã hội.
2. Phạm trù hình thái kinh tế xã hội.
- Cách tiếp cận.
- Nội dung, kết cấu hình thái kinh tế xã hội, ý nghĩa.
3. Biện chứng giữa các yếu tố của hình thái kinh tế xã hội.
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất- quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất:
+ Các khái niệm: phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kết cấu.
+ Mối quan hệ biện chứng.
+ Sự phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử.
+ Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đường lối xây dựng
và phát triển kinh tế nước ta trong giai đoạn đổi mới (từ Đại hội VI đến Đại
hội VIII).
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội:
+ Các khái niệm: cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
+ Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam hiện nay.
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên.
4


- Những nội dung cơ bản của luận điểm.
- Ý nghĩa của luận điểm đối với nhận thức, xây dựng con đường phát

triển đất nước.
VI. Vấn đề giai cấp, dân tộc, nhà nước và cách mạng xã hội.

1. Giai cấp.
- Khái niệm, nguồn gốc, kết cấu giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp là động lực của sự phát triển xã hội trong xã hội
có giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
2. Dân tộc.
- Khái niệm dân tộc, sự xuất hiện (hình thành) dân tộc.
- Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong
giai đoạn hiện nay.
3.Nhà nước.
- Nguốn gốc, đặc trưng, bản chất, chức năng của nhà nước, các kiểu
và hình thức nhà nước.
- Đặc điểm của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Cách mạng xã hội.
- Khái niệm và đặc trưng của cách mạng xã hội.
- Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của các hình thái
kinh tế – xã hội.
VII. Cá nhân và xã hội. Vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân trong lịch
sử.

1. Cá nhân và xã hội.
- Cá nhân
- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
- Những tiền đề phát triển cá nhân
2. Vai trò của quần chúng nhân dân, và vĩ nhân trong lịch sử.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam với tư tưởng “dân là gốc” và tăng cường
sự lạnh đạo của Đảng và mục tiêu “Tất cả vì con người, cho con
người”.
5


VIII. Ýù thức xã hội và các hình thái ý thức xã hội.

1.Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội.
- Khái niệm tồn tại xã hội và kết cấu của tồn tại xã hội.
- Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội, ý thức xã hội
và ý thức cá nhân.
2. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội, ý thức xã hội.
- Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
- Tính độc lập tương đối và tác động trở lại của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: quan hệ giữa phát triển kinh tế, ổn định đời sống,
đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển đời sống văn hóa tinh thần trong giai
đoạn hiện nay.
3. Một số hình thái ý thức xã hội căn bản và vai trò của chúng.
- Ý thức chính trị.
- Ý thức pháp quyền.
- Ý thức nghệ thuật.
- Ý thức tôn giáo.
- Ý thức khoa học.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên

soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn Khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh biên soạn), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
2. Triết học Mác – Lênin (Đề cương bài giảng), Nxb. Giáo dục đào tạo
(1992,1993, 1994).
3. Giáo trình Triết học Mác – Lênin do Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh xuất bản (1995, 1996).
4. Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc
chuyên ngành Triết học) - T1,T2, T3- Nxb. Chính trị Quốc gia, 1995.
6


5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc: lần thứ VI, VII, VIII; Các nghị quyết
của BCH Trung ương: 2, 4, 5 khóa VIII.
6. Các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I. Lênin.
- Chống Đuy ring, biện chứng tự nhiên.
- Hệ tư tưởng Đức.
- Luận cương về Phoi – ơ – bắc.
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
- Bút ký triết học.
- Những người bạn dân.
- Nhà nước và cách mạng.
(Những tư tưởng luận điểm quan trọng của các nhà kinh điển liên quan đến
những vấn đề ôn tập).

CÂU HỎI VÀ HƯỚNG DẪN ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC – PHẦN PHƯƠNG TÂY
( dành cho thí sinh thi tuyển cao học, NCS chuyên ngành Triết học)
1. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thức lịch sử cơ bản của chủ
nghĩa duy duy vật

Trong quá trình phát sinh và phát triển của mình chủ nghĩa duy vật trải qua các
hình thức cơ bản sau:
1. Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ (øCNDV tự phát, xét theo cơ sở, quá
trình hình thành lẫn trình độ của nó) tại các nước phương Đơng(Ấn Độ, Trung Quốc…)
và Hy Lạp, La Mã cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. Các nhà triết học
bước đầu vượt qua thế giới quan huyền thoại, màthần thoại là hạt nhân của nó, giải
thích ngun nhân thế giới từ chính các yếu tố vật chất sẵn có của thế giới (đất, nước,
lủa, khơng khí…), xem xét sự hình thành của các sự vật một cách tự thân. Đạt được
thành quả đó là nhờ chủ nghĩa duy vật ngay từ khi mới ra đời đã có mối liên hệ hữu cơ
với sự phát triển khoa học, nhất là khoa học tự nhiên, dù đang cịn ở trong tình trạng tản
mạn, sơ khai, chưa chun biệt hóa.
Tính chất ấu trĩ (chất phác, ngây thơ) của chủ nghĩa duy vật cổ đại gắn với trình
độ nhận thức chung của lồi người thời kỳ này. Phần lớn nhận định của chủ nghĩa duy
vật căn cứ vào sự quan sát trực tiếp, sự cảm nhận hay suy tưởng của các triết gia, mà
chưa được luận chứng bằng chất liệu sống động của tri thức khoa học. Cách đặt vấn đề
về “bản nguyên”, hay viên gạch đầu tiên xây nên tòa lâu đài vũ trụ, xét theo quan điểm
vật lý học hiện đại, cũng chưa thịa đáng. . Bên cạnh đó do chịu sự quy định của điều
kiện kinh tế, văn hóa của xã hội, nhiều nhà duy vật chưa chấm dứt hẳn sự ràng buộc của
7


thế giới quan nguyên thủy (vật hoạt luận, vật linh thuyết, nhân hình hóa…) và các yếu
tố huyền học (occultism).
Trong lịch sử chủ nghĩa duy vật chất phác tại Hy lạp cổ đại, nguyên tử luận duy
vật, do Lơxíp sáng lập, Đêmơcrít (và sau này, trong thời kỳ Hy Lạp hóa có thêm
Êpiquya đã thực hiện nhân bản hóa nguyên tử luận) phát triển, chiếm vị trí đặc biệt, là
điển hình cho tư tưởng duy vật cổ đại. Hơn thế nữa, thông qua nguyên tử luận duy vật,
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ngay từ buổi ban đầu đã
trở nên gay gắt, quyết liệt. Cuộc đấu tranh đó làm nên động lực của sự phát triển tư duy
triết học trong hơn hai ngàn năm qua. Đóng góp của ngun tử luận vào hình thức đầu

tiên của chủ nghĩa duy vật là ở chỗ, thứ nhất, đã xác lập bức tranh phi nhân hình về thế
giới, căn cứ trên suy đoán về nguyên tử như cái bé nhất, bất khả phân, cơ sở của sự tồn
tại và biến đổi trong thế giới, và hư khơng, như bể chứa các ngun tử; thứ hai, giải
thích các sự vật, hiện tượng, quá trình diễn ra trong thế giới theo tính tất yếu tự nhiên;
thứ ba, vận dụng nguyên tử luận vào việc phân tích bản chất con người và xã hội, phủ
nhận quan điểm về tính bất tử của linh hồn, ủng hộ nhiệt thành nền dân chủ; thứ tư, kích
thích tư duy khoa học thơng qua cách đặt vấn đề về nguyên tử như giới hạn của thế giới
vật chất.
V.I. Lênin trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đã cô
đọng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bằng hình ảnh
“đường lối Đêmơcrít” và “đường lối Platơn”.
2. Chủ nghĩa duy vật máy móc - siêu hình (có thể gọi một cách cơ đọng là Chủ
nghĩa duy vật siêu hình) ở châu Âu Phục hưng (cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XVI) và cận
đại ( thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX) là hình thức lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy
vật. Nó bắt đầu từ tư tưởng duy vật trong việc xác lập bức tranh vật lý về thế giới ở các
nhà khoa học Phục hưng (Copernic, Bruno, Galilei...) đến các nhà duy vật thế kỷ XVII
tại Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, đặc biệt chủ nghĩa duy vật vô thần Pháp thế kỷ XVIII với
La Mettrie, Diderot, Holbach, Helvétius... và kết thúc ở chủ nghĩa duy vật nhân bản
Feuerbach tại Đức, trước khi được thay thế bằng hình thức tiếp theo.
Về thế giới quan, tập trung chủ yếu ở khía cạnh bản thể luận, tìm hiểu về tồn tại
của giới tự nhiên, thế giới vật chất, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này phát triển trong mối
liên hệ với khoa học tự nhiên. Nhờ biết dựa vào các thành tựu khoa học các nhà duy vật
đã xác lập được các bức tranh mới về thế giới, bước đầu đưa ra những nhận định hợp lý
về tự nhiên, các quy luật của nó, phát triển tinh thần hồi nghi và phê phán đối với chủ
nghĩa giáo điều và giả khoa học. Trong quan niệm về vật chất, chủ nghĩa duy vật thế kỷ
XVII – XVIII có bước phát triển mới so với thời cổ đại. Thay vì cuộc tranh luận về bản
nguyên thế giới, các nhà duy vật đã tiếp cận thế giới vật chất từ góc độ bản thể luận, lý
giải vấn đề này trên cơ sở khái qt hóa tồn bộ tính vật chất của vũ trụ, tự nhiên, đi
đến tư tưởng về tính thống nhất vật chất của thế giới. Đềcác (Descartes) trong Vật lý
học tuyên bố :”Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây nên thế giới”. Xpinôda (Spinoza) xem

thực thể (substance) như “nguyên nhân tự nó” (causa sui); các nhà duy vật khác nói về
tính tích cực nội tại của vật chất. Đặc biệt các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như La
Mếtri (La Mettrie), Điđơrô (Diderot), Hônbách (Holbach) … thông qua cách hiểu về
8


tính quy luật tự thân và tính vĩnh viễn, khơng do ai sáng tạo của vật chất, tìm hiểu các
hình thức vận động của vật chất, xem vận động như mọi sự thay đổi nói chung, đã đến
gần với hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật.
Về nhận thức luận, tinh thần hoài nghi và phê phán làm nên giá trị của chủ nghĩa
duy vật trong cuộc đấu tranh chống triết học kinh viện và tư duy phản khoa học . Bêcơn
(F. Bacon) phê phán những “ảo tưởng”, hay những “bóng ma” của nhận thức, vạch ra
thực chất nền quân chủ, tức uy quyền trong sinh hoạt khoa học, đả phá triết học kinh
viện; Hốpxơ (T.Hobbes) loại trừ Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu, quy mọi đối
tượng về “vật thể”, từ vật thể tự nhiên đến vật thể xã hội; Lốccơ (J.Locke) và các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVIII giương cao ngọn cờ đấu tranh chống thần quyền, phê phán
trật tự xã hội “phi lý”, “phi nhân tính”. Phê phán cái cũ, các nhà duy vật xác lập phương
pháp nhận thức khoa học giúp con người khẳng định quyền lực của mình trước tự
nhiên. Cũng như triết học nói chung, trong phạm vi chủ nghĩa duy vật hình thành hai
khuynh hướng cơ bản, phụ thuộc vào cách tiếp cận đối với khoa học và trình độ nhận
thức của thời đại. Khuynh hướng kinh nghiệm (trường phái Anh) dựa trên kết quả của
khoa học tự nhiên thực nghiệm, nhấn mạnh vai trò của cảm giác, kinh nghiệm như
nguồn gốc tri thức, chú trọng nấc thang “trực quan cảm tính” của nhận thức, chủ trương
phương pháp quy nạp; khuynh hướng duy lý dựa trên kết quả của khoa học tự nhiên lý
thuyết và toán học, nhấn mạnh vai trị của “trí tuệ tự thân”, hay “trực giác trí tuệ”, chú
trọng nấc thang “tư duy trừu tượng” của nhận thức, chủ trương phương pháp diễn dịch –
toán học.
Về vấn đề nhân sinh,, xã hội, phần lớn các nhà duy vật là những nhà nhân văn,
khai sáng tiêu biểu của thời đại. Bêcơn đề cao sức mạnh của khoa học, gợi mở về một
xã hội lý tưởng tôn vinh quyền lực của tri thức (tuyên bố “tri thức là quyền lực”),

Hơpxơ nhấn mạnh tính chất pháp quyền của nhà nước dưới vỏ bọc của hình ảnh
Leviathan – Đấng chúa tể hùng mạnh, Lôccơ nêu lên nguyên tắc phân quyền, đặt nền
móng cho chủ nghĩa tự do và quan điểm khoan dung tôn giáo, các nhà duy vật Pháp thế
kỷ XVIII giương cao ngọn cờ “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”, làm sâu sắc thêm tư tưởng
phân quyền, cụ thể hóa nguyên tắc thống nhất quyền con người và quyền công dân. Các
nhà duy vật bằng các tác phẩm của mình đã tham gia vào quá trình thiết lập mơ hình
“nhà nước hợp lý tính”, đề cao hình ảnh” con người lý trí” và các giá trị nhân văn chủ
đạo.
Bên cạnh đó điều kiện lịch sử thế kỷ XVII – XVIII tác động đến sự phổ biến tính
chất máy móc, siêu hình, quan niệm duy tâm về lịch sử ở nhiều nhà duy vật.
Về thế giới quan, sự thống trị của cơ học đã ảnh hưởng đến cách thức tư duy của
đa phần các nhà duy vật. Dưới tác động của cơ học và xu thế tốn học hóa tư duy , các
nhà triết học ( nhất là các nhà triết học thế kỷ XVII ) quy các quá trình của tự nhiên vào
dạng vận động cổ điển là vận động cơ học (vận động hiểu như sự chuyển dịch, sự thay
thế vị trí các vật thể trong khơng gian), xem con người và các thiết chế xã hội như hệ
thống máy móc phức tạp (cơng thứùc: “con người - cỗ máy”), đồng nhất vật chất với
vật thể (Hốpxơ, Đềcáctơ…), với nguyên tử, hay với các chất giả định mang các loại
trường, Tính chất máy móc tất yếu gắn với tính chất siêu hình, nghĩa là trong khi nỗ lực
9


đào sâu từng mặt, từng thuộc tính của sự vật , khám phá bản chất sâu kín của vạn vật
(siêu hình), các nhà triết học duy vật xem xét chúng trong trạng thái tách biệt, ngưng
đọng, chưa vạch ra một cách thấu đáo mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa
chúng, cũng như không đưa ra lời giải đáp hợp lý về nguồn gốc và động lực của vận
động và phát triển. Ở góc độ nhận thức luận sự phân cực giữa khuynh hướng kinh
nghiệm và khuynh hướng duy lý cho thấy tính cực đoan, phiến diện của triết học thời kỳ
này nói chung, chủ nghĩa duy vật nói riêng (một khuynh hướng bám sát vào khoa học
thực nghiệm, đề cao thái quá kinh nghiệm, cảm giác, trực quan sinh động, phương pháp
quy nạp, khuynh hướng khác lại thiên về khoa học tự nhiên lý thuyết và toán học, tuyệt

đối hóa “trí tuệ tự thân”, tư duy trừu tượng, phương pháp diễn dịch), không thấy rằng
trong nghiên cứu khoa học cần có cách tiếp cận tồn diện, thống nhất các phương pháp
để đạt được hiệu quả tốt nhất, đáng tin cậy.
Trong quan điểm xã hội tính chất duy tâm thể hiện ở việc xác định động lực cơ
bản của lịch sử (xem xét động lực của tiến bộ xã hội qua lăng kính của giáo dục, hoặc
sự thay thế các hình thức sinh hoạt tinh thần), cách hiểu về thực tiển, về vai trò của quần
chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình (hay đơn giản là CNDV siêu hình) là
hình thức lịch sử thứ hai trong chủ nghĩa duy vật.
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, đã
khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng thời trước,
tạo nên sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, sự thống nhất về
thế giới quan và phương pháp luận.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền trước hết với tên tuổi của C. Mác và Ph.
Ăngghen, là hình thức hiêïn đại của chủ nghĩa duy vật, đánh dấu bước chuyển từ tư
duy” cổ điển” truyền thống, bắt đầu từ thời cổ đại sang phương pháp tiếp cận mới đối
với các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện
chứng đánh dấu bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học, làm tăng
thêm vị trí và vai trị của triết học trong đời sống xã hội.
Thứ nhất, CNDVBC khắc phục sự đối lập giữa hệ thống và phương pháp trong
chủ nghĩa duy vật (điển hình là Phoiơbắc) và phép biện chứng trong lịch sử (điển hình
là Hêghen).
Thứ hai, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được thể hiện một
cách sinh động và sáng tạo trong việc phân tích tiến trình lịch sử - xã hội, hình thành
quan niệm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử), khắc phục hạn chế của chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII và Phoiơbắc (Feuerbach) [nhắc lại nhận định của
Mác và Ăngghen về Poiơbắc trong Hệ tư tưởng Đức], qua đó khẳng định CNDV do
Mác và Ăngghen sáng lập là CNDV triệt để trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và tư
duy.
[ Kiến thức mở rộng: Trong tác phẩm Mác người vượt trước thời đại Đ. Benxai

đơ cho rằng công lao lịch sử của Mác là đã đem đến cách viết mới về lịch sử. Cách viết
mới ấy xem phương thức sản xuất là nền tảng xã hội, qua đó rút ra quy luật xã hội phổ
biến. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX; từ nội
10


dung chính này Mác phân tích biện chứng CSHT – KTTT, khái quát toàn bộ nội dung
ấy trong học thuyết về HTKT-XH… Cách viết mới ấy về lịch sử đã khắc phục 3 hạn chế
của các nhà nghiên cứu lịch sử trước đó :1. thi vị hố lịch sử (quan niệm DT về LS); 2.
xem lịch sử như những lát cắt tách rời nhau (quan niệm SH và chủ nghĩa HV); 3. xem
lịch sử thời sau chỉ đơn giản là sự tiếp nối các thời đại trước một cách máy móc, xơ
cứng (CN máy móc)].
Thứ ba, từ hai điểm vừa nêu có thể thấy rằng nguyên tắc xuyên suốt trong triết
học DVBC là thống nhất lý luận và thực tiễn, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ
quan điểm thực tiễn.
Thứ tư, CNDVBC, với sự thống nhất tính cách mạng và tính khoa học của nó, là
vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, hướng đến cải tạo thế giới. [thí sinh có thể mở rộng
thêm nội dung]
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, cơng nghệ, sự thay đổi
nhanh chóng của thực tiễn xã hội, các luận điểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng luôn thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh, và điêù này hồn tồn phù hợp với
chính bản chất của nó.
[Phần dưới đây là kiến thức mở rộng, khơng sử dụng trong chương trình ơn
tập].
+ Trong phạm vi chủ nghĩa duy vật, cùng với việc làm sáng tỏ về mặt lịch sử các
hình thức cơ bản của nó, người ta cịn phân biệt:
- Chủ nghĩa duy vật triệt để và chủ nghĩa duy vật không triệt để. Sự so sánh này
căn cứ vào tính chế định lịch sử – xã hội đối với từng học thuyết và đại diện của nó, do
đó khó tránh khỏi một số yếu tố chủ quan trong đánh giá. Tuy nhiên căn cứ vào quy luật
phát triển cái mới luôn thực hiện sự lọc bỏ biện chứng đối với cái đã qua. Xét theo

nghĩa này chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để, bởi các nguyên lý
của nó được phổ biến vào cả tự nhiên lẫn xã hội và tư duy con người. Ngược lại chủ
nghĩa duy vật Feuerbach khơng triệt để, vì khơng dựa vào quan điểm duy vật trong việc
phân tích các vấn đề lịch sử, xã hội. Một trong những ví dụ điển hình : Feuerbach xem
xét tiến bộ xã hội qua lăng kính của sự thay thế Kytô giáo bằng “tôn giáo không có
Chúa”, tức Tơn giáo của Tình u, nơi mà tất cả mọi người, không phân biệt địa vị xã
hội, lập trường chính trị, giới tính …đối xử với nhau như những vị chúa nhân từ và hào
hiệp, tức qua lăng kính của những biến đổi tinh thần, đạo đức, chứ không phải qua hoạt
động nền tảng của con người. Trước đó chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII còn chịu
ảnh hưởng nhất định của thần luận, phiếm thần – đó cũng là biểu hiện của chủ nghĩa
duy vật không triệt để.
Chủ nghĩa duy vật khoa học và chủ nghĩa duy vật tầm thường.
Chủ nghĩa duy vật khoa học (trong thời đại ngày nay là chủ nghĩa duy vật biện
chứng) trong khi khẳng định về ngun tắc tính có trước và tính quyết định của vật
chất trong quan hệ với ý thức đã xét mối quan hệ đó một cách cụ thể, đồng thời thừa
nhận tính độc lập tương đối của ý thức, sự tác động trở lại của nó đối với thế giới vật
chất, cũng như các lĩnh vực hoạt động vật chất của con người.
11


Ngược lại chủ nghĩa duy vật tầm thường quy toàn bộ cái tinh thần, ý thức về cái
vật chất, thậm chí đồng nhất ý thức với một dạng vật chất nhất định. Manh nha từ thời
cổ đại, chủ nghĩa duy vật tầm thường thể hiện qua các đại diện tiêu biểu của mình vào
thế kỷ XIX như L.Buchner (1824-1899), J. Moleschott (1822-1893), K. Vogt (18171895)… Chủ nghĩa duy vật kinh tế* cũng có khá nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa
duy vật tầm thường.
+ Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan,
nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận,
nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong nhiều trường hợp thể hiện
sự ngạc nhiên thú vị trước cái “siêu phàm”, cái “thần tính” của con người, để phân biệt
với cái “không thuộc về thần linh”, khơng “siêu phàm”, tức thế giới khơng-phải-conngười. Vì thế mà nhân đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy

tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu
xuẩn” (V.I.Lênin toàn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 293).

2. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thức lịch sử của phép biện chứng
Phép biện chứng trải qua các hình thức và các giai đoạn phát triển, từ cổ đại đế
hiệïn đại.
a) Phép biện chứng tự phát (về tính chất có thể gọi là chất phác, ngây thơ) trong
triết học cổ đại, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đó. Tại phương Đơng cổ đại
tư tưởng biện chứng về thế giới hình thành tự phát trong thuyết Âm Dương, triết học
Lão – Trang (Trung Quốc), một số triết học tôn giáo (Ấn Độ) . Thuật ngữ “phép biện
chứùng”* được nêu ra lần đầu tiên trong triết học Hy Lạp cổ đại. Tại đây trong một số
học thuyết, từ Hêraclít (Heraklitos) đến Platơn (Platon) và Arixtốt (Aristoteles,
Aristotle), đã có những biểu hiện khác nhau của phép biện chứng. Nhà duy vật Hêraclít
nhấn mạnh tính vận động và biến đổi thường xuyên, sự chuyển hóa của các mặt đối lập
trong thế giới sự vật. Một số nội dung trong tư tưởng biện chứng về thế giới của
Hêraclít: 1) tính biến đổi phổ biến của thế giới (q trình sinh thành, phát triển, diệt
vong của vạn vật, dòng thời gian, hình ảnh dịng sơng – đó là những ví dụ sinh động mà
thí sinh cần sử dụng); 2) quá trình chuyển hố, mối liên hệ phổ biến, sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập (trong đó Hêraclít nhấn mạnh :chiến tranh là “cha của tất
cả, ơng hoàng của tất cả, hiện thân của tất cả”); 3) tính quy luật, tính tất yếu, trật tự,
chuẩn mực của tồn bộ thế giới các sự vật, nói khác đi, là LOGOS của vạn vật. Khái
niệm logos bao chứa toàn bộ những nội dung của tư tưởng biện chứng về thế giới, mà
Hêraclit là người xây dựng một cách sinh động đầu tiên.
[Kiến thức mở rộng, dùng để làm luận văn hay tiểu luận: so sánh Hêraclít với
Phật qua “dịng sơng” – “vơ thường”, q trình sinh thành, phát triển, diệt vong – sinh
trụ dị diệt, Hêraclít với Lão tử qua Logos và Đạo].
Tư tưởng biện chứng hình thành một cách tự phát ở Hêraclít ù là biện chứng của
các sự vật, hay biện chứng khách quan. Biện chứng dưới hình thức phủ định (xem thêm
12



trong Lịch sử phép biện chứng, t.1, sách dịch từ tiếng Nga) mà phái Êlê (Elea) chủ
trương nhẳm chống Hêraclít cũng có thể được xem là sự phê phán biện chứng vì sự phát
triển của tư duy biện chứng. Thơng qua các luận chứng “bác bỏ vận động”, thay nguyên
tắc “vạn vật biến dịch” bằng nguyên tắc “vạn vật bất biến”, thay “vạn vật đa tạp” bằng
“vạn vật đồng nhất”, các đại diện tiêu biểu của trường phái Êlê như Pácmênhít
(Parmenides), Dênơng (Zeno, Zenon) khơng chỉ khẳng định ngun tắc đồng nhất tư
duy – tồn tại, mà còn gợi mở quan điểm về biện chứng của quá trình nhận thức: 1)
nhận thức là một quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn (nghịch lý), do đó khơng thể chấp
nhận lối giải thích đơn giản, một chiều về sự vật (nhìn sự vật ở góc độ bản chất tự thân
mà khơng xem xét nó ở khía cạnh “tồn tại”, ở trạng thái tương đối cân bằng, ổn định,
tức ở trạng thái đứng im); 2) địi hỏi hình thành phương pháp nghiên cứu nghiêm túc,
khoa học về mối quan hệ giữa vận động và đứng im, tồn tại và hư vô, liên tục và gián
đoạn, hữu hạn và vơ hạn…Nói cách khác, các luận chứng của phái Êlê, theo Arixtốt, đã
kích thích tư duy của nhiều nhà khoa học qua các thời đại. Các nhà duy tâm Sokrates
và Platon xem phép biện chứng như nghệ thuật đối thoại (dẫn dắt người đối thoại đến
với chân lý bằng tư duy lơgíc, khả năng biện luận thuyết phục, có cơ sở, chứng cứ). Đó
là biện chứng của các khái niệm, hay biện chứng chủ quan. Chính Platơn và Arixtốt đã
xây dựng lý luận nhận thức mà ở đó chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng, được kế thừa
và phát triển có chọn lọc ở các thời đại sau.
b) Phép biện chứng duy tâm thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phát triển tại
Đức, bắt đầu từ Kant (biện chứng của quá trình nhận thức, tính mâu thuẫn tất yếu, hay
nghịch lý của tư duy lý luận, “lý tính thuần túy” v.v..), Fichte (Biện chứng cái Tôi và cái
không-Tôi, ý thức và vật chất, tinh thần và tự nhiên), đạt đến sự hoàn thiện ở Hegel.
Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức góp phần hình thành phong cách tư duy
mới trong văn hóa tinh thần châu u vào thời đó. Cơng lao lịch sử to lớn trong sự phát
triển phép biện chứng thuộc về Hêghen. 1) Hêghen phát triển phép biện chứng từ trình
độ tự phát thành một khoa học về phương pháp nhận thức, từ tản mạn thành hệ thống,
từ “nghệ thuật đối thoại” mang nặng tính chủ quan thành khoa học về mối liên hệ và sự
phát triển, đem đến cách hiểu mới về phép biện chứng, được Mác và Ăngghen kế thừa,

cải tạo và làm sinh động thêm bằng biện chứng của tiến trình lịch sử và đấu tranh cách
mạng; 2) trong Khoa học lơgíc, hay Lơgíc học – bộ phận cấu thành cùa hệ thống,
Hêghen đã trình bày nội dung cơ bản của phép biện chứng với các nguyên lý, các quy
luật và các cặp phạm trù cơ bản cùa nó; 3) theo V.I.Lênin, lần đầu tiên, từ sự phân tích
nội dung của phép biện chứng, Hêghen đã đi đến quan điểm về sự thống nhất phép biện
chứng – lý luận nhận thức và lơgíc học; 4) nhờ có phép biện chứng như phương pháp
luận triết học mà Hêghen đã tìm hiểu và phân tích sâu sắc các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội và nhận thức, từ tơn giáo, nghệ thuật đến kinh tế, chính trị, và thể hiện mình
như bộ óc bách khoa của thời đại; 5) phép biện chứng Hêghen phản ánh mặt tích cực,
tiến bộ của giai cấp tư sản Đức ở đêm trước của những chuyển biến cách mạng.
Tuy nhiên phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là phép biện
chứng Hêghen, do chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử nước Đức nửa sau thế kỷ
XVIII – đầu thế kỷ XIX nên tỏ ra hạn chế, thể hiện ở : - phép biện chứng duy tâm, hay
13


nói như Mác, phép biện chứng “bị đặt lộn ngược đầu xuống đất”; - phép biện chứng
không triệt để và đầy mâu thuẫn, trong đó có mâu thuẫn giữa phương pháp và hệ thống,
giữa tính cách mạng và tính bảo thủ, sự dung hòa giữa khát vọng chiến thắng của lý trí
với cái phi lý đang thống trị trong thực tiễn là nhà nước qn chủ (phân tích thêm tồn
bộ ý này).
C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp thu có chọn lọc giá trị của phép biện chứng duy
tâm, nhất là phép biện chứng Hegel, cũng như những thành quả của chủ nghĩa duy vật
thế kỷ XVII –XVIII, đặc biệt là tư tưởng duy vật của Feuerbach (nửa đầu thế kỷ XIX),
đồng thời khắc phục những mặt phiến diện của cả phép biện chứng và chủ nghĩa duy
vật thời trước, sáng tạo ra phép biện chứng duy vật như hình thức hiện đại của phép
biện chứng. Quá trình này bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX.
c) Phép biện chứng duy vật, ra đời cùng với bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học, do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Phép
biện chứng duy vật đã khắc phục sự đối lập giữa phương pháp và hệ thống trong phép

biện chứng duy tâm. C. Mác và Ph. Ăngghen không chỉ tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong
triết học của các bậc tiền bối, nhất là phép biện chứng Hêghen, mà còn cải tạo phép biện
chứng đó, thống nhất với thế giới quan duy vật, đồng thời vận dụng vào quá trình thực
tiễn xã hội, đưa vào nội dung của phép biện chứng những yếu tố mới, mang tính khoa
học và cách mạng. Phep biện chứng duy vật là sự thay thế tất yếu và xứng đáng phép
biện chứng duy tâm, là sự đáp ứng những đòi hỏi của thời đại mới.
Trong nội dung của phép biện chứng duy vật ngoài các nguyên lý, các quy luật và
các cặp phạm trù cơ bản, cịn hình thành nhiều yếu tố mới, ngày càng mở rộng cùng với
sự phát triển của khoa học, của nhận thức và biến đổi của thực tiễn xã hội, những vấn đề
mà hình thức trước đó của phép biện chứng chưa đặt ra.
Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận của tri thức khoa học và hoạt động
thực tiễn. Trong mối liên hệ (liên minh) giữa triết học và các khoa học chuyên biệt,
phép biện chứng có vai trò định hướng về phương pháp luận (và cả thế giới quan) đối
với các nhà khoa học, đồng thời từ phương pháp luận ấy các nhà khoa học tiếp cận với
cấp độ trừu tượng hóa triết học, vời phương pháp triết học (đọc thêm chuyên đề Phép
biện chứng duy vật trong Giáo trình dành cho hv SĐH khơng chun ngành triết học).
Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận của đấu tranh cách mạng của cải
tạo thực tiễn. Thí sinh cần tập trung làm rõ quá trình hiện thực hóa nội dung của phép
biện chứng duy vật vào điều kiện thực tiễn của thế giới, Việt Nam, đường lối đổi mới
của chúng ta là sự thể hiện sinh động, sáng tạo “biện chứng của cách mạng”(theo cach
diễn đạt của Lênin Đọc thêm tài liệu vừa nêu.
1.
Phân tích các đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây cổ đại (gợi ý :
tính sơ khai, tính bao trùm về mặt lý luận, tính đa dạng, mn vẽ về chủ đề và thế giới
quan, tình biện chứng tự phát bẩm sinh, tính nhân văn).
Gợi ý phân tích:
Trình bày khái qt sự ra đời và quá trình phát triển, khủng hoảng, suy vong của triết
học Hy Lạp cổ đại. Sự ra đời của triết học Hy Lạp trước hết xuất phát từ nhu cầu kinh tế
- xã hội, và chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội, khi quan hệ công xã thị
14



tộc nguyên thủy tan rã, nhà nước ra đời. Sự ra đời của nhà nước Hy Lạp dưới hình thức
polis (thị quốc, hay thành bang) thể hiện trình độ phát triển mới về chất trong phương
thức tổ chức đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, cùng với bản chất giai cấp của nhà
nước, việc thay thế lối tư duy hình tương – biểu tượng bằng tư duy hệ thống, tư duy
mang tính khái niệm để giải đáp những vấn đề chung nhất về thế giới, đáp ứng nhu cầu
nhận thức của con người trở nên cần thiết. Triết học Hy Lạp kế thừa tinh hoa Hy Lạp,
tinh thần phóng khống, tự do, óc khám phá của họ, được thể hiện trong thần thoại Hy
Lạp. Tinh thần này có cơ sở phát triển theo hướng duy lý hóa khi người Hy Lạp bước
vào giai đoạn phát triển mới. Sự phát triển của tư duy huyền thoại lên đĩnh cao (ở thời
đại Homer, Hesiodes) đồng thời báo trước sự thay thế nó bằng tư duy triết học, do hình
thức cũ khơng cịn phù hợp nữa. Nền văn minh phương Đơng, vốn đi trước Hy Lạp,
những giá trị khoa học, và cả yếu tố huyến học của phương Đông cũng là tác nhân
đáng kể của quá trình hình rhành triết học Hy Lạp.
Với gần một thiên niên kỷ tồn tại, tư tưởng triết học phương Tây cổ đại, mà Hy Lạp
và La Mã là đại diện duy nhất, đã để lại những dấu ấn đậm nét trên con đường phát
triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, tạo nên một trong những thời đại sôi động và bi
kịch nhất, thể hiện khát vọng của con người vươn lên làm chủ tự nhiên, cải biến xã hội
và chính bản thân mình.
Có thể thâu tóm ba chủ đề chính của triết học phương Tây cổ đại, từ thời kỳ hình thành
các thị quốc đầu tiên đến khi trường phái cuối cùng bị đóng cửa vào đầu thế kỷ VI.
Trước hết là tìm hiểu tự nhiên. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”, “bản
tính của thế giới là gì?” cho thấy nỗ lực của các triết gia mong muốn vượt qua ảnh
hưởng của thế giới quan thần thoại, đem đến lời giải đáp hợp lý về thế giới xung quanh
và về tác động của nó đến đời sống con người. Chủ đề tiếp theo là nhận thức. Bắt đầu từ
Ta lét (Thales) và Pitago (Pythagoras) con người không chỉ được xem như một thành
viên của vũ trụ, mà cịn ln chứng tỏ vị thế của mình trước vũ trụ ấy. Bản thân thuật
ngữ “philosophia” cũng nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm và khám phá chân lý. Triết
học – đó là con đường hướng tới chân lý. Các nhà triết học ngay từ cổ đại đã tập trung

tranh luận về khả năng và giới hạn của nhận thức, về các phương pháp và phương tiện
nhận thức, về nguồn gốc, cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Bên cạnh việc đề cao lý trí ,
óc khám phá sáng tạo của con người, vẫn còn một số triết gia đứng trước những diễn
biến phức tạp, phi tất định của của đời sống xã hội, đã chủ trương “treo lửng phán
quyết”, rơi vào chủ nghĩa hoài nghi. Chủ đề thứ ba là con người, xã hội loài người với
tất cả những biểu hiện phong phú và phức tạp của nó. Từ Xơcrát (Socrates) trở đi con
người trở thành một trong những điểm nóng của các cuộc tranh luận triết học. Con
15


người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng nghiên cứu. Chủ đề con người và thiết chế xã hội
dành cho con người, cùng với các chủ đề liên quan đền hoạt động sáng tạo và định
hướng giá trị của con người, được phân tích trong các cơng trình thẩm mỹ, nghệ thuật,
đạo đức, pháp quyền.
Triết học phương Tây cổ đại không chỉ phản ánh hiện thực của xã hội chiếm hữu nơ lệ,
mà cịn xây dựng hàng loạt hệ chuẩn tư duy cho các thời đại sau, tạo nên truyền thống
cổ điển trong văn hoá tinh thần phương Tây. Bằng chứng rõ ràng nhất của truyền thống
này là quá trình phục hưng văn hố cổ đại vào cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XVI và sự phát
triển, phổ biến văn hoá cổ điển vào thời cận đại, đạt đến đỉnh cao tại Đức.
Đặc điểm trước tiên của triết học Hy Lạp ở những thế kỷ đầu tiên, là tính chất
phác, sơ khai của nó, thể hiện ở mối liên hệ của nó với thần thoại và tơn giáo nguyên
thủy, đan xen với những mầm mống của tri thức khoa học, phản ánh trình độ nhận thức
chung của xã hội. Sự ra đời của triết học khơng có nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã hoàn
toàn kết thúc. Ở mức độ nhất định, xét theo cội nguồn, triết học ra đời như nỗ lực tái
thiết lại thần thoại bằng phương tiện của lý trí. Với thời gian, cùng với sự phát triển xã
hội, sự phổ biến tri thức khoa học, những câu chuyện thần thoại dần dần được sử dụng
vào mục đích thể hiện một nhân sinh quan, một triết lý sống. Những khái niệm có
nguồn gốc thần thọai đều được cải biến, duy lý hóa để àm sáng tỏ thêm tư tưởng của
các triết gia, những tư tưởng cần đến giá đỡ của thần thoại nhằm đáp ứng thói quen ý
thức của con người. Nietzsche cho rằng những nhà tư tưởng Hy Lạp đầu tiên là những

con người hồn nhiên và dũng cảm nhất, chấp nhận “cô đơn trong rạng rỡ hào quang”,
sẵn sàng thách đố thói quen ý thức để dấn bước vào con đường khám phá sáng tạo.
Những cuộc tranh luận tư tưởng dẫu không đạt được kết quả cụ thể, song điều quan
trọng là đã mimh chứng khả năng vô tận của con người (xem Nietzsche : Triết lý Hy
Lạp thời bi kịch, Bản dịch của Trần Xuân Kiêm, Tân An, Sài Gòn, 1975, tr. 19, 65,
70…). Tinh thần Hy Lạp đã đặt nền móng cho phong cách tư duy phương Tây trong
hàng ngàn năm qua.
Đặc điểm thứ hai thể hiện ở tính chất bao trùm về mặt lý luận của triết học đối với tất
cả lĩnh vực của nhận thức. Vì ra đời trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người
cịn tương đối thấp, tri thức về mọi mặt chưa phát triển bao nhiêu, nên triết học đóng
vai trị là dạng nhận thức lý luận hầu như duy nhất, hy vọng lý giải những vấn đề lý luận
của các khoa học cụ thể mà vào thời kỳ này cịn đang nằm trong tình trạng tản mạn, sơ
khai, mang nặng tính chất trực quan, thực nghiệm. Triết học được xem như “khoa học
của các khoa học”, cịn các triết gia thì được tơn vinh thành nhữn nhà thơng thái, đại
diện cho trí tuệ xã hội. Trong mơ hình lý tưởng của tổ chức đời sống xã hội các triết gia
16


được đặt ở vị trí cao nhất. Các tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, khoa học… đều
quy về tư tưởng triết học, được hiểu như một phần của triết học. Quan niệm này tồn tại
khá lâu trong lịch sử. Song điều đó lại đưa đến chỗ đối với các nhà triết học nhận thức
lý luận là cái vượt lên trên hoạt động thực tiễn, biến thành “nhận thức tự thân”, “nhận
thức để nhận thức”. Triết lý trở thành đặc quyền của một số ít nhà thơng thái, “nhận
thức tự thân” đối lập với thực tiễn, với ý thức đời thường.
Tính đa dạng, mn vẻ, sự phân cực quyết liệt giữa các trường phái làm nên đặc
điểm thứ ba của triết học phương Tây cổ đại trong suốt 10 thế kỷ; việc hình thành
“đường lối Đêmơcrít” và “đường lối Platơn” của triết học chi phối cách đánh giá các
hình thức tư tưởng khác. Chẳng hạn cuộc tranh luận giữa “đường lối Đêmơcrít” và
“đường lối Platơn” từ khía cạnh bản thể luận, tức tranh luận về bản nguyên thế giới, về
cơ sở của tồn tại (vật chất hay ý thức, thiên nhiên hay tinh thần, thế giới các sự vật hay

thế giới “ý niệm” ?), nhận thức luận (vấn đề khả năng nhận thức thế giới, vấn đề nguồn
gốc, bản chất của q trình nhận thức, vai trị của nhận thức lý tính) lan sang cả quan
đđiểm về con người (vấn đề thống nhất thể xác - linh hồn) và tư tưởng đạo đức, chính
trị- xã hội, thể hiện sự quan tâm đến con người và thái độ của họ đối với nền dân chủ
chủ nơ. Tính chất muơn vẻ, đa dạng của triết học phương Tây cổ đại chịu sự chi phối
của điều kiện địa lý đặc biệt tại các thị quốc, sự thay thế nhau các trung tâm kinh tế, văn
hóa, q trình giao lưu với văn hóa phương Đơng, phong cách phóng khống, u
chuộng tự do kết hợp với sự khôn ngoan và tinh tế của người Hy Lạp, La Mã… Sự đối
lập giữa “đường lối Đêmơcrít” và “đường lối Platơn” thể hiện ở khía cạnh thế giới
quan- bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm con người, chính trị - xã hội. Trong bức
tranh mn vẻ của triết học phương Tây cổ đại đã chứa đựng hầu như tất cả những hình
thái và phương thức tư duy căn bản nhất, được tiếp tục hoàn thiện, cải biến và phát triển
sau này. Chẳng hạn cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa hiện thực (Arixtốt) và chủ nghĩa lý
tưởng (Platôn), quan điểm “khế ước” và “pháp quyền tự nhiên”, các hình thức nhà nước
v.v..trong tư tưởng chính trị, hay vấn đề cái thiện, lương tâm, tự do ý chí, trách nhiệm,
cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao thượng… trong đạo đức và thẩm mỹ đã là chuẩn mực cho
những tìm tịi, khám phá và vận dụng vào đời sống xã hội ở các thời đại kế tiếp.
Đặc điểm thứ tư là tính biện chứng tự phát, bẩm sinh trong việc giải thích tự
nhiên. Đặc điểm này được Ph. Ăngghen nêu ra trong “Chống Đuyrinh” (1876 – 1878).
Ph. Ăngghen viết : “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự
phát, bẩm, sinh” (C. Mác và Ph. Ăngghen: tồn tập, t.20; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1994, tr. 34). Tư tưởng biện chứng về thế giới, giới tự nhiên được khai mở bởi
Hêraclít (Heraklitos), mặc dù trước đó trong những yếu tố tiền triết học và trong trường
17


phái Milê (Milet) đã xuất hiện những phác thảo sơ khởi về thế giới như một q trình.
Hêraclít khơng chỉ xem xét thế giới như một quá trình (hình ảnh dịng sơng, ở đó “mọi
thứ đều chảy”), mà cịn đưa ra tư tưởng về tính quy luật của thế giới đó. Logos là một
trong những khái niệm trung tâm của triết học Hêraclít, hàm chứa yếu tố duy vật và

biện chứng ở trình độ tự phát. Các nghĩa của logos: thần ngơn; lời nói, hay học thuyết;
lý trí; tính quy luật; tính tất yếu; trật tự, chuẩn mực; lửa. Vũ trụ này là một ngọn lửa
vĩnh cửu, mọi thứ từ lửa và kết thúc bằng sự phán quyết của lửa, nhờ đó mà diễn ra q
trình sinh - diệt thay thế nhau liên tục. Đánh giá tư tưởng biện chứng vê thế giới trong
triết học Hy Lạp cổ đại, Ph. Ăngghen nhấn mạnh : “Cái thế giới quan ban đầu ngây thơ,
nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại,
và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng
thời lại khơng tồn tại, vì mõi vật đang trơi đi, mọi vật đềukhông ngừng thay đổi, mọi vật
đều không ngừng phát sinh và tiêu vong” (C. Mác và Ph. Ăngghen: tồn tập, t.20; Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 35).
Biện chứng của quá trình nhận thức thể hiện rõ nét trong các luận chứng của
trường phái Êlê (Elea) về tính mâu thuẫn, hay nghịch lý của nhận thức, về sự cần thiết
giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hữu hạn và vô hạn, liên tục
và giàn đoạn, tồn tại và hư vô. Xôcrát (Socrates), Platôn (Plato), Arixtốt (Aristoteles,
Arstotle) đã xác lập một số nội dung sơ khởi về biện chứng chủ quan, hay tư duy biện
chứng, mặc dù bản thân Xôcrát và Platôn đưa ra thuật ngữ “biện chứng” (Dialektikè)
như “nghệ thuật đối thoại”. làm cơ sở cho việc hình thành lý luận nhận thức biện chứng
sau này. Mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan được Ph.
Ăngghen nêu ra trong “Biện chứng của tự nhiên”. Ông viết : “Biện chứng gọi là khách
quan thì chi phối trong tồn bộ giới tự nhiên, cịn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư
duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận
động thông qua những mặt đối lập, … thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng
và sự chuyển hóa…” (C. Mác và Ph. Ăngghen: tồn tập, t.20; Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1994, tr. 694).
Cuối cùng, tính nhân văn có thể được xem là một trong những đặc điểm của
nhiều nền triêt học, song trình độ và hình thức thể hiện của nó khác nhau. Chủ nghĩa
nhân văn (thuật ngữ humanism ra đời vào đầu thế kỷ XIX) xem con người là điểm xuất
phát, và giải phóng con người là mục đích cuối cùng. “Con người – thước đo của vạn
vật”; lời tuyên bố này của Prôtago (Protagoras) chứng tỏ rằng dù không ngừng hướng ra
vũ trụ, giải thích và khao khát chinh phục nó, người Hy Lạp vẫn dành nhiều tâm huyết

tìm hiểu những vấn đề nhân sinh, xã hội. Từ Xôcrát trở đi con người vừa là chủ thể, vừa
18


là đối tượng. Tìm hiểu thế giới của con người, kết hợp “hướng ngoại” và “hướng nội”
quy định vị trí và số phận của các triết thuyết. Sự quan tâm đến con người, tìm kiếm
những chuẩn mực sống lý tưởng cho con người,là nét chung trong tư tưởng của Xôcrát,
Platôn, Arixtốt và nhiều triết gia khác từ thời kỳ sơ khai đến thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng
hoảng và suy tàn. Thực tiễn “có vấn đề” cũng là điều kiện cho sự tìm kiếm lời đáp để
khắc phục nó, nghĩa là hình thành các phương án vượt qua cái hiện tồn. Cho nên trong
các học thuyết chính trị, xã hội đã hình thành chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lý
tưởng, khắc họa con người và các thiết chế xã hội từ các góc độ khác nhau. Những tư
tưởng chính trị, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ do người Hy Lạp - La Mã xác lập trở
thành nền tảng và điểm xuất phát của tư tưởng phương Tây.
2.
Trình bày khái quát và đánh giá nội dung cơ bản của triết học Trung cổ
Tây Âu qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu
Một số gợi ý:
Nền móng của chề độ phong kiến tại Tây Âu được xác lập sau thời kỳ sụp đổ của
Tây bộ đế quốc La Mã (476), song hình thức tri thức Trung cổ ra đời sớm hơn, gắn liền
với sự ra đời của Kytô giáo (Christianity) vào đầu Công nguyên.
Sự ra đời của Kytô giáo là một hiện tượng có tính cách mạng trong đời sống tinh
thần của xã hội. Tuy nhiên từ năm 392, khi Kytô giáo trở thành quốc giáo, tinh thần
khoan dung đã bị biến dạng.
Trong quá trình hình thành chế độ phong kiến, mà sự ra đời của Kytơ giáo trong
lịng chế độ chiếm hữu nơ lệ là tín hiệu tinh thần, hay tiền đề tinh thần của nó, đã xuất
hiện những tư tưởng mang tính chuyển tiếp, chẳng hạn chủ nghĩa khắc kỷ La Mã, hay
chủ nghĩa Platơn mới. Bên cạnh đó sự truyền bá Kytơ giáo cần đến những tín đồ có học
thức, những nhà trí thức thực sự, đảm nhận chức năng khơi nguồn cảm hứng về hình
thức tơn giáo mới giữa thế giới đa thần.

Hai thời kỳ lớn trong triết học trung cổ : thời kỳ hình thành (cũng có thể gọi là
thời kỳ đặt nền móng, thời kỳ chuẩn bị) và thời kỳ phát triển, “chuẩn hóa”, tương ứng
với triết học các giáo phụ và triết học kinh viện.
Giáo phụ là tên gọi của triết học Kytô giáo ở thời kỳ đầu tiên. Các giáo phụ là
những người tiên phong trong công cuộc bảo vệ, truyền bá và phổ biến tín điều Kytơ
giáo trong những điều kiện khó khăn và đầy thách thức, về sau được nhà thờ chuẩn
nhận, xem như các bậc cha chú của nhà thờ, cịn tư tưởng của họ thì được xem như
19


những chân lý cần được lưu giữ, học tập. Dù nội dung tư tưởng các giáo phụ không
thống nhất, song định hướng chung ở họ là đối lập tư tưởng Kytơ giáo với triết học cổ
đại, qua đó khẳng định ưu thế của Kinh thánh Kytơ giáo như cái vịm của sự uyên bác
toàn thế giới. Vấn đề trước tiên là mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí, làm nên sự khác
nhau giữa tư tưởng Trung cổ và tư tưởng cổ đại. Trong số các giáo phụ có những người
cực đoan, theo chủ nghĩa sùng tín; có những người ơn hịa, cố làm dịu những điểm bất
đồng giữa lý trí và đức tin. Tertullien nghiêng về chủ nghĩa sùng tín với tun bố “Tơi
tin, vì đó là điều phi lý”, và phân chia xã hội thành hai phe – phe quỷ và phe thần. Cách
phân chia rõ ràng đẩy con người vào tình thế hai chọn một. Đối với Tertullien con người
tự do hay không tùy thuộc vào ý chí của Chúa. Mọi tham vọng tự do là biểu hiện của tội
tổ tông. Tự do thống nhất với tính tất yếu : Chúa tạo ra luật, luật ấy ban cho con người
quyền tự do.
Các giáo phụ đem đến sự thay đổi trong cách đặt vấn đề về thế giới, còn các nhà
triết học kinh viện ở thời kỳ chính thống hóa, học đường hóa tư tưởng Kytơ giáo thì
biến những ý tưởng giản đơn thành những ý tưởng chắc chắn, có hệ thống, đạt tới tính
un bác thâm sâu. Các nhà khắc kỷ từng đánh giá đức hạnh con người gần như là từ
góc độ quan hệ của linh hồn với thượng đế, hơn là quan hệ của công dân với nhà nước.
Sau các nhà khắc kỷ những người Kytô giáo tin rằng nghĩa vũ của con người trước
Thiên Chúa quan trọng hơn so với nghĩa vụ trước xã hội và nhà nước.
“Phụng sự Chúa quên thân mình” – quan điểm ấy của St. Augustin được xem là

kinh điển đối với tín đồ Kytơ giáo. Trong “Thành phố của Chúa” (hay Vương quốc
Thiên Chúa, Đô thành thiên quốc ...) St. Augustin xác lập những luận điểm nền tảng về
cái cần có thao tinh thần Kytơ giáo, thay thế cho cái đang tồn tại. Thành phố của Chúa
không phải là một nơi nào đó trên thiên đàng hay một thành phố cụ thể ở cõi trần, bởi lẽ
mỗi con người khi vừa được sinh ra khơng biết mình gia nhập vào thế giới nào. Chính
hoạt động sống của họ quy định cái mà họ sẽ gia nhập. Vậy Thành phố của Chúa thể
hiện khát vọng về mộ không gian xã hội lý tưởng mà con người cần kiến tạo ngay trên
thế gian này. 22 cuốn sách vừa là lời cảnh báo, vừa mang đến thông điệp về một thế giới
tồt lành mà con người đạt được bằng nỗ lực vượt qua cái ác, hướng đến cái thiện. Trong
quyển 1 Augustin chỉ trích những kẻ dị giáo và những kẻ man rợ mang tai ương đến cho
con người, cưỡng bức phụ nữ, cướp bóc thành Roma, đồng thời khẳng định vai trị của
Kytơ giáo trong việc ngăn chặn thờ tượng các thần và ngẫu thần, thông qua các lời chúc
20


lành và chúc dữ. Quyển 2 tiếp tục mổ xẻ sự bất lực và vô trách nhiệm của các thần
(trước Chúa Jesus). Sự đánh mất nhân cách và sự sa đoạ là cái mà con người đón nhận
từ các vị thần ấy. Trong Quyển 3, những tai hoạ từ thế giới đa thần giáo được tiếp tục
làm rõ. Quyển 4 mở đầu cho sự biện minh rằng chỉ có Kytơ giáo, thờ một Thiên Chúa
duy nhất, mới làm cho vương quốc trần thế được xác lập. Các quyển 5, 6, 7, 8 tiếp tục
chỉ ra sự đối lập Kytô giáo và tinh thần dị giáo, văn hoá mới và văn hóa Hy Lạp, ; phân
tích quan hệ giữa thuyết định mệnh (tiền định của Chúa) và ý chí tự do của con người.
Đồng ý với cách phân chia của Varro về ba hình thức thần học – thần học tự nhiên, thần
học thần bí và thần học bình dân, Augustin cho rằng cả thần học thần bí và thần học
bình dân đều khơng có vai trị tích cực trong cuộc sống mai sau. Đặc biệt, trong quyển
8, khi bàn đến thần học tự nhiên, Augustin bày tỏ thiện cảm của mình đối với Platon,
người anh cả đáng mến của các học thuyết triết học, vì đã đề cập đến cuộc sống sau khi
chấm dứt hiện hữu trần thế, phù hợp với giáo lý Kytô. Quyển 9 và quyển 10 được xem
như tun ngơn về tính duy nhất của Chúa, trong đó Chúa Jesus là sự giáng thế. Chỉ có
Chúa Jesus, theo Augustin, mới có quyền ban cho con người hồng phúc vĩnh cửu. Sự

phân biệt hai vương quốc tập trung từ cuốn 11 trở đi. Augustin đem đối lập thế giới của
Chúa và thế giới cõi trần với những nét đặc trưng cho hai thế giới. Thế giới của Chúa là
thế giới sống theo ý chí Thiên Chúa, bao gồm những người mộ đạo, nhân từ, đề cao tình
yêu lý trí và sức mạnh tinh thần, phụng sự Chúa quên thân mình, sống hơm nay kỳ vọng
vào ngày mai, có sự đồng cảm giữa người cầm quyền và quần chúng. Thế giới cõi trần
là thế giới sống theo chuẩn mực con người, gồm tồn những kẻ ích kỷ, đề cao tiện nghi
và lạc thú vật chất, yêu bản thân quên cả Chúa, sống hôm nay chỉ biết hôm nay, luôn
tranh giành quyền lực với nhau. Xét từ góc độ chính trị – xã hội “Thành phố của Chúa”
có ý nghĩa phản kháng nhất định. St. Augustin sống trong thời đại suy tàn của chế độ nơ
lệ, nhìn thấy tận mắy nỗi đau, sự bất ổn, sự khủng hoảng lòng tin của con người do
chiến tranh gây ra. Biểu tượng của thế giới cõi trần trong con mắt St. Augustin là
Babylon quá khứ và đế quốc La mã hiện tại. Biểu tượng thế giới của Chúa là Jerusalem
và những nơi linh thiêng khác. Theo St. Augustin thế giới cõi trần cần được thay thế
bằng một trật tự xã hội mới, hợp ý Chúa – “Vương quốc nước Chúa” – nhà nước của sự
hợp quần toàn nhân loại. Vào thời trung cổ xung đột giữa hai thực thể nêu trên mang ý
nghĩa của cuộc đấu tranh giữa nhà thờ Kytô – Thiên Chúa giáo La Mã với chính quyền
thế tục, giữa Giáo hoàng với nhà vua trong từng quốc gia riêng biệt. Người chiến thắng
21


trong những cuộc xung đột này thường là Giáo hoàng, mà sự thể chế hóa nhà thờ phổ
biến khắp Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Ba Lan…
Tôn giáo thời trung cổ, cụ thể Kytô – Thiên Chúa giáo, trở thành hạt nhân, thước
đo văn hóa và thế giới quan của xã hội phong kiến. Chính trị, luật pháp nằm trong tay
tăng lữ, được xác định như lĩnh vực ứng dụng của thần học. Thế giới là tạo hóa của
Chúa, là cuốn sách do Chúa viết nên và ban cho ý nghĩa đối với từng tạo vật. Hoa hồng,
chim bồ câu, sư tử, con bê, phượng hoàng, ngọc châu… biến thành những biểu tượng
tôn giáo thiêng liêng, và quy về sự tượng trưng cho Đức Kytô trong bốn thời điểm
mang tính bước ngoặt trong cuộc sống của ngài : Kytơ sinh ra như một con người, chết
đi như một con bê, phục sinh như con sư tử, bay lên trời như chim phượng hồng.

Nhưng sự hy sinh của Chúa Kytơ, theo luận giải của các nhà tư tưởng Trung cổ, còn
chứa đựng cả nỗi đau và sự trăn trở về thân phận con người, sự bỏ rơi và xa lánh, sự
mặc cảm và dửng dưng. Đó là thế giới cần được phán xử, cũng có nghĩa là cần một
hành động mang tính bước ngoặt, để đánh thức lương tri con người. Sự sụp đổ của đế
quốc La Mã được mô tả trong nhiều văn bản thần học như cái chết tất yếu của một chế
độ phi nhân tính, sa đoạ và sự báo trước chiến thắng của cái Thiện, xuất phát từ Cao
Xanh.
Ngay từ thời điểm sụp đổ của đế quốc La Mã triết học dần dần biến thành kẻ
đứng sau thần học, còn từ thế kỷ XI trở đi – đứng sau thần học Thiên Chúa giáo. Thoát
thai từ thần thọai đa thần giáo, tư tưởng lý luận lại rơi vào sự quản chế của một thần
thọai mới – Kytô giáo, trở thành kẻ phụng sự (nô lệ) thần học, chứng minh cho các tín
điều của nhà thờ. Giáo phụ Lactantius địi hỏi “qng vào cổ của lý trí một cái ách”, để
buộc nó đi theo sự chỉ dẫn của đức tin. Cái ách ấy của niềm tin khó có thể được tháo gỡ,
nếu khơng có những biến đổi cách mạng trong họat động thực tiễn của con người.
Bắt đầu từ thế kỷ IX, khi thế giới trung cổ đi dần vào ổn định, xu hướng
“chuẩn hóa” tri thức mang ý nghĩa quan trọng đối với việc củng cố trật tự chính trị – xã
hội, cũng đồng thời củng cố địa vị của nhà thờ với tính cách là nền chuyên chính tinh
thần (xem C. M và Ph. Ă, Toàn tập, T. 20, CTQG, 1994, tr. 459). Nhân danh “ổn định
chính trị và tinh thần là trên hết”, nhà nước phong kiến liên minh với nhà thờ đặt ra
những “vùng cấm” đối với sáng tạo khoa học và văn hóa. Chuẩn hóa, đạo đức hóa tồn
bộ đời sống chính trị - xã hội và hoạt động nhận thức là nét đặc trưng của trung cổ Kytơ
giáo.Tính chất hai mặt của chuẩn hóa tư duy thể hiện ở chỗ, một mặt, nó quy mọi cái
22


tản mát về sự thống nhất, tạo nên môi trường tư tưởng nhất quán trong điều kiện xã hội
đang chịu nhiều thách thức; mặt khác, sự chuẩn hóa máy móc, chỉ biết đến “những chân
lý sẵn có”, đã thu hẹp khả năng sáng tạo của con người theo tiêu chí “chỉ được phép
trình bày nhữn gì trong giới hạn”, mà ở đây là giới hạn của các chân lý bất biến, vĩnh
hằng. Từ thế kỷ IX phù hợp với xu thế này đã tồn tại thứ triết học chính thống, được

giảng dạy tron các trường học, lấy kinh thánh làm chỗ dựa tư tưởng. “Triết học học
đường” thời trung cổ (Scholastic) được gọi theo nghĩa rộng là chủ nghĩa kinh viện. Tri
thức kinh viện đạt đến tính hệ thống, tính lơgíc, tính un bác, nhưng do chỗ các vấn đề
được phân tích mang nặng tính hình thức, tính sách vở, sáo mòn, nên dần dần xa rời nhu
cầu thực tiễn và biến thành tri thức thuần tuý tư biện.
Vào thời cực thịnh của triết học kinh viện đã nổi lên Thomas Aquinas (1225 –
1274) nhà thần học và nhà triết học, một trong những đại diện lớn của tư tưởng khoa
học trung cổ, người sáng lập ra chủ nghĩa Thomas (Thomism). Cơ sở học thuyết triết
học của Thomas Aquinas là chủ nghĩa Aristoteles. Thomas được biết đến như người bảo
vệ thuyết sáng tạo và sự tồn tại của Thượng đế căn cứ vào các dữ kiện vật lý học và các
quy tắc lơgíc học Aristoteles. Theo ơng, vật lý học tìm hiểu các hiện tượng khả giác,
phân loại, mơ tả chúng và rút ra quy luật từ sự biến đổi của chúng. Nhưng nếu vật lý
học muốn giải quyết vấn đề nguồn gốc của vạn vật thì phải cần đến thuyết sáng tạo. Với
lập luận như vậy Thomas đưa ra sáu chứng cứ về sự tồn tại và sáng tạo của Thượng đế
– chứng cứ do sự chuyển động, chứng cứ theo nguyên nhân tác thành của tồn tại, chứng
cứ do ngẫu nhiên, chứng cứ theo các cấp độ hoàn hảo, chứng cứ mục đích, chứng cứ
dựa vào trật tự đạo đức.
Ở lĩnh vực chính trị và liên quan đến chính trị, sau Aristoteles, Thomas khẳng
định rằng nhà nước là thiết chế tự nhiên, chứ không phải là thiết chế truyền thống, và là
xã hội lý tưởng (Communitas Perfecpa). Nhà nước mang tính tự nhiên, vì con người là
sinh vật xã hội. Con người cần liên kết với nhau để tồn tại, đảm bảo điều kiễn sống tốt
và xác lập nền văn hóa của mình. Động vật hành động theo bản năng, cịn con người
dựa vào lý trí. Nhà nước mang tính lý tưởng, vì nó có khả năng đảm bảo cho conngười
đạt đến mục đích đời sống của mình, bớt dần sự lệ thuộc vào ngọai giới. Mọi quyền lực,
theo Thomas, đều xuất phát từ Thượng đế, gắn với quyền sống chết, đã được Thượng đế
định trước.

23



Ở Thomas tri thức và đức tin được đặt trong mối quan hệ hài hòa, song xét đến
cùng đức tin đóng vai trị định hướng . Theo sau Aristoteles , Thomas phân chia lý trí ra
thành lý trí lý luận, vươn đến các nguyên lý, và lý trí thực hành, thể hiện trong họat
động ý chí của con người. Tự do ý chí cho phép con người lựa chọn giữa thiện và ác,
giữa hành vi đạo đức, dẫn đến Thượng đế, và hành vi phi đạo đức, xa rời Thượng đế.
Trong tác phẩm triết học chính trị “Về sự điều hành của các lãnh chúa” (De regimine
principium)Thomas trình sự phân tầng các quyền từ góc độ đạo đức hóa và thần học
hóa, kết hợp với những yếu tố của phái Khắc kỷ. Trước tiên Thomas nhấn mạnh quyền
vĩnh cửu như tổng thể các quy tắc điều khiển thế giới của Thượng đế. Biểu hiện cá biệt
của quyền vĩnh cửu là quyền tự nhiên, có nguồn gốc từ quan niệm của phái Khắc kỷ. Về
mặt nguyên tắc quyền này có ở mọi sinh thể, song chỉ trong cuộc sống con người mới
trở nên rõ ràng. Chỉ con người mới ý thức được rằng bằng cách sử dụng quyền tự nhiên
một cách hợp lý, trong đó có quyền bình đẳng, họ hướng đến tính vĩnh cửu của quyền
Thượng đế. Quyền con người là sự cụ thể hóa quyền tự nhiên; nó phân bố thành quyền
nhân dân phổ biến và quyền công dân hợp pháp, vận hành trong một quốc gia cụ thể.
Quyền con người không phải là quyền bất biến, mà luôn được điều chỉnh, thay đổi cho
phù hợp với vận động xã hội.
Mặc dù xuất phát từ quan điểm chính trị – xã hội của Aristoteles, nhưng Thomas
đã Kytơ giáo hóa các luận điểm của bộ óc bách khoa này để phục vụ thần học.
Aristoteles đặt cái tòan thể xã hội cao hơn tất cả, nhấn mạnh cuộc sống tự do và quyền
công dân của thị quốc chiếm hữu nô lệ. Hơn nữa, hạnh phúc của con người, theo
Aristoteles, cần tìm kiếm ở cuộc sống trần tục, hiện thực. Ngược lại, Thomas hiểu cái
tòan thể xã hội là xã hội và nhà nước phong kiến, được bổ sung nội dung tôn giáo –
thần học, mang nặng tính đẳng cấp. Trật tự xã hội, theo Thomas, là sự phản ánh trật tự
Thượng đế như khn mẫu bất di bất dịch củasự hịan thiện các đẳng cấp xã hội. Trong
xã hội như thế đa số thành viên làm nghề lao động chân tay, cịn thiểu số lao động trí óc
điều khiển đa số đó. Lao động chân tay được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất
xuất phát từ nguyên tội tổ tông, xem lao động là sự chuộc lỗi, căn cứ vào lời phán
truyền của Chúa Trời sau khi đuổi Ađam và Êva ra khỏi vườn Êđen :” “ ( ). Cách thứ
hai hình thành trong lịch sử Trung cổ như sự đánh giá lại vai trò của lao động trong đời

sống xã hội. Cách thứ hai này được cácnhà nhân văn Phục hưng sau này đặcbiệt chú
trọng, thậm chí họ cho rằng giá trị do lao động tạo a đặt con người vào vị trí danh dự,
24


cao hơn các thiên thần (Ficino). Lao động của những người phục vụ Thiên Chúa giáo
La Mã được trọng vọng nhất, vì xét đến cùng nó hướng đến lợi ích của cái tòan thể xã
hội, cũng như của mỗi người. Nhưng mục đích tối thượng của cơng việc ấy là gì ? là
cuộc sống bên kia, cuộc sống sau khi chết.
Vấn đề nhà nước và mối quan hệ của nó với nhà thờ về cơ bản được Thmas giải
quyết theo thuyết thần là trung tâm. Quá trình hinh thành từng bước các nhà nước dân
tộc vào thời kỳ này tác động đến Thomas, làm thay đổi một phần quan điểm chính
thống Kytơ giáo. Theo Thomas, nhà thờ và nhà nước đều là kết quả sáng tạo của
Thượng đế. Sự xác lập nhà nước là cần thiết, bởi lã bên ngòai nó khơng thể có đời sống
hiện thực cảm tính của con người. Kế thừa tư tưởng tri61t học chính trị của Aristoteles,
Thomas khẳng định rằng chủ quyền của quyền lực tối cao có tính chất tự nhiên, và rằng
nó do Thượng đế đem đến, nhưng thông qua nhân dân. Chủ quyền có tính tự nhiên
(khách quan, tất yếu) vì nếu khơng có một tổ chức điều hành, đưa ra những giải pháp
bắt buộc thực hiện, thì sẽ xảy ra tình trạng vơ chính phủ, và mọi người có thể thủ tiêu
nhau. Chủ quyền được đem đến thông qua nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân,
khơng lệ vào hình thức cai trị. Nhà nước không lệ thuộc vào nhà thờ; mục đích và vai
trị của hai thiết chế này hịan tịan khácnhau. Tuy nhiên với tính cách là nhà lý luận của
nhà thờ Thiên Chúa giáo Thomas không thể khơng tin vào mục đích siêu nhiên của
nhân lọai. Trong khi thừa nhận vai trò đứng đầu của quyền lực thế tục trong nhà nước,
Thomas cho rằng sự cần thiết của quyền lực chỉ mang tính phái sainh, tính cơng cụ, nhà
thờ mới đảm nhận việc điều khiển trực tiếp thế giới của con người nhân danh Đấng
sáng thế duy nhất, cái thế giới không chỉ ở bên này một cách ngắn ngủi, mà tồn tại ở
bên kia, vĩnh viễn. Theo quan điểm của chủ nghĩa Thomas nhà thờ không lệ thuộc vào
nhà nước vì bất kỳ lý do nào, dưới bất kỳ hình thức nào, trong khi nhà nước cần phải
chú trọng đến quyền lợi của nhà thờ, bởi lẽ mục đích của nó cao hơn, cơng dân nào

cũng hướng về nó. Thomas so sánh mối quan hệ giữa nhà thờ và nhà nước với quan hệ
giữa linh hồn và thân xác. Cả linh hồn lẫn thân xác đều đóng vai trị đặc biệt, khơng hịa
lẫn, nhưng vai trị của linh hồn quan trọng hơn.
Thomas phân biệt 5 hình thức cai trị của nhà nước. Dân chủ bị ông đồng nhất với
độc tài, vì phần lớn nhân dân, sau khi đàn áp những người giàu và những người có học,
đã buộc họ tn theo ý chí của mình. Thomas xem quân chủ là hình thức tự nhiên nhất
của quyền lực nhà nước, sử dụng phép liên tưởng để luận chứng cho tính hợp lý của nó.
25


×