Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tìm hiểu về tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.42 KB, 19 trang )

Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Anh (chị) hãy tìm hiểu về tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh so với các
bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta hiện nay giải quyết như thế
nào?
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Lê Thị Hoa
Sinh viên thực hiện: Trần Khánh Linh
STT:
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hà Nội, ngày 23 tháng 10 năm 2010
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là vị lãnh tụ cách
mạng, là người lãnh đạo.công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho
dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình huyền thoại.
Trong chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình (từ năm
1911 cho đến năm 1941) , Người đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực tiếp quan
sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ và Trung
Đông - một việc mà không có lãnh tụ nào khác làm được trong thế kỷ 20, tiếp nhận
chủ nghĩa cách mạng khoa học Mác – Lênin, đúc rút nên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong công cuộc đấu tranh của nhân dân ta, tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc
soi đường đi tới chiến thắng, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta, có ý
nghĩa vô cùng to lớn không chỉ trong thời chiến mà cả trong thời bình.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ


của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức
cách mạng, cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân…”
Tìm hiểu cụ thể hơn về tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh, có thể thấy tư tưởng
này bao trùm và được thể hiện rất rõ nét qua các quan điểm của Người về con
người, về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, về xây dựng Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, về chú trọng đời sống nhân dân.
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với Nho giáo, hiểu và tiếp thu các tư
tưởng của Nho giáo, trong đó có tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Người cũng am hiểu
lịch sử của dân tộc ta, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước qua bao triều đại
phong kiến, hiểu được ngọn nguồn sức mạnh dân tộc là từ nhân dân mà ra, điều đó
được phản ánh trong các loại hình văn hóa bình dân và văn hóa bác học của dân
tộc: “Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
“Có lật thuyền mới biết sức dân như nước”
“ Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sau này, khi ra đi tìm đường cứu nước, tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin làm
đường lối cách mạng dân tộc, một lần nữa sức mạnh của nhân dân lại được nhắc
tới: “cách mạng là sự nghiệp quần chúng của nhân dân, nhân dân là người sáng tạo
ra lịch sử”. Hoàn cảnh bên ngoài đó cùng với lòng yêu nước thương dân và tầm
nhìn mới về tầm quan trọng của nhân dân đã đúc rút nên tư tưởng thân dân của
Người.
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh có xuất phát điểm là tư tưởng “lấy dân làm
gốc” của Nho giáo, được thể hiện rõ trong quan điểm của Khổng Tử và các thế hệ
học trò về sau qua câu nói: "Quân vi khinh, xã tắc thứ chi, dân vi bản", nghĩa là:
vua không quan trọng, xã tắc cũng chỉ là thứ yếu, quan trọng và cơ bản là dân.

Nhưng khác với Nho giáo, khác với các vị tiền bối, trong tư tưởng thân dân của
Người, quan điểm về “dân” có phạm vi rộng hơn, với biên độ sâu sắc hơn, đồng
thời, tầm quan trọng của “dân” được nâng lên một tầm cao hơn, và lợi ích của
“dân” được đặt ở mức cao nhất.
Trong mấy nghìn năm lịch sử phong kiến của nước ta, triều đại nào phồn thịnh,
triều đại nào suy thoái cũng là phụ thuộc vào việc được mất lòng dân.Tư tưởng lấy
dân làm gốc tiến bộ nhất phải nói đến thời Lý - Trần, trên vũ đài chính trị và tư
tưởng hai triều đại này, nhân dân đã được nhìn nhận như một lực lượng xã hội cần
phải quan tâm đến khi tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước và duy trì trật tự
xã hội nhằm đem lại sự thịnh vượng cho nước nhà. Trần Hưng Đạo cho rằng "vua
tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là nguyên nhân thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên. Theo ông, "chúng chí thành thành", chí
dân là bức thành giữ nước. Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết toàn dân là rất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quan trọng, Trần Quốc Tuấn đã đề ra "thượng sách giữ nước" là "khoan thư sức
dân làm kế rễ bén gốc". Đó là điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ thù. Thấy
được tầm quan trọng của nhân dân trong việc giữ nước, cho nên ngay từ thời Lý
việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được
khẳng định là điều quan trọng hàng đầu trong đạo trị nước. Trong bài văn lộ bố khi
đánh Tống của Lý Thường Kiệt có viết: "Trời sinh ra dân chúng; vua hiền tất hòa
mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Với tinh thần khoan dung trước cảnh khổ
của con dân, nhà Lý đặt chuông lớn ở Long Trì để dân "ai có điều oan ức không
bày tỏ được" thì đến đánh chuông tâu vua. Nhà Lý còn dựng cung Long Đức ở
ngoài Hoàng thành, trong khu vực phố phường cho Hoàng thái tử ở, để có điều
kiện "gần dân và xem xét việc dân".
Thời Lý - Trần, cũng như các triều đại hưng thịnh khác, sự quan tâm đến dân được
đề ra, nhưng vấn đề đó chỉ mới được coi là một yếu tố của khái niệm đức trị mà
chưa thành đạo trị: vua có đức thì được lòng dân. Thời phong kiến, lấy dân làm
gốc, chăm lo cho dân, đất nước yên cảnh thái bình chung quy cũng là để bảo vệ
quyền lực thống trị của tầng lớp quý tộc vì bản chất của Nhà nước phong kiến là

Nhà nước của tầng lớp quý tộc. Trong khi đó, Hồ Chí Minh đã lấy tư tưởng thân
dân làm đường lối, chủ trương trong phương hướng hoạt động của bộ máy Nhà
nước để giữ nước. Đồng thời, việc chú trọng đời sống nhân dân, sâu sát nhân dân
là vì lợi ích của toàn bộ nhân dân, không vì riêng một tầng lớp nào bởi Nhà nước
là của dân, do dân, vì dân.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc, gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân”. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười
lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Người khẳng định:
“trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hồ Chí Minh đề cao sức mạnh của nhân dân,
mà cụ thể ở đây là sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. So với Phan Bội Châu hay Phan
Chu Trinh… thì Người nắm rõ hơn sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Con đường
cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh quá đề cao vai tò của tầng lớp trí
thức, sĩ phu yêu nước mà lại không biết tận dụng, liên kết sức mạnh của các tầng
lớp nhân dân khác, lo đào tạo đội ngũ lãnh đạo mà quên không nuôi dưỡng lực
lượng thực hiện cách mạng chủ yếu, chưa biết tổ chức, tập hợp đông đảo nhân dân
vào sự nghiệp cứu nước. Theo phương cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người lựa
chọn những hạt giống tài giỏi trong mọi tầng lớp nhân dân làm thế hệ tiên phong
tiếp thu tư tưởng cách mạng, làm những người dẫn đường, đồng thời cũng không
quên dựa trên mối quan hệ gắn bó, vốn đã có truyền thống đoàn kết của nhân dân
để truyền bá tư tưởng cách mạng cũng như khơi dậy lòng yêu nước sẵn có, thổi
bùng tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là cái
gốc của cách mạng, là lực lượng vô cùng to lớn; nhờ có đoàn kết mà cách mạng
thành công, kháng chiến thắng lợi. Năm 1923, khi đang hoạt động ở Pháp, Người
đã xác định: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do, độc lập”. Sau khi thành lập Đảng không lâu, Hồ Chí Minh đã cùng với những
đồng chí của mình lập ra Hội phản đế đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận
Dân tộc Thống nhất Việt Nam. Từ đây, Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trải

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
qua các giai đoạn cách mạng khác nhau, với bất kỳ tên gọi thay đổi nào vẫn thống
nhất và cùng với Đảng nhất quán thực hiện chủ trương, chính sách đoàn kết toàn
dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đoàn kết không chỉ
để đấu tranh giành độc lập, thống nhất, tự do cho nước nhà mà còn phải đoàn kết
để xây dựng nước nhà. Chính vì vậy, đoàn kết được quán triệt và thực hiện thấm
sâu trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật; trong đối nội và cả đối ngoại.
Đoàn kết là một chính sách dân tộc để thực hiện lâu dài chứ không phải là một thủ
đoạn chính trị. Đoàn kết toàn dân là kết nối hết thảy những ai là con Hồng, cháu
Lạc, là tất cả những người Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu tự do, hòa bình, vô luận ở
địa vị nào, làm công việc gì, không phân biệt giàu nghèo, gái trai, già trẻ, người
Việt Nam ở trong nước hay ở ngoài nước, cùng nhau một lòng, một ý chí, một mục
đích.
Một số triều đại phong kiến nước ta trước đây cũng đã thực hiện những chính
sách gần dân, tìm hiểu đời sống nhân dân, tuy nhiên với sự tồn tại phân biệt giai
cấp, phân biệt giàu nghèo, vẫn còn khoảng cách giữa vua quan và dân chúng,
không tránh khỏi tình trạng gần dân nhưng chỉ gần với một bộ phận nhỏ, không
có tính đại diện, không thể hiện được hết ý nguyện của đại bộ phận nhân dân. Các
phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đều thất bại một
phần cũng là do đường lối cách mạng còn chưa sát với tình hình thực tế, chưa sát
với tinh thần, ý chí của nhân dân.
Trong tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh, muốn lấy dân làm gốc, trước hết là
phải tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; phải có ý thức rõ “dân chúng rất
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×