Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Về tư tưởng công bằng của K. Marx ở Trung Quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.05 KB, 6 trang )

VỊ t− t−ëng c«ng b»ng cđa K. Marx
ë trung qc hiƯn nay
Ngun Minh Hoµn(*)

Trung Qc hiƯn nay, nhiỊu ý kiÕn

ëcho rằng, nhiệm vụ phát triển lực
lợng sản xuất trên cơ sở đề cao tính
hiệu quả kinh tế dờng nh đang dần
che lấp mục tiêu thực hiện công bằng
với tính cách là đặc trng cốt lõi của
CNXH. Nhiều nghiên cứu về đặc trng
của CNXH nói chung và đạo đức kinh tế
thị trờng XHCN nói riêng ở Trung
Quốc hiện nay đều nhấn mạnh đến việc
phải xuất phát từ t tởng của K. Marx
về vấn đề đạo đức kinh tế thị trờng với
nội dung cốt lõi là t tởng công bằng.
Các nghiên cứu nhấn mạnh, chính K.
Marx là ngời đà sớm chỉ ra bản chất
khác biệt giữa công bằng trong CNXH và
công bằng trong nỊn kinh tÕ thÞ tr−êng
tù do TBCN. T− t−ëng công bằng của K.
Marx chính là cơ sở lý luận nhằm bảo vệ
CNXH, mà cụ thể ở đây là bảo vệ lợi ích
căn bản của nhân dân Trung Quốc.
I. Về t− t−ëng c«ng b»ng cđa K. Marx

Cã thĨ thÊy, c«ng bằng là một phạm
trù lịch sử. Các nhà t tởng, từ Platon,
Aristote, cho đến J. Rousseau..., dù đÃ


đa ra những quan niệm hợp lý nhất
định về công bằng, song đó chẳng qua
chỉ đợc sử dụng nh phơng tiện để
bảo vệ những lợi ích của giai cấp thống
trị. Vì vậy, trong quan niệm của mình,

họ thờng cho rằng nguyên tắc để thực
hiện công bằng đều đợc sắp đặt bởi bàn
tay của Thợng đế.(*Ngợc lại, dựa trên
cơ sở phê phán chế độ kinh tế bất công
đối với giai cấp vô sản trong xà hội
TBCN, K. Marx đà đa ra quan điểm
của mình về công bằng. Đồng thời, K.
Marx đà phân tích cơ sở hình thành
công bằng của CNXH nhằm chỉ ra con
đờng giải phóng giai cấp vô sản khỏi
chế độ xà hội bất công. Hơn nữa, K.
Marx còn nhấn mạnh rằng, nguyên tắc
để thực hiện công bằng luôn bị quy định
bởi chính quan hệ sản xuất trong một
phơng thức sản xuất nhất định. Nói
cách khác, ở mỗi phơng thức sản xuất
xà hội khác nhau bao giờ cũng có một
nguyên tắc để thực hiện công bằng xÃ
hội, nghĩa là công bằng luôn bị quy định
bởi điều kiện kinh tế-xà hội nhất định.
Vậy những quan niệm cơ bản của K.
Marx về đạo đức kinh tế mà hạt nhân là
t tởng về công bằng xà hội là gì?
Ngay từ thời còn trẻ, nghiên cứu của

K. Marx về những vấn đề kinh tế
thờng đợc tập trung vào những hiện
tợng bất công. Trong Phụ trơng của
Báo Sông Ranh, ngµy 1, 3/10/1842, víi
(*)

TS., ViƯn TriÕt häc, Häc viƯn Chính trị Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.


28
bài viết Những cuộc tranh luận về luật
cấm trộm củi rừng (xem: 2), K. Marx
đà lên tiếng công khai bảo vệ lợi ích của
quần chúng ngời lao động khi thấy
đợc tình trạng bất công của xà hội xuất
phát từ sự đối lập về lợi ích giữa các giai
cấp khác nhau trong xà hội đơng thời.
Tuy nhiên ở đây, sự phân tích của K.
Marx về tình trạng bất công vẫn cha
phải xuất phát từ phơng diện kinh tế,
mà mới chỉ xuất phát từ phơng diện
pháp lý (xem: 3). Mặc dù vậy, việc bảo
vệ lợi ích của ngời lao động ở đây cũng
đà hàm chứa trong đó việc phê phán sự
bất công của chế độ sở hữu t nhân.
Điều đó cho thấy, t tởng của K. Marx
khác xa so với những nhà t tởng trớc
đó về vấn đề công bằng khi họ ®Ịu cho
r»ng, sù thèng trÞ cđa giai cÊp thèng trÞ;

sù bãc lét cđa giai cÊp bãc lét lµ bÊt di bất
dịch, và đó là công lý muôn đời. Nh
vậy, việc bảo vệ lợi ích của quần chúng
cần lao thực sự là điểm xuất phát trong
t tởng về công bằng của K. Marx.
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế
triết học 1844, thông qua việc vạch ra
bản chất của hiện tợng tha hoá, K.
Marx đà chỉ ra hiện tợng bất công
trong xà hội TBCN và sự đối lập gay gắt
giữa giai cấp t sản và giai cấp vô sản
về lợi ích. Một là, tha hoá thể hiện ở
quan hệ giữa ngời lao ®éng ®èi víi
chÝnh s¶n phÈm lao ®éng cđa hä, cơ thể
là ngời công nhân sản xuất càng nhiều
thì sản phẩm mà họ có đợc càng ít, bởi
vì nguyên tắc phân phối trong xà hội t
bản là một sự bất công tột cùng. Hai là,
tha hoá thể hiện ở quan hệ giữa lao
động của ngời công nhân với chính bản
thân anh ta, khi mà lao động của họ lại
trở thành một vật xa lạ với họ. Trong
quá trình lao động, ngời công nhân
không khẳng định mình, mà ngợc lại
đà phủ định chính bản thân mình, bởi lẽ

Thông tin Khoa học xà hội, số 4.2009

lao động của họ không phải là sự tự
nguyện mà ngợc lại là sự bị ép buộc, bị

cỡng chế. Ba là, tha hoá thể hiện ở
quan hệ giữa con ngời với bản chất
loài, từ đó dẫn đến sự tha hoá trong mối
quan hệ giữa ngời với ngời trong xÃ
hội. Sự tha hoá đó thể hiện trực tiếp ở
sự phân hoá cũng nh sự đối lập về lợi
ích giữa các giai cấp, từ đó dẫn đến sự
phân hoá thành hai cực đối lập cơ bản
trong xà hội TBCN. Để xoá bỏ những
hiện tợng tha hoá hay bất công ấy, K.
Marx chỉ rõ: Sự giải phóng xà hội khỏi
sở hữu t nhân, khỏi sự nô dịch, trở
thành hình thức chính trị của sự giải
phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây
không chỉ là sự giải phóng của họ, vì sự
giải phóng của họ bao hàm sự giải
phóng toàn thể loài ngời; và sở dĩ nh
thế là vì toàn bộ cái chế độ nô dịch loài
ngời nói chung (4, tr.143-144). Sự phê
phán của K. Marx đối với hiện tợng bất
công trong xà hội TBCN không xuất
phát từ kinh nghiệm cảm tính, mà xuất
phát từ chính bản thân chế độ t hữu.
T tởng công bằng của K. Marx đÃ
phê phán và vạch trần sự bất công trong
xà hội TBCN, ngoài ra còn nỗ lực tập
trung vào việc xây dựng những quan
điểm về công bằng trong CNXH và
CNCS tơng lai, mà những nỗ lực này
lại không tách khỏi cuộc đấu tranh

chống lại những quan điểm công bằng
của giai cấp tiểu t sản đang thịnh
hành trong phong trào công nhân. Đáng
chú ý là sự phê phán của K. Marx đối
với quan điểm của Weitling (18081871), Nhà hoạt động lỗi lạc của phong
trào công nhân Đức thời kỳ phôi thai,
một trong những nhà lý luận của CNCS
bình quân không tởng) ngời đà cổ
vũ cho những t tởng công bằng, bình
đẳng, đề xuất về một xà hội hài hoà và
tự do, dựa trên chế độ công hữu; mọi


VỊ t− t−ëng c«ng b»ng cđa K. Marx...

ng−êi cïng lao động; phân phối theo
nguyên tắc bình quân (trong tác phẩm
Bảo đảm sự hài hoà và tự do). T
tởng này của Weitling đợc xây dựng
trên cơ sở của những quan niệm trừu
tợng về công bằng, một kiểu quan
niệm công bằng của chủ nghĩa bình
quân. T tởng này không thể lÃnh đạo
đợc giai cấp công nhân tiến hành đấu
tranh, ngợc lại nó chính là trở ngại
trong phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân.
Còn Prudon, trong tác phẩm Tài
sản là gì, cũng vận dụng quan điểm
công bằng trừu tợng để phê phán và

giải thích chế độ t hữu tài sản. Đấu
tranh chống lại những quan điểm ấy,
trong tác phẩm Hệ t tởng Đức, K.
Marx cho rằng, tất cả những luận cứ
của Prudon về kinh tế chính trị đều là
sự sai lầm, quan điểm công bằng của
Prudon chẳng qua chỉ là ảo tởng của
những nhà kinh tế học và luật học.
Prudon đà lấy công bằng của xà hội
tơng lai để giải thích cho trạng thái vô
chính phủ. K. Marx chỉ rõ, những nhà
XHCN không tởng hoàn toàn chỉ dựa
vào địa vị, quyền lợi của mình để đa ra
những mong muốn của riêng mình về sự
công bằng. Họ hoặc là mở rộng những
đòi hỏi của công bằng, hoặc là trực tiếp
đa ra những kết luận XHCN dựa vào
lý luận về giá trị lao động của kinh tế
học cổ điển (xem: 7, tr.269). Những nhà
XHCN không tởng này, khi phê phán
chế độ xà hội bóc lột và viễn cảnh của xÃ
hội tơng lai, đà không hề đả động tới
việc cải tạo phơng thức sản xuất cũ,
hay đề cập đến việc lật đổ toàn bộ
những quan hệ pháp lý và quan hệ kinh
tế của xà hội đà lỗi thời.
Cơ sở thực tế của những quan điểm
công bằng của giai cấp t sản mà K.
Marx phê phán chính là thị trờng tự


29
do của CNTB. Xuất phát từ quan hệ
trao đổi đơn thuần trong thị trờng tự
do đợc coi là cơ sở của những quan
điểm công bằng t sản ấy, K. Marx đÃ
chỉ rõ, Mỗi chủ thể đều là chủ thể tiến
hành trao đổi, nghĩa là mỗi chủ thĨ ®Ịu
ë trong cïng mét quan hƯ x· héi ®èi víi
chđ thĨ kh¸c, gièng nh− quan hƯ cđa
chđ thĨ kh¸c đối với chủ thể này. Vì
vậy, quan hệ của các chủ thể ấy, với t
cách là những chủ thể trao đổi, là quan
hệ bình đẳng (5, tr.311). Nh vậy, việc
mua hay bán hàng hoá sức lao động (với
những biểu hiện bề ngoài của nó) hoàn
toàn đợc coi là bình đẳng - cơ sở cho sự
công bằng - trong quan hệ trao đổi trên
thị trờng tự do. Nhng theo K. Marx,
quan hệ mua bán ấy giữa một bên là
ngời sở hữu t liệu sản xuất và một
bên là ngời vô sản thực chất là sự bất
công bằng. K. Marx nhấn mạnh, giá trị
trao đổi hoặc - trong trờng hợp xem xét
vấn ®Ị mét c¸ch tØ mØ - hƯ thèng quan
hƯ tiỊn tệ thật sự là hệ thống bình đẳng
và tự do, còn những gì mà trong trờng
hợp phát triển tỉ mỉ hơn hệ thống này,
đối lập với bình đẳng và tự do và vi
phạm bình đẳng và tự do, thì đó là
những sự vi phạm nội tại của hệ thống

này: chính đây là sự thực hiện bình
đẳng và tự do mà thực ra lại là bất bình
đẳng và mất tự do (5, tr.324).
Nh vậy, những hiện tợng bất công
trong xà hội TBCN không chỉ tồn tại
trong quan hệ bóc lột giá trị thặng d
của quá trình sản xuất TBCN, mà còn
là hệ quả của quan hệ trao đổi trên thị
trờng tự do. Đáng tiếc rằng, nguồn gốc
của hiện tợng bất công trong điều kiện
kinh tế thị trờng hiện chỉ đợc hiểu
một cách phiến diện, tức bất công nảy
sinh từ sự bóc lột của nền sản xuất
TBCN, còn quan hệ trao đổi tù do trªn


30
thị trờng không đợc hiểu là sự bất
công, mà thậm chí còn đợc hiểu là
quan hệ công bằng (theo 1, tr.26).
Trên cơ sở phê phán những quan
điểm công bằng trong CNTB, K. Marx
đà đa ra những quan điểm mang tính
dự báo về công bằng trong xà hội
XHCN. Đó là những quan điểm về sự
xoá bỏ chế độ t hữu, xác lập chế độ
công hữu về t liệu sản xuất; quan điểm
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động. Tuy vậy, trong Phê phán cơng
lĩnh Gôta, K. Marx cho rằng, ngay

trong xà hội XHCN, việc phân phối về
hình thức đợc coi là công bằng, nhng
thực chất mà nói thì đó vẫn cha hẳn là
sự công bằng, mà công bằng chỉ thực sự
đạt đợc ý nghĩa đầy đủ của nó trong xÃ
hội CSCN.
Cần khẳng định rằng, trớc K.
Marx, đà có nhiều quan điểm lấy công
bằng làm mục tiêu của xà hội lý tởng,
chẳng hạn, t tởng của Saint Simon,
R. Owen và C. Phourrier về sự xoá bỏ
tình trạng bất công của xà hội đơng
thời để thay thế bằng một mô hình xÃ
hội lý tởng. Vì vậy, quan niệm của K.
Marx về công bằng cũng là sự tiếp thu
và phát triển từ những t tởng ấy.
Tuy nhiên, quan niệm của K. Marx
về công bằng khác về chất so với những
quan điểm trớc đó về công bằng, và do
đó, quan điểm của K. Marx về công
bằng hoàn toàn mang tính hiện thực
trong xà hội. TÝnh hiƯn thùc vµ khoa
häc trong quan niƯm cđa K. Marx về
công bằng thể hiện sự khác biệt ấy đợc
dựa trên bốn căn cứ chủ yếu: thứ nhất,
t tởng công bằng của K. Marx đợc
xây dựng dựa trên cơ sở của thế giới
quan khoa học; thứ hai, thông qua
nghiên cứu kinh tế TBCN, K. Marx đÃ


Thông tin Khoa học xà hội, số 4.2009

vợt qua đợc sự hạn chế của những t
tởng kinh tế chính trị cổ điển chật hẹp
do bị giới hạn bởi t tởng của giai cấp
t sản; thứ ba, với những nghiên cứu
trong lĩnh vực kinh tế chính trị dựa vào
chủ nghĩa duy vật lịch sử khoa học, K.
Marx đà gửi gắm vào giai cấp vô sản
niềm hi vọng thực hiện đợc một xà hội
công bằng, chứ không phải là một ảo
tởng về sự công bằng dựa vào lòng
nhân từ và sự cứu tế của giai cấp t sản
thống trị; thứ t, K. Marx chỉ nêu ra
những đề xuất chủ yếu nhất chứ không
phải đa ra những chi tiết cụ thể của xÃ
hội công bằng tơng lai, bởi vì những lý
tởng công bằng của xà hội cộng sản
tơng lai ấy mới chỉ đợc K. Marx rút ra
với t cách những mặt đối lập với những
giá trị công bằng cđa CNTB.
II. VỊ viƯc tiÕp thu vµ vËn dơng t− t−ëng c«ng
b»ng cđa K. Marx ë Trung Qc hiƯn nay

Theo những phân tích ở trên, t
tởng của K. Marx về công bằng chỉ
mang tính định hớng, chứ không thể
đợc coi là những phơng án sẵn có cho
CNXH ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Vì vậy, t tởng công bằng của K. Marx

cần đợc nhận thức một cách đúng đắn
và vận dụng phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế thị trờng XHCN ở Trung
Quốc hiện nay.
Trớc đây, sự thiết lập chế độ
XHCN ở Liên Xô, Trung Quốc và nhiều
quốc gia khác đà đảm bảo cho việc thực
hiện t tởng công bằng của K. Marx,
đồng thời công bằng cũng đợc coi là đặc
trng đạo đức chủ yếu của xà hội
XHCN. Song, t tởng của K. Marx về
công bằng, trên thực tế, đà không đợc
thực hiện đầy đủ. Trong chế độ XHCN ở
Trung Quốc hiện nay, giữa công bằng và
hiệu quả luôn có sự thống nhất, nhng
vấn đề đặt ra là với trình độ phát triển


Về t tởng công bằng của K. Marx...

của lực lợng sản xuất còn tơng đối lạc
hậu đà không tơng xứng với khả năng
giải quyết đợc vấn đề công bằng. Đây
là những vấn đề hết sức phức tạp mà
các nớc XHCN, trong đó có Trung
Quốc, đang phải đối mặt. Vấn đề đặt ra
là, làm sao vừa phải đảm bảo thực hiện
đợc công bằng, vừa phải hạn chế đợc
sự phân hoá xà hội thành hai cực,
nhng đồng thời vẫn phải bảo đảm tốc

độ phát triển nhanh chóng của lực lợng
sản xuất.
Trớc hết, ở Trung Quốc nói riêng
cũng nh các nớc XHCN nói chung,
thực hiện công bằng xà hội phải dựa vào
trình độ phát triển cao của lực lợng
sản xuất, nhng nếu nh quảng đại
quần chúng vẫn phải sống trong tình
trạng nghèo khổ, thì sự công bằng ấy
cũng không có ý nghĩa nào hết, và cũng
không phải nh mong muốn của K.
Marx trớc đây. Trong chế độ kinh tế kế
hoạch tập trung, có hai nhân tố đà cản
trở việc đề cao tính hiệu quả của sự
phát triển. Nhân tố thứ nhất, vì không
nhận thức đúng về thời kỳ đầu của
CNXH, và do quá tin vào kế hoạch nên
đà gạt bỏ thị trờng, tức là gạt bỏ tính
hiệu quả của sự phát triển kinh tế. Và
do đó, tơng ứng với nó - nhân tố thứ
hai - là việc thiết lập một bộ máy quản
lý cồng kềnh với t cách là một chủ thể
quyền lực điều tiết hoạt động lập kế
hoạch một cách cứng nhắc đối với sự
phát triển kinh tế. Đây là những nhân
tố chủ yếu không chỉ cản trở bản thân
hiệu quả phát triển kinh tế, mà còn cản
trở việc thực hiện công bằng.
Trung Quốc đà trải qua 30 năm thử
thách trong nền kinh tÕ thÞ tr−êng víi

nhËn thøc vỊ kinh tÕ thÞ trờng ngày
một đầy đủ hơn, do đó, tính hiệu quả
kinh tế cũng ngày càng đợc coi trọng.

31
Nhng trong điều kiện hình thành thị
trờng tự do mới, nội dung của công
bằng phải đợc hiểu thế nào cho phù
hợp? Hiện Trung Quốc mới ở giai đoạn
đầu của CNXH, lại thực hiện phát triển
kinh tế thị trờng, nên tất nhiên việc đề
cao hiệu quả là mang tính quyết định
cho việc thực hiện công bằng. Chính bởi
lẽ đó, trong Báo cáo chính trị của Đại
hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc đÃ
đề xuất việc kiên trì nguyên tắc u tiên
hiệu quả, đồng thời chú ý công bằng.
Đây là sự thể hiện bớc phát triển lý
luận cao hơn và sâu sắc hơn so với t
tởng cùng nhau giàu có mà Đặng
Tiểu Bình đà nêu trớc đó. Tuy nhiên,
việc u tiên hiệu quả không có nghĩa
là hạ thấp việc thực hiện công bằng
xuống hàng thứ yếu, đây cũng chính
là yêu cầu đối với việc nhận thức một
cách đúng đắn t tởng của Đặng Tiểu
Bình về mối quan hệ giữa quan điểm
một bộ phận giàu trớc với quan điểm
cùng giàu. Trớc hết, mục đích của
quan điểm một bộ phận giàu trớc mà

Đặng Tiểu Bình nêu ra chính là nhằm
quét sạch ảnh hởng tiêu cực của chủ
nghĩa bình quân trớc đó, và làm cho
nguyên tắc công bằng của CNXH đợc
thực hiện một cách đúng đắn hơn. Bởi
vì, nh một số nghiên cứu đà nhấn
mạnh: Trong một thời gian dài đà tồn
tại sự hiểu sai về nguyên tắc phân phối,
CNXH dờng nh bị đồng nhất với chế
độ bình quân, nếu một bộ phận ngời lao
động nào có thu nhập tơng đối cao hơn
trong xà hội thì bị cho là sự phân cực xÃ
hội, sự quay lng lại với CNXH. T
tởng bình quân chủ nghĩa này hoàn
toàn không phù hợp với quan điểm khoa
học về CNXH của K. Marx. Bài học lịch
sử đà cảnh báo với chúng ta rằng: t
tởng chủ nghĩa bình quân là vật cản đối
với việc quán triệt thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động, và sù trµn lan


32
của chủ nghĩa bình quân còn dẫn đến sự
phá hoại lực lợng xà hội (6, tr.29).
Loại bỏ chủ nghĩa bình quân, nh
Đặng Tiểu Bình chỉ rõ, cho phép một
bộ phận giàu trớc rõ ràng không phải
là mục tiêu cuối cùng của CNXH, mà
mục tiêu của CNXH chính là sự cùng

giàu có của nhân dân cả nớc, không
thể dẫn đến phân hoá thành hai cực (8,
tr.146). Tuy vậy, vấn đề là ở chỗ, giàu
trớc và cùng giàu là hai mặt nằm
trong mối quan hệ của một chỉnh thể
hữu cơ, nên không thể chia tách hoặc là
mặt này, hoặc là mặt kia để gán nó vào
những giai đoạn phát triển khác nhau.
Nếu đợi đến khi thực sự đà diễn ra sự
phân hoá hai cực mới nghĩ đến biện
pháp điều tiết, thì mục tiêu công bằng
của sự cùng giàu sẽ khó mà thực hiện.
Do đó, trong quá trình vận hành kinh
tế, Nhà nớc Trung Quốc phải tuỳ thời
mà tiến hành đồng thời cả điều tiết vĩ
mô lẫn điều tiết vi mô một cách mềm
dẻo, đặc biệt phải quyết liệt ngăn chặn
hiện tợng phân hoá hai cực. Đó chính
là những nội dung chủ yếu cđa viƯc thùc
hiƯn c«ng b»ng ë Trung Qc hiƯn nay.

Th«ng tin Khoa học xà hội, số 4.2009

Tài liệu tham khảo
1. Du Khả Bình (chủ biên). CNXH
trong thời đại toàn cầu hoá. Trung
Quốc: Biên dịch trung ơng, 1998.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập
(Tập 1). H.: Chính trị quốc gia, 1995.
3. Hậu Huệ Cần (chủ biên). Lịch sử và

hiện trạng của triết học trong chủ
nghĩa Mác (Quyển 1). Trung Quốc:
Đại học Nam Kinh, 1988.
4. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập (Tập
42). H.: Chính trị quốc gia, 2000.
5. C. Mác vµ Ph. ¡ngghen, toµn tËp
(TËp 46, qun 1). H.: ChÝnh trị quốc
gia, 1995.
6. Quyết định về cải cách thể chế kinh tế
của Trung ơng Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Trung Quốc: Nhân dân,
1984.
7. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập (Tập
21). H.: Chính trị quốc gia, 1995.
8. Văn tuyển Đặng Tiểu Bình (Quyển
3). H.: Chính trị quốc gia, 1995.



×