Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN

PHÙNG QUÝ NHÂM

Tài liệu lưu hành nội bộ - 2002


LƠIØ MỞ ĐAU
À
Trên bước đường phát triển, mỗi dân tộc, dù lớn hay bé đều tự khẳng định bản sắc văn
hóa của mình. Nhất là trong thời đại hậu công nghệ ngày nay, điều ấy càng được ý thức rõ
rệt. Mỗi dân tộc đều phải biết lý lịch văn hóa của mình, mỗi con người phải có căn cước văn
hóa của dân tộc mình. Ai đánh mất lý lịch văn hóa, căn cước văn hóa dân tộc mình người ấy
sẽ lạc hướng đi trong một thời đại có nhiều biến đổi như hiện nay.
Thật đáng buồn khi mỗi chúng ta không hiểu gì về nền văn hóa của dân tộc mình. Khi
chưa hiểu mình thật khó lòng hiểu người khác. Chỉ có thể hiểu nền văn hóa, văn minh của
các dân tộc khác khi anh đã hiểu được nền văn hóa, văn minh của dân tộc mình. Với một tinh
thần, một ý thức như vậy, chúng ta tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Cơ sở văn hóa Việt Nam sẽ
đề cập chủ yếu các vấn đề sau:
1. Xác định khái niệm văn hóa và hệ thống văn hóa.
2. Tiến trình văn hóa Việt Nam.
3. Những đặc trưng văn hóa của cộng đồng người Việt.


KHÁI NIỆM VĂN HÓA, HỆ THỐNG VĂN HÓA
I. XÁC ĐỊNH KHÁI NIỆM VĂN HÓA :
1. Thuật ngữ văn hóa trong cách hiểu của người Trung Hoa cổ :
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc hiện nay thì có 160 cách hiểu, các quan
niệm khác nhau. Và cách hiểu thời xưa khác cách hiểu ngày nay.
Thời xưa, từ văn hóa trong “Chu Dịch” được tách thành hai từ văn và hóa :


“Quan hồ nhân văn, dó hóa thành thiên hạ”.
(Xem dáng về con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ)
Nghóa gốc của từ văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Văn là hình thức đẹp đẽ trong lễ,
nhạc, trong cai trị, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử ....
Đến thời Tây Hán, Lưu Hướng (77 trước CN) đã sử dụng từ văn hóa sớm nhất, được
hiểu như một phương thức giáo hóa con người : “Dùng văn hóa không thay đổi được sẽ chinh
phạt”.
Về sau, từ văn hóa được hiểu như là một phương thức để xây dựng cuộc sống, xây
dựng xã hội :
“Văn hóa nội tập
Vũ công ngoại tư”
(Văn hóa làm cho bên trong hòa mục
Vũ công để sửa sang bên ngoài)
2. Quan niệm văn hóa hiện nay :
Từ văn hóa (tiếng Latin: Cultus). Cultusagri có nghóa trồng trọt ngoài đồng, Cultusanimi
có nghóa là trồng trọt tinh thần.
Cách hiểu phổ biến hiện nay, văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần mà
loài người đã tạo ra trong tiến trình lịch sử.
Văn hóa là tổng hòa các phương tiện sau:
- Hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần.
- Những hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người.
- Hệ thống tri thức và kiến thức của dân tộc, loài người.
- Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội.
Văn hóa của một thời đại, một thời kỳ lịch sử nhất định. Văn hóa có thể hiểu theo một
nghóa rộng bao gồm:
- Đó là phương thức sản xuất ra của cải vật chất: phương pháp, công cụ, quá trình công
nghệ ....


- Sinh hoạt vật chất : ăn, mặc, ở đi lại ...

- Tổ chức cộng đồng (gia đình, làng nước…)
- Sinh hoạt tinh thần : tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, lễ hội ...
- Kiến thức và tri thức về tự nhiên và xã hội.
- Đời sống tư tưởng, tình cảm, quan niệm đạo đức, nhận thức về thế giới, về nhân sinh.
Theo Thủ tướng Ấn Độ Jawa Harlal Nêhru, văn hóa có 3 phương diện : tư tưởng,
phương pháp, lao động say sưa bền bó (bài phát biểu trong lễ thành lập Ban liên lạc văn hóa
với nước ngoài của Ấn Độ ngày 09/04/1950 – Báo Nhân Dân đăng lại tháng 02/1990).
Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết : “Nói tới văn hóa là nói tới một lãnh vực vô
cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên
quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch
sử ... Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghóa bao quát và cao đẹp nhất của nó,
bao gồm cả hệ thống giá trị : tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng,
sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản sắc và bản lónh của cộng
đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”(1)
3. Văn hóa, văn hiến, văn minh:
a. Văn hóa :
Văn hóa có nhiều nghóa. Theo nghóa rộng: Văn hóa là trình độ phát triển nhất định
trong lịch sử xã hội và con người; là tất cả những cái gì do con người sáng tạo ra.
Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử, mang đậm bản sắc dân tộc.
Ở đây, chúng ta có thể gặp với quan niệm của ngài Federico Mayor: “Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra trong quá khứ cũng như trong
hiện tại. Qua hàng thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy cấu thành một hệ thống giá trị, truyền
thống, thị hiếu, thẩm mỹ và lối sống dựa vào đó từng dân tộc khảng định bản sắc riêng của
mình”.
b. Văn hiến :
Văn hiến là những giá trị tinh thần, đạo lý của một “dân tộc”. Khái niệm văn hiến được
sử thần Ngô Só Liên nói đến trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư: “Nước ta là nước Văn hiến
bắt đầu từ thời Só Nhiếp” Nguyễn Trãi trong hùng văn: “Bình Ngô Đại Cáo” cũng đã viết:
“Như nước Đại Việt ta từ trước.

Vốn xưng nền Văn hiến đã lâu”

Phạm Văn Đồng: Văn hố và đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 1994 tr.16

1


c. Văn minh:
Văn minh là những giá trị được xác lập trong sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, khoa học
và công nghệ trong lối sống và sự vận dụng những tiến bộ đó vào trong đời sống mỗi người,
trong cuộc sống của mỗi dân tộc. Như H.Momdjian đã nhận định: “Chỉ đến một giai đoạn mới
về chất trong sự phát triển công cụ và hoạt động sản xuất cùng với văn hóa tinh thần mới
báo hiệu là văn minh xuất hiện”(2)
Văn hóa và văn minh : trong cuộc sống của cộng đồng người, một tập tục, một phong
tục nào đó có thể đó là biểu hiện văn hóa. Thói quen mặc của cư dân Tiểu Vương quốc
Micro-Nêcia là một hiện tượng văn hóa nhưng không thể xem là văn minh. Ngược lại, có
nhiều dân tộc, nhiều quốc gia đạt được đến trình độ văn minh như nhau, nhưng nền văn hóa
của mỗi dân tộc lại có đặc điểm, có bản sắc khác nhau. Ví dụ, văn minh Âu Mỹ có thể ngang
với văn minh Nhật, song về văn hóa thì Mỹ và Nhật lại hoàn toàn khác nhau về bản sắc.

Người cõng nhau nhảy múa (tượng đồng Đông Sơn)

Nếu khái niệm văn hóa được hiểu như là những giá trị do bàn tay và khối óc con người
tạo ra (tức không phải cái vốn có trong tự nhiên, do tự nhiên ban phát) thì văn minh trong một
ý nghóa nhất định hàm chứa những yếu tố, những giá trị tích cực như là một tổng thể.
Văn minh là một khái niệm lịch sử. Ở mỗi thời đại lịch sử, văn minh gắn liền với sự tiến
bộ trong sản xuất vật chất với sự hình thành một trình độ văn minh tinh thần mới về chất,
đem lại cho con người những giá trị mới, tích cực góp phần vào sự phát triển của xã hội, của
cộng đồng và cá nhân.
Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc, thì nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu mặt tónh, bao

gồm lễ hội phong tục, sinh hoạt vật chất, thể chế xã hội, chính trị, nghệ thuật ... Nghiên cứu
văn minh là nghiên cứu mặt động, nghiên cứu sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, và sự áp dụng những tiến bộ đó vào trong cuộc sống của mỗi dân tộc.
4. Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của văn hóa Đông Á hay Đông Nam Á :
Theo giới nghiên cứu văn hóa phương Tây, các nhà văn hóa học xếp văn hóa Việt Nam
vào khu vực văn hóa Đông Á. Tiêu biểu là công trình: Một công trình nghiên cứu về lịch sử (A
Study of history – xuất bản ở Luân Đôn) học giả người Anh Arnorld Toynbec đã điểm đến 34
nền văn minh đặc sắc trên toàn thế giới. Trong số 34 nền văn minh ấy chỉ còn lại 18 nền văn
2

Những cột mốc lịch sử, NXB Mác Lê-nin, HN, 1986, tr. 167.


minh đang tồn tại và phát triển. Nền văn hóa, văn minh Việt Nam là một trong 18 nền văn
hóa, văn minh ấy. Nhà học giả xếp văn hóa, văn minh Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và
Việt Nam vào cùng một loại vì có những nét tương đồng.
Văn minh Trung Hoa là trung tâm, là ngọn nguồn. Còn các nền văn minh Nhật Bản,
Triều Tiên và Việt Nam là nền văn minh vệ tinh.
A. Tonybec cho rằng 4 nền văn minh này tạo nên một vùng văn hóa riêng biệt. Đó là
vùng văn hóa Đông Á (Asie Orientale). Nét chung cơ tầng của các nền văn minh này là tâm
linh con người.
Nhưng theo Giáo sư Đinh Gia Khánh trong cuốn “Văn minh dân gian Việt Nam trong bối
cảnh văn hóa Đông Nam Á” (NXB KHXH, HN, 1993) ông cũng không hoàn toàn bác bỏ quan
điểm của các nhà văn hóa phương Tây khi xếp văn hóa, văn minh Việt Nam vào khu vực
Đông Á. Nhưng điều cần lưu ý là ở chỗ nước ta là nước thuộc vùng Đông Nam Á (3), do vậy
cần đặt văn hóa, văn minh Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á. Có như vậy thì mới tránh
cái nhìn phiến diện trong khi nghiên cứu văn hóa Việt Nam cần liên hệ với các nền văn hóa
lân cận nhưng có ảnh hưởng khác nhau, hoặc ít, hoặc nhiều đến sự hình thành và phát triển
văn hóa Việt Nam.
5. Văn hóa phương Đông và phương Tây :

Có ý kiến cho rằng các nền văn hóa phương Đông, châu Phi là những nền văn hóa
thiếu lý tính, thiếu sự khai sáng của văn hóa, văn minh Châu Âu. Nhận định ấy là không hợp
lý. Nhà thơ Ấn Độ Rabin Tagore có lần đã phát biểu “Đã có lúc tôi tin rằng nguồn suối của
văn minh có thể phát nguồn từ trái tim Châu Âu. Nhưng bây giờ, khi tôi sắp từ giã cõi đời
niềm tin đó đã từ bỏ tôi. Tôi nhìn quanh và thấy tro tàn đổ nát của một nền văn minh đầy tự
hào vương vai. Tuy nhiên tôi không phán cãi cái tôi đã mất lòng tin vào con người. Có lẽ bình
minh sẽ đến từ phương Đông... nơi mặt trời mọc”.
Dó nhiên mỗi nền văn hóa, văn minh của nhân loại đều có giá trị lịch sử, có ý nghóa tích
cực trong sự phát triển xã hội. Song do đặc điểm về địa lý, lịch sử, ngôn ngữ... văn hóa
phương Tây và văn hóa Phương Đông có những nét khác nhau.
Văn hóa Phương Tây thường đi tìm cái dị biệt của các hiện tượng, các sự vật trong tự
nhiên, trong xã hội và tư duy. Điều này do ảnh hưởng, chi phối của chủ nghóa duy lý. Triết
học duy lý nhìn sự vật, hiện tượng trong sự phân cắt, phân giải. Văn hóa phương Tây coi
trọng lý tính, coi trọng và đạt đến văn minh vật chất. Tư duy của người Phương Tây là tư duy
tuyến. Văn hóa Phương Đông đi tìm cái hòa đồng, cái dung hợp. Văn hóa phương Đông lý
giải các hiện tượng, các sự vật trong tính lưỡng phân, lưỡng hợp: âm-dương, nhật-nguyệt, trời
đất... văn hóa phương Đông chú ý các chiều kích của lý tính. Văn hóa phương Đông vươn tới
các giá trị tinh thần, tư duy của người phương Đông là tư duy trường.

3

Khái niệm : Vùng ĐNÁ gồm 10 nước : Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Malaixia, Indonexia,
Philippine, Brunêi. Thời tiền sử vùng ĐNÁ có Hoa Nam (Trung Quốc hiện nay).


Một đặc điểm nữa của lối sống phương Đông là con người luôn luôn sống cộng sinh với
quá khứ, với truyền thống, ví dụ như ý thức về dòng họ, về gia tộc, về sự thờ cúng tổ tiên. Có
thể trong văn hóa phương Tây, con người quay về quá khứ như là một thái độ ngưỡng mộ,
chứ không phải là một thái độ cộng sinh. Cộng sinh được hiểu như là một thái độ tôn trọng
ngưỡng mộ, vừa là một lực đẩy, một sức mạnh thôi thúc tinh thần con người hiện tại. Người

phương Đông không lý giải cái chết, song họ tin linh hồn con người chết vẫn hiện hữu trong
tâm tưởng của người đang sống, và biết đề ra những cách ứng xử thích hợp cho con người.
Thế kỷ VI nước CV, Tôn Thất Bá đã xác lập ba điểm tồn tại mãi không hư nát đối với mỗi con
người. Đó là luật tam bất hủ cho mỗi con người: Lập đức, Lập công, Lập ngôn.
6. Vấn đề nội sinh, ngoại sinh và cộng sinh đối với văn hóa dân tộc:
- Nội sinh: Những yếu tố nội sinh là những yếu tố quy định và quyết định bản sắc dân
tộc của mỗi nền văn hóa.
- Ngoại sinh: là những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới
sự phát triển của văn hóa dân tộc.
- Cộng sinh: trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh, văn hóa dân tộc tìm thấy
những nhân tố tích cực, hữu ích để phát triển một cách đa dạng, phong phú nền văn hóa dân
tộc.


II. HỆ THỐNG PHÂN CHIA VĂN HÓA :
Như trên đã xác định văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần. Ở đây cần
xác lập hệ thống văn hóa theo một chỉ tiêu nhất định để khảo sát nền văn hóa. Dó nhiên
cách xác lập hệ thống này có thể khác nhau. Ở đây chúng tôi xem hệ thống văn hóa như một
cấu trúc nội tại, vận động và tác động chủ yếu của những yếu tố nội sinh. Đương nhiên khi
xem xét từng yếu tố có chú ý đến những yếu tố ngoại sinh tác động đến nền văn hóa dân
tộc. Theo cách phân chia của chúng tôi, văn hóa được xem xét trong một cấu trúc như sau :
- Văn hóa của động đồng người Việt : tổ chức cộng đồng Nhà-làng-Nước. Văn hóa vật
chất của cộng đồng. Văn hóa tinh thần của cộng đồng.
- Văn hóa giao tiếp ứng xử : giao tiếp ứng xử giữa con người và con người; giao tiếp ứng
xử với môi trường tự nhiên; giao tiếp ứng xử với môi trường xã hội (chủ yếu là môi trường văn
hóa)
- Văn hóa thẩm mỹ : đặc trưng của văn hóa thẩm mỹ của dân tộc Việt.
- Việc xác lập một hệ thống như vậy cũng để tiện cho việc khảo sát một nền văn hóa
dân tộc, nhưng nó không hẳn là tiêu chí cho mọi nền văn hóa. Tùy theo đặc trưng của mỗi
nền văn hóa ta có thể xác lập các hệ thống văn hóa khác nhau.



Phượng (chạm gỗ, đình Đình Bàng, Hà Bắc, 1736)


TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM
Lịch sử chính là những bước đi văn hóa của con người.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết : “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch
sử dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết
bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát
triển và lớn mạnh, viết nên những trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, bởi
khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước” (1)

1. Văn hóa Sơn Vị, Hịa Bình, Phùng Nguyễn Đồng Đậu.
* Văn hóa Sơn Vị (Lâm Thao, Phú Thọ)
Văn hóa Sơn Vị xuất hiện cách nay khoảng 12.000 – 20.000 năm, vào giai đoạn cuối
thời đồ đá và sang đầu thời đồ đá giữa. Vỉa văn hóa Sơn Vị trãi dọc từ Lào Cai, qua Vónh Phú
đến tận Nghệ Tónh.
Cư dân người Việt cổ sống chủ yếu trong các hang động hoặc trên các gò đồi trung du.
Nghề chính của họ là săn bắt và hái lượm. Công cụ được chế tạo chủ yếu là những hòn đá còn ở
dạng thô sơ.
* Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn

Văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn tồn tại cách đây không trên dưới 10.000 năm, xuất hiện
vào cuối thời đại đồ đá giữa đến đầu thời đại đồ đá mới.
Công cụ tìm thấy chủ yếu là bằng đá: dao, rìu bằng đá. Kiểu rìu thường gặp là rìu tứ
giác – Các công cụ, di vật bằng đá được ghè, đẽo. Bên cạnh đồ đá, đồ gốm đá xuất hiện
nhưng kiểu dáng và kỹ thuật còn thô sơn.
Ngoài việc sản xuất, hái lượm, người Việt đã bắt đầu trồng trọt và chăn nuôi. Chính điều
này cho phép chúng tôi khẳng định : Nước ta cùng một số nước Đông Nam Á khác được coi là

một trung tâm nông nghiệp, ra đời vào loại sớm nhất thế giới.
* Văn hóa Hạ Long :

Văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh), Bàu Tró (Quảng Bình), Cầu Sắt (Đồng Nai) là những
nền văn hóa thuộc cuối thời đại đồ đá mới, tồn tại cách nay khoảng 4 đến 5 vạn năm, với
những hiện vật bằng đá khá tinh xảo, cư dân từ vùng đồi này xuống vùng đồng bằng. Nghề
chính của họ là trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Tương ứng với đời sống vật chất sơ khai là
một cuộc sống tinh thần đơn sơ, mộc mạc.
* Văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu (Vónh Phú)
Cuộc khai quật tại di chỉ Đồng Đậu (Vónh Phúc) đã gây bất ngờ lớn cho giới khảo cổ
học đã xác định 4 tầng văn hóa nối tiếp nhau: Phùng Nguyên (1.700–2.000 năm TCN), Đồng
Đậu (1.200 – 1.600 năm TCN), Gò Mum (800 – 1.100 năm TCN) và Đồng Sơn (500 – 700
1

Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, HN, t.16, 17.


năm TCN). Đây là thời kỳ cuối thời đại đồ đá mới bước sang thời kỳ đầu của thời đại kim khí.
Văn hóa Phùng Nguyên phân bố khá rộng ở vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ với lưu vực
Sông Hồng. Cư dân bắt đầu rời các hàng động ra sống ở vùng ven suối, sông và bắt đầu làm
nhà để ở. Nhà của người Việt cổ là nhà sàn.
Công cụ và đồ trang sức được chế tạo từ đá và được ghè, mài tinh xảo. Bên cạnh các
đồ đá, một lượng đáng kể công cụ và vũ khí bằng đồng được xuất hiện với nhiều loại hình
phong phú như rìu, mũi lao, mũi tên, lưỡi câu v.v... Trồng trọt được phát triển. Lúc đầu, người
Việt trồng lúa cạn ở gò đồi, về sau trồng lúa nước. Đến giai đoạn này, người Việt cổ đã tạo ra
một nền văn minh lúa nước – một trong nền văn minh hình thành sớm ở vùng Đông Nam Á.
Ở văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, nghề gốm và kỹ thuật gốm đã phát triển hơn: đa
dạng về chủng loại, kiểu dáng, màu sắc, hoa văn, hình trang trí trên

Người cõng nhau nhảy múa (tượng đồng Đông Sơn)


gốm phong phú hơn. Gốm được nung nên chắc chắn hơn. Song giữa hoa văn trang trí và kỹ
thuật gốm Phùng Nguyên và Đồng Đậu cùng có sự khác nhau :


Gốm Phùng Nguyên

Gốm Đồng Đậu

- Gồm màu nâu, đỏ, đen

- Ngoài các màu trên còn có màu vàng, xám

- Độ nung chưa cao

- Độ nung cao, gốm chắc

- Kiểu dáng đơn giản

- Kiểu dáng đa dạng hơn

- Hoa văn trang trí theo hình học

- Hoa văn trang trí phong phú hơn

2. Quốc gia Văn Lang, Âu Lạc và Văn hóa Đơng Sơn.
1. Quốc gia Văn Lang và Âu Lạc :
Quốc gia đầu tiên của người Việt là Văn Lang do các vua Hùng đứng đầu. Kinh đô là
Phong Châu (Vùng Việt Trì ngày nay) thuộc đời thứ 8 của các vua Hùng. Văn Lang được
hình thành từ 15 bộ tộc. Dưới các bộ tộc là làng.

Trong luận án tiến só của mình “Sự sinh thành của Việt Nam”, K.Taylor có nói: “Nước
Văn Lang” là Pokhun (tiếng của người Tày, Thái cổ)
Đến đời thứ 18 của các vua Hùng, Thục Phán – một thứ lính bộ tộc Âu Việt lên thay, lập
ra nước Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương. Kinh đô của Âu Lạc là Cổ Loa (huyện Đông
Anh, Hà Nội ngày nay). Quốc gia Âu Lạc tồn tại trong thời gian ngắn, khoảng gần 30 năm (từ
208 đến 179 năm TCN)
Năm 207 TCN, một viên tướng nhà Tần là Triệu Đà nhiều lần đem quân đánh Âu Lạc
nhưng đều thất bại, sau đó xin giảng hòa, rồi kết tình thông gia, cho con trai là Trọng Thủy ở
rễ. Trọng Thủy đã ăn cắp nhiều bí mật quân sự của vua An Dương, đặc biệt là nỏ thần.
Trọng Thủy xin phép vua An Dương về thăm cha, song kỳ thực là đem bí mật quân sự về
trình cho Triệu Đà. Cha con Triệu Đà lần này đem quân sang đánh Âu Lạc. Và vua An
Dương thất thủ. Từ đó nước ta bị phong kiến Trung Hoa đô hộ. Triệu Đà nhập các bộ tộc
nước ta vào miền Nam Trung Quốc và đổi thành Nam Việt. Năm thứ 3 TCN Nhà Hán trị vì ở
Trung Quốc, tiến đánh Nam Việt, giết cha con Triệu Đà, biến nước ta thành các châu, quận
của Trung Quốc.
2. Văn hóa Đông Sơn :
- Vài nét về làng Đông Sơn :
Làng Đông Sơn gắn liền với nền văn hóa Đông Sơn. Năm 1926, một nông dân lúc xẻ
rãnh làm thủy lợi đã tìm được một trống đồng và sau đó người ta khai quật ở làng Đông Sơn
nhiều hiện vật bằng đồng, đặc biệt là có 126 chiếc trống chủng loại khác nhau. Qua nghiên
cứu người ta phát hiện những chiếc trống đồng này thuộc thế hệ thứ 2 sau trống Ngọc Lũ.
Người ta lấy tên Đông Sơn đặt cho nền văn hóa Đông Sơn. Đông Sơn nằm ở bờ phải sông
Mã, phía Đông Bắc thành phố Thanh Hóa, cách phía trên cầu Hàm Rồng 1 km.
Có thể khẳng định: nền văn hóa Đông Sơn là sự tiếp nối những nền văn hóa tiền sử mà
người Việt đã tạo dựng, nó gắn liền với sự hình thành và phát triển của Quốc gia Văn Lang vaø


Âu Lạc, văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa của thời đại kim khí. Nền văn hóa Đông Sơn đạt
nhiều thành tựu văn hóa rực rỡ, làm rạng ngời thêm bản tính của dân tộc Việt.
Để hiểu rõ hơn vấn đề, chúng tôi xin giới thiệu bài “Quá trình hình thành nước Văn

Lang” (trích trong cuốn “Lịch sử Việt Nam”, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN,
1985)
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NƯỚC VĂN LANG
Thời Hùng Vương với thời gian tồn tại khoảng 2000 năm TCN, bao quát các giai đoạn
phát triển từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt, phải được quan niệm và nghiên
cứu như một thời kỳ lớn của lịch sử, như một quá trình vận động nói chung là từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từng bộ phận, từng hình thái cũng có bước thịnh suy của nó.
Vào đầu thời Hùng Vương, tương ứng với giai đoạn Phùng Nguyên, một số chuyển biến
quan trọng đã được ghi nhận. Đó là sự phát triển của nghề nông trồng lúa nước, nghề chăn
nuôi, nghề gốm, sự phát triển đến mức hoàn hảo của nghề chế tác đá, và nhất là sự xuất
hiện của nghề luyện kim đồng thau. Nhưng nhìn chung, công cụ sản xuất bằng đá vẫn hoàn
toàn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính chất nguyên thủy. Phải chăng đó là tình trạng
được phản ánh trong truyền thuyết : “Lúc quốc sơ, đồ dùng của dân chưa đủ, phải lấy vỏ cây
làm áo, dệt cỏ ống làm chiếu, lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang làm thức ăn....” (1)
Trải qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, nền kinh tế càng ngày càng phát
triển mạnh mẽ và đạt đến một trình độ khá cao. Công cụ đá được thay thế dần bằng những
công cụ đồng thau, rồi công cụ sắt. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nông
nghiệp trồng lúa nước trở thành ngành chủ đạo.
Về nông nghiệp, giai đoạn Gò Mun và Đồng Sơn đánh dấu một bước tiến lớn lao. Ngoài
rìu đồng được sử dụng để khai phá đất đai, từ giai đoạn Gò Mun đã tìm thấy những lưỡi liềm
đồng và đến giai đoạn Đông Sơn thì tìm thấy hàng loạt lưỡi cày đồng, nhíp đồng và cuốc,
mai, thuổng bằng sắt. Liềm đồng và nhíp đồng là những công cụ sắt, dùng để thu hoạch lúa.
Lưỡi cày cùng với cuốc, mai, thuổng.... là những công cụ làm đất để gieo trồng. Ngoài ra, hẳn
còn nhiều loại công cụ bằng tre, gỗ không được bảo tồn đến nay.
Trước đây, đã phát hiện được một số lưỡi cày đồng trong các di tích thuộc văn hóa
Đông Sơn, ít ra đã có 79 lưỡi. Gần đây, tại Cổ Loa (Hà Nội) người ta tìm thấy một trống đồng
được chôn ở độ sâu 30cm, bên trong chứa hơn 100 hiện vật đồng thau, trong số ấy có 96 lưỡi
cày đồng. Lưỡi cày đồng gồm nhiều loại kích thước khác nhau, thường có hình cánh bướm,
hình gần tam giác hay hình gần quả tim. Căn cứ vào kích thước, hình dáng, cấu tạo, vết mòn
ở công cụ, nhất là cấu tạo của họng, nhiều nhà khoa học xác nhận đây là những lưỡi cày

thực sự với công dụng dùng để rẽ đất và lật đất một cách liên tục bằng lực kéo chứ không
phải dùng để xắn hay xới Đất từng nhát như mai, thuổng, cuốc. Như vậy là một nền nông
1

Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lónh Nam chích quái, sđd, tr.23.


nghiệp dùng cày với những lưỡi cày bằng kim loại đã ra đời và phát triển, thay thế dần cho
nền nông nghiệp dùng cuốc trước đó.
Cày có thể kéo bằng sức người hay sức súc vật. Những lưỡi cày hình cánh bướm
thường có kích thước nhỏ, dài 4cm, rộng từ 10-13cm. Những lưỡi cày hình gần tam giác hay
quả tim lớn hơn, như lưỡi cày ở xóm Nhồi, Cổ Loa dài 24cm, rộng 18cm. Với những lưỡi cày
cỡ lớn như vậy và với việc nuôi trâu, bò đã phát triển thời bấy giờ, có nhiều khả năng con
người đã biết sử dụng trâu bò để kéo cày. Trước khi lưỡi cày sắt ra đời vào những thế kỷ trước
sau công nguyên, việc dùng lưỡi cày đồng thau và sức kéo của súc vật, tiêu biểu cho kỹ
thuật canh tác tiến bộ nhất thời đó.
Bằng những công cụ kim khí, cư dân giai đoạn hậu kỳ thời đại đồng thau và sơ kỳ thời
đại đồ sắt đã mở rộng địa bàn cư trú, đẩy mạnh công cuộc chinh phục vùng đồng bằng Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ. Các di tích văn hóa Đông Sơn phân bố trên địa bàn rất rộng, bao gồm
cả miền núi, miền trung du và đồng bằng ven biển. Ở lưu vực sông Hồng, nó lan lên đến tận
miền núi Lào Cai (Hoàng Liên Sơn) và tràn xuống hầu khắp vùng đồng bằng châu thổ của
Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng, Hà Nam Ninh.... Ở lưu vực sông Mã, sông Cả, nó cũng tỏa
rộng trên cả vùng trung du và đồng bằng, cho dến vùng ven biển.
Lúc bấy giờ, nói chung vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã thành hình, nhưng
còn hoang dại, còn nhiều vùng trũng, đầm lầy, rừng rậm và nhiều vùng biển ăn sâu vào đất
liền. Dọc theo sông lúc đó chưa có đê, có chăng thì cũng mới là những đoạn đê ngắn, đê
quai từng vùng nhỏ, nên vào mùa nước, nước tràn ngập và phủ lên đồng bằng những lớp phù
sa màu mỡ. Đất đai nói chung phì nhiêu, thích hợp với nghề trồng lúa nước.
Từ những điểm tụ cư trên các gò đồi, chân núi, trên các doi đất cao ven sông, con
người khai phá đất đai, mở rộng diện tích trồng lúa nước bằng nhiều hình thức canh tác phù

hợp với địa hình và thổ nhưỡng từng vùng. Tựu trung có hai hình thức canh tác chính là làm
rẫy và làm ruộng.
Rẫy hay nương rẫy là một hình thức trồng trọt sơ khai, áp dụng ở miền đồi núi, mặt đất
thường dốc, không có điều kiện thâm canh, làm thủy lợi. Người ta phát cây cối, dùng lửa đốt
cháy thành tro than, rồi chọc lỗ, tra hạt. Đó là lối “đao canh hỏa chủng” (cày bằng dao, trồng
bằng lửa) được phản ánh trong Lónh Nam chích quái, hay được ghi chép trong Đông quan
Hán ký dẫn lại trong Hậu hán thư “Cửu chân (bắc Trung Bộ) có tục đốt cỏ mà trồng trọt”.
Hình thức nương rẫy có được bảo tồn lâu dài ở miền núi cho đến thời gian gần đây.
Ruộng có nhiều loại, nhưng chủ yếu và phổ biến là loại ruộng nước, gồm những chân
ruộng phù sa ven sông và chân ruộng trũng ở vùng thấp trũng và quanh các ao đầm. Một
trong những cuốn sách xưa nhất của thư tịch Trung Quốc chép về lịch sử nước ta là cuốn
Giao Châu ngoại vực ký (thế kỷ IV) dẫn lại trong Thủy kinh chú (thế kỷ VI), có đoạn viết:
“Ngày xưa, Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất có ruộng Lạc, ruộng đó theo
nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng đó mà ăn nên gọi là dân Lạc” (Giao Chỉ tích vị hữu
quận huyện chi thời, thổ địa hữu Lạc điền, kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ, dân khẩn thực


kỳ điền, nhân danh vi Lạc dân)(1). Xung quanh từ Lạc trong “Lạc dân”, “Lạc điền”, “Lạc Việt”
còn nhiều cách giải thích khác nhau nhưng khuynh hướng chung của nhiều người đều coi
“Lạc điền” là loại ruộng nước. Đối với loại ruộng này, có thể áp dụng rộng rãi kỹ thuật cày
bằng những lưỡi cày đồng thau và sức kéo của trâu bò hay cũng có thể áp dụng kỹ thuật
“đao canh thủy nậu” (cày bằng dao, làm nát bằng nước). “hoa cảnh, thủy nậu” nước vào
ruộng, giẫm cho sục bùn để gieo trồng. Ruộng nước nói chung là loại ruộng cố định, được
trồng trọt thường xuyên, mặt ruộng được cải tạo, có bờ giữ nước, nghóa là có điều kiện thâm
canh tăng vụ.
Công cuộc chinh phục vùng đồng bằng, phát triển nông nghiệp trồng lúa nước, đặt ra
yêu cầu càng ngày càng bức thiết về công tác trị thủy và thủy lợi. Thiên nhiên nhiệt đới gió
mùa với lượng nước, độ nóng, độ ẩm cao, cùng với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng vùng đồng
bằng có mặt rất thuận lợi cho nghề trồng lúa nước, nhưng cũng có khắc nghiệt của nó, trước
hết là mối đe dọa của nạn lũ lụt, hạn nán, úng ngập. Huyền thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh qua

nhiều chuyển hóa, cuối cùng phản ánh cuộc đấu tranh chống ngập lụt của đồng bằng Bắc
Bộ với ước mơ của con người : núi phải cao hơn nước, Sơn Tinh phải thắng Thủy Tinh. Người
dân vùng này hiểu rõ mối đe dọa thường xuyên của thiên tai và luôn luôn nhắc nhở :
Núi cao sông hãy còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
Cho đến nay, khảo cổ học chưa tìm thấy di tích những công trình thủy lợi thời Hùng
Vương. Nhưng một cách thức tưới tiêu nào đó còn được ghi nhận trong thư tịch cổ. Câu văn
“ruộng đó theo nước triều lên xuống” (kỳ điền tòng thủy triều thượng hạ) của Giao Châu
ngoại vực ký (dẫn lại trong Thủy kinh chú) và của Quảng Châu ký (thế ký V, dẫn lại trong Sử
ký sách ẩn của Tư Mã Trinh, thế kỷ VIII) thật khó hiểu và từ lâu đã gây ra cuộc thảo luận với
nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng cũng câu đó của Giao chỉ thành ký được dẫn lại
trong An Nam chí lược của Lê Trắc đời Trần, thì rất rõ ràng: “tưới ruộng theo nước triều lên
xuống”. (Quán điền tòng thủy triều thượng hạ)(2). Muốn “tưới ruộng”, người ta phải biết đắp bờ
giữ nước, phải biết xây dựng một số công trình nhân tạo nào đó như phai đập, kênh mương...
để dẫn nước và tháo nước, tưới tiêu cho đồng ruộng. Ở Cổ Loa đã phát hiện được dấu tích
của một đoạn đê cổ, có trước thời Bắc thuộc. Vào cuối thời Hùng Vương, cư dân vùng đồng
bằng có thể đã biết đắp đê, nhưng chỉ mới đắp những đoạn đê ngắn để chống ngập lụt cho
một vài nơi trung tâm nào đó.
Cây trồng chủ yếu là lúa nước, bao gồm cả lúa tẻ, lúa nếp và có thể lúc bấy giờ, lúa
nếp còn được trồng phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong đời sống, chiếm tỷ lệ cao trong
thành phần lương thực của con người. Điều đó được phản ánh trong Lónh Nam chích quái:
thời Hùng Vương “đất sản nhiều gạo nếp”, và được xác nhận qua các di tích khảo cổ học.

1
2

Lịch Đạo Nguyên, Thủy kinh chú, q.VI, tr.62, bản in của Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh 1958.
Nguyễn Đổng Chi, Mấy ý kiến về xã hội thời Hùng Vương. Nghiên cứu lịch sử soá 123, 6/1969.



Phân tích 4 mẫu thóc cháy và trấu lấy từ các di tích Đồng Đậu, Đông Tiến và Làng Cả có
niên đại trước công nguyên, thì thấy đều thuộc dạng hạt tròn là dạng phổ biến của lúa nếp.(3)
Cùng với nghề trồng lúa nước, nghề trồng rau củ và cây ăn quả vẫn tiếp tục phát triển.
Hạt na, hạt trám đã tìm thấy ở di chỉ Đồng Đậu, hạt đậu đã tìm thấy ở di chỉ Hoàng Ngô. Kết
quả phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Tràng Kênh cho thấy có những cây thuộc họ hòa
thảo, bộ đậu, họ bầu bí, họ dầu tằm. Truyền thuyết dân gian nói đến việc trồng dưa hấu
trong Chuyện An Tiêm, trồng cau, trầu trong Chuyện trầu – Cau.... Nghề làm vườn phát triển
cung cấp thêm nguồn thức ăn thực vật cho con người và cùng với nghề làm rẫy, nghề làm
ruộng là ba hình thức cơ bản của nghề trồng trọt đương thời.

3

Nguyễn Việt, Lúa nếp và chõ thời Hùng Vương, Khảo cổ học số 3, 5 - 6/1981.


Cùng kết hợp với nông nghiệp còn có nghề hái lượm, săn bắn, chăn nuôi, đánh cá.
Hái lượm và săn bắn là những ngành kinh tế khai thác, vẫn tồn tại và có mặt phát triển,
nhưng bị đẩy xuống hàng thứ yếu. So với hái lượm, săn bắn đóng vai trò quan trọng hơn vì
không những nó bổ sung nguồn thức ăn thịt cho con người, cung cấp da, xương và sừng cho
một số nghề thủ công chế tạo đồ trang sức, đồ dùng và vũ khí, mà nó còn có ý nghóa chống
thú dữ, bảo vệ mùa màng và cuộc sống. Đối tượng săn bắn, qua di tích động vật tìm thấy
trong các di chỉ khảo cổ học, bao gồm nhiều loại thú rừng như lợn rừng, hươu, nai, hoẵng,
khỉ, cầy hương, dím, chuột... và cả những loại thú to lớn, hung dữ như voi, hổ, tê giác... Ít ra
vào giai đoạn Đông Sơn, người ta đã biết dùng chó săn. Trên một số rìu đồng của giai đoạn
này đã thể hiện cảnh săn hươu rất sinh động, trong đó có con chó săn đang chặn đầu một
con hươu.
Chăn nuôi phát triển theo hướng gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp, không tách ra thành
một ngành kinh tế độc lập. Chó, lợn, trâu, bò là những gia súc quen thuộc cư dân thời Hùng
Vương mà xương, răng của chúng đã tìm thấy trong nhiều di tích khảo cổ học. Từ giai đoạn
Gò Mun đến giai đoạn Đông Sơn, xương trâu, bò nhà càng ngày càng tăng lên. Kết quả

thống kê cho thấy, ở Gò Mun xương trâu bò nhà chiếm tỷ lệ 38,7% đến Đình Chàng thuộc


giai đoạn Đông Sơn tăng lên 63,7% so với toàn bộ xương răng các loại gia súc. Ở Đông Sơn
tìm thấy tượng bò bằng đất nung, ở Đình Chàng tìm thấy một đồ trang sức đầu trâu bằng đá
và trên trống đồng Đồi Ro, Làng Vạc có hình bò rất đẹp. Sự phát triển mạnh của nghề nuôi
trâu bò vào cuối thời Hùng Vương có lẽ không phải chỉ để cung cấp thịt, mà còn đáp ứng yêu
cầu sức kéo trong nông nghiệp.

Trong di chỉ Xóm Rền (thuộc giai đoạn Phùng Nguyên), Đồng Đậu đã tìm thấy tượng
gà bằng đất nung và đến giai đoạn Đông Sơn tìm thấy tượng gà bằng đồng thau ở Chiền
Vậy, Vinh Quang. Trong các di tích thời Hùng Vương cũng tìm thấy xương gà rừng (gallus
sp), tổ tiên của gà nhà. Cư dân thời Hùng Vương hẵn đã biết nuôi gà và con gà đã trở thành
con vật quen thuộc trong cuộc sống, được phản ánh trong nghệ thuật tạo hình.
Việc nuôi ngựa chưa tìm thấy chứng tích trong khảo cổ học, dù truyền thuyết Thánh
Dóng có nêu lên hình tượng ngựa sắt. Nhưng việc thuần dưỡng voi thì đã được xác nhận,
không phải chỉ vì tìm thấy răng voi trong một số di chỉ, mà trước hết là vì đã tìm thấy tượng
voi bằng đồng có bành ở Làng Vạc.
Nghề đánh cá, nếu dấu vết có mờ nhạt ở giai đoạn Phùng Nguyên thì lại tỏ ra có những
bước phát triển đáng kể ở những giai đoạn sau. Xương răng cá các loại cùng với những chì
lưới bằng đất nung, lưỡi câu bằng đồng thau, mũi lao đâm cá có ngạnh bằng xương.... tìm
thấy trong nhiều di chỉ chứng minh điều đó. Hơn nữa, địa hình sông nước với bờ biển dài,
nhiều sông ngòi, ao đầm, là điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển của nghề đánh
cá nước ngọt và nước mặn. Những tiến độ về kỹ thuật đóng thuyền giai đoạn Đông Sơn chắc
cũng góp phần vào sự phát triển của nghề đánh cá.
Bên cạnh nông nghiệp, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh mẽ, có nghề phát triển
vượt bực và có tác động qua lại chặt chẽ với nông nghiệp.
Nghề làm cá đạt đến trình độ phát triển hoàn mỹ ở giai đoạn Phùng Nguyên để rồi sau
đó, lùi dần và nhường vai trò chế tạo công cụ cho nghề luyện kim. Sự suy thoái về vị trí kinh
tế của nghề làm đá khi bước sang thời đại văn minh là một tất yếu và biểu thị một bước tiến

của lịch sử. Tuy vậy, cho đến cuối thời Hùng Vương, nghề làm đá vẫn được bảo tồn vaø


chuyển sang chức năng làm đồ trang sức bằng đá quý là chủ yếu. Người thợ làm đá trên thực
tế đã trở thành người thợ làm đồ mỹ nghệ.
Nghề làm gốm thời Hùng Vương nói chung chưa vượt quá giới hạn của gốm thô, nhưng
có nhiều tiến bộ đáng kể.
Từ giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật làm gốm bằng bàn xoay đã phát triển. Xương
gốm làm bằng đất sét pha với cát và một ít vụn bã động vật, thực vật, để vừa dễ tạo hình,
vừa chịu được độ lửa cao, ít bị biến dạng và rạn nứt khi nung. Xương gốm được tráng một lớp
nước đất sét để sau khi nung, tạo thành một lớp áo mịn và nhẵn.
Đồ gốm Phùng Nguyên còn bở và dễ thấm nước. Nhưng vào các giai đoạn sau, đồ gốm
cứng hơn, ít thấm nước hơn, đạt độ nung cao hơn, Gốm Gò Mun có độ nung 800 – 9000C,
chứng tỏ lò nung được cải tiến và hoàn thiện hơn.
Kỹ thuật tạo hình và trang trí đồ gốm cũng có nhiều tiến bộ. Loại hình phong phú và
hoa văn nhiều hình vẽ của đồ gốm chứng tỏ điều đó. Hoa văn được tạo thành bằng nhiều
phương pháp như chải, đập, rạch, in ấn. Cần chú ý là một số hoa văn không những có giá trị
mỹ thuật làm tăng thêm vẻ đẹp của đồ gốm, mà còn có ý nghóa kỹ thuật làm tăng thêm độ
chắc bền và giá trị sử dụng của đồ gốm. Hoa văn tạo thành bằng cách chải có tác dụng lấp
những vết rỗ trên đồ gốm. Phương pháp đập trong kỹ thuật tạo hoa văn làm cho đồ gốm
được nện chặt và chắc hơn.
Vào cuối thời Hùng Vương, loại hình đồ gốm đơn điệu và ít được trang trí. Điều đó
không chứng tỏ sự suy thoái của kỹ thuật gốm, mà phản ánh xu hướng thực dụng của nghề
làm gốm, khi những đồ đựng có giá trị được chế tạo bằng đồng thau và đồ gốm thô trở thành
đồ dùng bình thường, thông dụng.
Nghề mộc và nghề đan lát được trang bị thêm những công cụ bằng kim khí và có
những bước phát triển mới.
Đồ gỗ, do chất liệu dễ bị hủy hoại, nên không được bảo tồn bao nhiêu. Nhưng gần đây,
khảo cổ học cũng đã tìm thấy giáo bằng gỗ ở Gò Mun, nhiều quan tài hình thuyền độc mộc ở
Việt Khê, Châu Can ... trong đó có cán giáo, mái chèo và đồ dùng bằng gỗ. Hình ảnh cối và

chày giã gạo bằng gỗ, nhà sàn, thuyền ván.... được trang trí trên đồ đồng Đông Sơn.
Công cụ của nghề mộc từ đồ đá được chuyển dần sang đồ đồng thau gồm các loại rìu,
đục, dùi, dao khắc, dao thường.... Với các loại gỗ phong phú của rừng nhiệt
đới, nghề mộc giữ vai trò quan trọng trong đời sống, không những cung cấp những đồ dùng
thông thường trong sinh hoạt, mà còn sản xuất một số công cụ, vũ khí, phương tiện đi lại và
làm nhà ở.


Nghề đan lát còn để lại vết tích qua những dấu đan in trên đồ gốm và đồ đồng. Đó là
những dấu đan đẹp và đều, gồm nhiều kiểu đan như lóng mốt, lóng đôi, lóng nia, lóng
thúng.... Với những vật liệu tre, nứa có sẵn ở khắp nơi, nghề đan lát có thể cung cấp nhiều đồ
dùng thông dụng cho con người .
Nghề dệt cũng để lại nhiều chứng tích về sự tồn tại và phát triển trong suốt thời Hùng
vương. Dấu thừng trên đồ gốm và dọi xe chỉ bằng đất nung cho thấy nghề xe sợi đã có từ giai
đoạn Phùng Nguyên. Từ sợi, người ta dệt lưới cung cấp cho nghề đánh cá và dệt vải đáp ứng
nhu cầu may mặc của con người. Chì lưới đã tìm thấy khá nhiều. Hình người trên đồ đồng
Đông Sơn, nhất là trên trống và thạp đồng, đều mặc áo, mặc váy, đóng khố. Các loại vải
mịn, vải thô còn in dấu trên đồ gốm, đồ đồng và trong một ngôi mộ ở Châu Can đã tìm thấy
những mãnh vải. Các loại vải lúc bấy giờ có lẽ dệt bằng sợi bông, gai, đay và tơ tằm, mà thư
tịch cổ của Trung Quốc ghi nhận đã có ở nước ta vào đầu thời Bắc thuộc.
Nghề sơn đã xuất hiện và đến giai đoạn Đông Sơn đã đạt đến trình độ kỹ thuật khá
cao. Trong mộ Việt Khê, một số đồ gỗ được sơn màu nâu, màu đỏ và trang trí đẹp.
Trong các nghề thủ công thời Hùng Vương, sự ra đời và phát triển của nghề luyện kim,
bao gồm nghề đúc đồng và nghề luyện sắt, có ý nghóa như một cuộc cách mạng vì nó tác
động sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế và từ đó, gây nên những chuyển biến trong cơ cấu xã
hội.
Nghề đúc đồng xuất hiện từ đầu thời Hùng Vương, giai đoạn Phùng Nguyên, phát triển
liên tục qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun và đạt đến đỉnh cao rực rỡ vào giai đoạn Đông
Sơn. Tiến trình lịch sử đó cùng với việc phát hiện ra những cục xỉ đồng và khuôn đúc đồng,
cho thấy quá trrình phát triển lâu dài, tại chỗ và tính chất bản địa của nghề luyện kim đồng

thau ở nước ta.


Luyện kim đồng thau là một quá trình sản xuất phức tạp, nặng nhọc, bao gồm nhiều
khâu lao động từ chỗ tìm quặng, khai mỏ, đến việc xây lò, nấu quặng, pha chế hợp kim, làm
khuôn, đổ đồng v.v... Đồng thau là một hợp kim đầu tiên do con người sáng chế.
Kết quả phân tích thành phần hợp kim đồng thau thời Hùng Vương cho phép phân biệt
hai giai đoạn phát triển khác nhau.
Trong giai đoạn Phùng nguyên, Đồng Đậu và có thể cả Gò Mun, hàm lượng đồng
chiếm khoảng 80 – 90%, hàm lượng thiếc khoảng 10 – 20%. Hàm lượng chì rất nhỏ bé – chỉ
khoảng 0,01 – 0,4%, cũng gần như tỷ lệ của một vài tạp chất khác. Có thể coi đây là giai
đoạn hợp kim đồng - thiếc.
Sang giai đoạn Đông Sơn, tỷ lệ đồng và thiếc giảm xuống, tỷ lệ chì tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ
chì trong mũi giáo Đình Chàng là 2,57%, mũi tên Đường Mây là 9,77%, trống đồng thường
trên 10% và có khi đến gần 28% (1). Đấy là giai đoạn hợp kim đồng – thiếc – chì.
Hai giai đoạn kim đồng thau đó biểu thị sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau gắn
liền với những yêu cầu kinh tế – kỹ thuật khác nhau. Trong giai đoạn đầu, đồng thau chủ
yếu dùng để đúc công cụ và vũ khí. Hợp kim đồng thau = 80 – 90% đồng + 10 – 20% thiếc,
đáp ứng yêu cầu trên, bảo đảm sản phẩm có độ cứng và độ sắc cao. Đến giai đoạn Đông
Sơn, đồng thau được sử dụng rộng rãi hơn, được dùng để đúc trống, thạp, đúc nhiều đồ dùng
và đồ mỹ nghệ có trang trí đẹp. Hợp kim đồng – thiếc – chì ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu
mới của nghề đúc đồng. Hàm lượng chì càng tăng thì độ nóng chảy của hợp kim giảm xuống,
hợp kim kém rắn và sắc, nhưng lại dẻo hơn và dễ điền đầy mọi chi tiết của khuôn đúc. Tỷ lệ
đồng, thiếc, chì cũng thay đổi tùy theo tính năng của từng loại sản phẩm. Nói chung, loại
công cụ và vũ khí cần cứng và sắc, thì tỷ lệ chì thấp, thiếc cao, còn lại đồ dùng như trống,
thạp, thố... cần dộ dẻo cao thì tỷ lệ chì nhiều, thiếc ít. Vài kết quả phân tích làm ví dụ : (1)
Mẫu

Đồng


Thiếc

Chì

60,82 – 71,17%

4,9% - 10,88%

14,25 – 26,69

Lưỡi giáo Thiệu Dương

73,3%

13,21%

5,95%

Rìu xẻo

82,2%

6,8%

1,4%

Thành phần
Trống loại I

Theo các tài liệu địa lý học lịch sử thì miền Bắc nước ta có khá nhiều mỏ đồng và có cả

mỏ thiếc, mỏ chì. Lịch sử khai khoáng cũng cho biết, trong thời trung đại, hàng chục mỏ
đồng và một số mỏ thiếc, mỏ chì đã được khai thác. Đó là những mỏ không lớn lắm, nhưng
nông và lộ thiên, dễ khai thác. Trong bài sử thi có Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường có một

1

Phan Văn Thích, Hà Văn Tuấn, Phân tích chì trong di vật đồng thuộc thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm, Khảo cổ học số 78, tháng 12/1980 Phạm Hồng Phi, Nguyễn Khắc Tùng, Hoàng Xuân chinh, Phân tích mẫu hiện vật khảo cổ ở Đồng Đậu bằng
phương pháp quang phổ, Khảo cổ học số 7-8, tháng 12-1970.

1

Lê Văn Lan, Phạm Văn Kỉnh, Nguyễn Linh. Những vết tích đầu tiên của thời đại đồ đồng thau ở Việt Nam, NXB
Khoa học, Hà Nội 1963, tr.217, 218.


đoạn dài miêu tả cảnh dân mường kéo nhui lên rừng đi tìm “cây chu tá lá chu đồng, bông
thau quả thiếc”, tức đi khai mỏ đồng, mỏ thiếc (2). Nguồn quặng cung cấp cho nghề luyện kim
đồng thau có ngay trên đất nước ta và cư dân thời Hùng Vương là những lớp người đầu tiên
đã phát hiện và khai thác một số mỏ đồng, thiếc, chì ....
Trừ một vài công cụ nhỏ như lưỡi nhọn... được chế tạo bằng phương pháp rèn, hầu hết
hiện vật đồng thời đời Hùng Vương đều là sản phẩm của nghề đúc. Khảo cổ học cũng đã tìm
thất nhiều khuôn đúc bằng đất, bằng đá và cả nồi nấu đồng.... trong các di tích từ Đồng
Đậu đến Đông Sơn. Riêng giai đoạn Đồng Sơn, cho đến nay đã phát hiện được 8 khuôn đúc
và 6 nồi nấu đồng trong các di tích Làng Cả, Làng Vạc, Vinh Quang, Đồng Mõm, Q Chữ
..... Đó là những khuôn đúc rìu, dao găm, giáo, chuông.....
Các khuôn đúc tìm thấy đều là loại khuôn 2 mang, trong đó có cả khuôn đúc một hiện
vật và khuôn đúc nhiều hiện vật. Mặt giáp khuôn rất nhẵn và kín, trên khuôn có đánh dấu
giáp khuôn, có đậu rót, đậu ngót, có khuôn có đậu hơi hay lỗ thông hơi. Cấu tạo của khuôn
và kỹ thuật làm khuôn chứng tỏ người thợ đúc đồng thời Hùng Vương không những khéo tay,
giàu kinh nghiệm mà còn những hiểu biết sâu sắc về sự nóng chảy của kim loại, độ co rút

của hợp kim khi nguội, sức đẩy của nước đồng trong khuôn ....
Để đúc những vật phẩm nhỏ và đơn giản như rìu, giáo, mũi tên .... chỉ cần nước đồng
cao hơn nhiệt độ chảy loãng, khoảng 1.1000C. Nhưng những vật đúc lớn và phức tạp như
trống, thạp ... đòi hỏi nước đồng phải chảy thật loãng, khoảng từ 1.2000C – 1.2500C, mới bảo
đảm kết quả đổ khuôn. Như vậy, những lò nấu đồng thời đó phải chịu đựng nhiệt độ 1.4000C
và phải có phương pháp thiết bị thổi gió tốt (1).
Hiện vật tiêu biểu cho tài năng và kỹ thuật tuyệt vời của nghề đúc đồng thời Hùng
Vương là trống đồng và thạp đồng. Cho đến nay, chúng ta chưa tìm thấy khuôn đúc trống và
thạp. Nhiều nhà khảo cổ học và kỹ sư luyện kim đã dày công nghiên cứu kỹ thuật đúc thử
trống đồng và nhiều giả thuyết khoa học đã được nêu lên. Năm 1964 chúng ta đúc thử trống
đồng Ngọc Lũ bốn lần đều chưa thành công. Lần đúc thử năm 1975 bằng phương pháp cổ
truyền và kinh nghiệm của phường đúc Ngũ Xã (Hà Nội) đã đạt kết quả tốt, so với hiện vật
gốc có thể nói đạt 80% (2). Nhưng xung quanh kỹ thuật đúc trống đồng, thạp đồng... thời
Hùng Vương vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá.
Trong giai đoạn Đông Sơn, trên cơ sở phát triển cao của nghề đúc đồng, nghề luyện
sắt đã xuất hiện, và ngược lại, sự phát tiển của kỹ thuật luyện sắt lại có tác dụng thúc đẩy sự
hoàn thiện của kỹ thuật đúc đồng. Dấu tích của lò luyện sắt xốp ở Đồng Mõm (Nghệ Tónh),
ống bể ở Vinh Quang (Hà Nội), những công cụ sắt ở Đường Mây, Gò Chiền Vậy (Hà Nội)... là
những chứng tích xác thực của nghề luyện sắt. Lưỡi cuốc sắt ở Gò Chiền Vậy có niên đại
các-bon phóng xạ là 2.350 + 100 năm (1950) tức vào khoảng năm 400 TCN. Di chỉ Đường
2

Đẻ đất đẻ nước, Ty Văn hóa Thanh Hóa xuất bản 1975, đoạn XX và XXI : tìm chu và chặt chu.
Vũ Ngọc Thư, Nguyễn Duy Tỳ. Kỹ thuật đúc đồng thời Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước, t.III, sđd.
2
Trần Khoa Trinh, Đúc lại trống đồng Ngọc Lũ, Khảo cổ học số 2-1977: Đúc thành công trống đồng Ngọc Lũ, Khảo
cổ học số 3-1978.
1



Mây tìm thấy công cụ sắt, cũng nằm dưới chân thành Cổ Loa. Không còn nghi ngờ gì nữa,
vào cuối thời Hùng Vương nghề luyện sắt đã ra đời và câu chuyện huyền thoại về ngựa sắt,
nón sắt, roi sắt của người anh hùng làng Dóng rõ ràng có cốt lõi lịch sử của nó.
Những hiện vật sắt tìm thấy có hàm lượng sắt rất cao và trên nhiều hiện vật còn có dấu
vết rèn. Những hiện vật ấy được chế tạo bằng sắt luyện từ quặng và bằng phương pháp rèn.
Nước ta có nhiều quặng sắt, phân bố rộng rãi ở nhiều nơi. Cư dân cuối thời Hùng vương hẳn
đã biết khai thác một số mỏ sắt đó.
Một phương pháp luyện sắt cổ xưa là phương pháp hoàn nguyên. Nguyên tắc cơ bản
của phương pháp này là dùng độ nóng và khí CO của than củi lúc cháy để khử oxy của
quặng sắt, làm cho sắt được hoàn nguyên theo phản ứng hóa học tổng quát sau :
FE2O3 + 3CO → 2Fe +3CO2
Những lò luyện sắt này dùng than củi để đốt và chỉ cần đạt nhiệt độ trong khoảng
250 C – 8000C. Sắt hoàn nguyên là một thứ sắt xốp, cần được nung đỏ và rèn đập nhiều lần
mới trở nên rắn chắc, thành những thỏi sắt chín. Từ những thỏi sắt chín, người thợ rèn này
được bảo tồn lâu dài trong lịch sử nghề luyện sắt cổ truyền nước ta. Làng sắt Nho Lâm (Diễn
Châu, Nghệ Tónh) cho đến nay, vẫn dùng phương pháp này để luyện quặng thành sắt trong
những lò nhỏ đắp bằng đất, đốt bằng than củi và thổi bằng ống bễ. Ở đây, cứ 100 kg quặng
sắt và 100 kg than củi, sau 4 giờ thu được 30 kg sắt xốp.
0

Một chiếc rìu sắt tìm được trong một ngôi mộ ở Đông Sơn, còn mang rõ đường chỉ đúc,
chứng tỏ hiện vật được đúc bằng khuôn hai mang. Như vậy, bên cạnh phương pháp rèn, vào
cuối thời Hùng Vương có thể đã xuất hiện phương pháp đúc gang. Quặng sắt được nấu chảy
thành một thứ sắt có hàm lượng các-bon cao tức là gang, với nhiệt độ nóng chảy khoảng
1.1500C. Người thời Hùng Vương có thể xây những lò nấu đồng đạt nhiệt độ 1.4000C, thì
hoàn toàn có khả năng nấu gang và đúc gang.
Nhìn lại một cách tổng quát, trong khoảng 2.000 năm TCN, nền kinh tế thời Hùng
Vương đã trải qua những bước phát triển lớn lao. Từ nền kinh tế mang dáng dấp nguyên thủy
với công cụ bằng đá còn phổ biến của giai đoạn đầu đã phát triển thành một nền kinh tế đa
dạng, phong phú với những công cụ bằng đồng thau, bằng sắt, lấy nông nghiệp trồng lúa

làm cơ sở, vào giai đoạn cuối. Bản thân nền nông nghiệp trồng lúa nước cũng chuyển biến
mạnh mẽ từ nông nghiệp dùng cuốc lên nông nghiệp dùng cây với lưỡi cày bằng kim loại và
sức kéo của gia súc. Cùng với quá trình phát triển kinh tế đó là quá trình con người từ vùng
đồi núi, vùng trung du và vùng cao của đồng bằng, tràn xuống khai phá và chiếm lónh vùng
đồng bằng rộng lớn của sông Hồng, sông Mã, sông Cả, làm thay đổi cảnh quan địa lý vùng
Châu Thổ và tạo ra một cục diện mới của cuộc sống văn minh nông nghiệp.
- Trống đồng Ngọc Lũ
Theo ông Vũ Thắng trống đồng trên thế giới chia thành 4 nhóm. Nhóm 1, Việt Nam có
4 cái tìm thấy ở Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Khai Hóa.


Trống đồng Ngọc Lũ cao 0,63m đường kính rộng 79cm. Trên mặt trống có trang trí có
trang trí hình người, động vật, nhà cửa, các loại hoa văn hình học, hình chữ S, hình răng lược
.... giữa mặt trống có hình mặt trời gồm 14 tia. Cấu tạo mặt trống đồng có 12 vòng đồng tâm.
Đáng chú ý là các vòng số 8, 6, 4.
+ Vòng số 8 trang trí chim, cá.
+ Vòng số 6 trang trí hươu, chim
+ Vòng số 4 là cảnh sinh hoạt của con người.
Qua mặt trống đồng Ngọc Lũ chúng ta nhận thấy quan niệm về vũ trụ, về sự sống của
con người, về sinh hoạt của muôn loài, sinh hoạt nghệ thuật của người xưa. Đặc biệt là quan
niệm thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp là sự hài hóa, sự cân đối là một quan niệm khá tiến bộ.
Kỹ thuật chế tạo rất đa dạng tạo nhiều hình dáng, kiểu dạng khác nhau. Ý thức về kiểu
dáng thể hiện trình độ thẩm mỹ của người xưa.

PHẦN ĐỌC THÊM :
Trống đồng là một trong những biểu tượng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam, văn hóa
Việt Nam. Nói tới Việt Nam, đất nước có lịch sử lâu đời là nói tới đất nước có 4.000 năm lịch
sử, đất nước của “con rồng, cháu tiên”, đất nước của trống đồng.
Trống đồng là hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn – một nền văn hóa đặc sắc
thuộc thời đại kim khí của người Việt cổ xuất hiện vào khoảng thiên nhiên kỷ thứ nhất TCN.

Trống đồng có nhiều loại, nhưng độc đáo hơn cả là trống đồng Ngọc Lũ được phát hiện vào
năm 1893 tại xã Như Trác, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà bên hữu ngạn sông Hồng. Ngày
15/12/1902, trống được đem từ nơi thờ là đình làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Lý Nhân, Nam
Hà về Hà Nội trưng bày tại nhà đấu xảo, sau đó được Trường Viễn Đông bác cổ mua lại và
hiện đang được trưng bày tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam mang ký hiệu hiện vật quý LSb
5.722 (1.1036).
Trống đồng Ngọc Lũ có đường kính mặt trống là 79cm, cao 63 cm. Thân trống cao, cân
đối, bốn chiếc quai có trang trí vân thừng bện. Mặt trống có hình ngôi sao 14 tia, xen giữa
các tia (cánh sao) có hình lông công nằm chính giữa. Kể từ tâm ra ngoài có 16 vành hoa văn
trang trí. Đó là những chấm dãi, vòng tròn có tiếp tuyến, là những cảnh lễ hội với những đoàn
người và thú đang diễu hành, là những ngôi sàn mái cong hình dáng như những con thuyền.
Những cặp hươu và những đôi chim lạ được thể hiện tinh tế và sống động trên mặt trống là
nhiều hơn cả. Đó là loài hươu có sừng dài, cổ và thân lấm tấm như loài hươu sao, là những
đôi chim loài to, mỏ quặp, đuôi ngắn mắt tròn. Đó còn là những loài chim lạ khác mỏ dài có
mào, mình gầy như loài cò, loài sếu, con đậu con bay mà ta quen gọi là loài lạc.
Phần tang của trống đồng Ngọc Lũ là những hình thuyền, đầu và đuôi uốn cong lên.
Trên thuyền có những hình người đầu cắm lông chim đang gõ trống, bắn cung hoặc cầm


giáo, cầm rìu. Đây đó trên thuyền, ngoài những chiến trống đồng bình đồng. Đó là điều hiếm
thấy ở các trống đồng Đông Sơn khác. Cái độc đáo của trống đồng Ngọc Lũ chính là đặc
điểm này (trên trống đồng Ngọc Lũ có hình 15 chiếc trống đồng).
Lưng trống đồng Ngọc Lũ là bộ phận cũng được trang trí những băng hoa văn hình học
rất đẹp, những chấm dài vạch chéo song song, vòng tròn giữa có tiếp tuyến bố trí đối xứng
đôi một. Những băng hoa văn hình học chia thân trống làm sáu ô hình chữ nhật bằng nhau.
Trong mỗi ô có hai hình người hóa trang, một tay cầm mộc một tay cầm rìu như một chiến
binh vừa thắng trận trở về vừa đi vừa múa. Các loại rìu trên tay họ là rìu xéo gót.
Từ khi trống đồng Ngọc Lũ được phát hiện đến nay, một trăm năm đã đi qua và trống
đồng vẫn được bảo quản một cách trân trọng và cẩn thận, nguyên vẹn mặc dù do thời gian,
bên ngoài mặt trống đã phủ một lớp patin màu xanh xám, dấu tích của thời gian, năm tháng.

Trống đồng Ngọc Lũ là hiện vật lịch sử quý, có rất nhiều giá trị nên đã trở thành đối
tượng nghiên cứu của các nhà khảo cổ trong và ngoài nước. Đáng chú ý là công trình Trống
Đồng Cổ của H.Parmentie (BEFFEO, T, XVIII, Hà Nội 1918) về nguồn gốc và sự phân bổ
các trống kim khí của V.Gouloubew (Tiền sử học Viễn đông (tiếp Pháp) – Hà Nội – 1932),
VĂN HÓA ĐỒ ĐỒNG và TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT của Đào Duy Anh (Hà Nội, 1957),
TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN của Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Sinh (KHXH,
1987) và mới nhất là công trình Đông Sơn DRUMP IN VIỆT NAM (KHXH, 1990).
Trống đồng Ngọc Lũ là chiếc trồng đồng cổ thuộc loại I theo cách phân loại của nhà
khoa học người o tên là Ph.Hê-gơ năm 1902. Trống có kích lớn, hình dáng cân đối, cổ kính,
có hoa văn phong phú nhất so với 224 chiếc trống đồng loại I Hê-gơ đã phát hiện tại Việt
Nam (tính đến năm 1987) các loại hoa văn trên trống này tương đồng với nhiều hoa văn
trang trí trên các di vật đồ đồng cổ như thạp, thố, rìu, giáo, vòng tay, tấm che ngực của văn
hóa Đông Sơn.
Trống đồng Ngọc Lũ còn là tác phẩm tiêu biểu chứng minh kỹ thuật đúc đồng tuyệt vời
của dân cư Việt cổ, thể hiện ở độ mỏng đều, hoa tiết hoa văn trang trí tinh tế. Đây là chiếc
trống đồng đẹp nhất trong các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam, thể hiện tài năng và sự
khéo léo của đôi bàn tay người thợ thủ công Việt Nam từ thời đại các vua Hùng.
Trống đồng Ngọc Lũ là báo vật của quốc gia nên việc tiến hành đúc các phiên bản phổ
biến là việc làm rất cần thiết, dẫu rằng công việc đòi hỏi phải kỳ công và tốn kém không ít.
Năm 1964, viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành việc đúc phiên bản trống Ngọc Lũ
nhưng phải cho đúc bốn lần vẫn không thành công. Mãi đến năm 1975, những người thợ thủ
công tài ba nhất ở lò đúc đồng Ngũ Xã (Hà Nội) do nghệ nhân lừng danh Dương Văn Túp
phụ trách, bằng phương pháp đúc đồng cổ truyền mới đúc thành công.
Phiên bản trống đồng Ngọc Lũ do các nghệ nhân làng Ngũ Xã đã đạt các yêu cầu về
kiểu dáng hoa văn rõ đều, patin tương đồng với hiện vật gốc và được các chuyên gia đầu
ngành về khảo cổ học đánh giá cao.
Và vào những ngày đầu mùa thu vừa qua, phiên bản trống đồng Ngọc Lũ nói trên đã
được tuyển chọn làm quà tặng của nước CHXHCN Việt Nam trao cho Tổ chức Liên Hiệp
Quốc nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập tổ chức quốc tế lớn nhất này. Chỉ còn ít ngaøy



×