Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHẬT GIÁO bắc NINH và CHÙA bút THÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.84 KB, 29 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẬT GIÁO BẮC NINH VÀ
CHÙA BÚT THÁP

Một số nét cơ bản về Phật giáo Bắc Ninh
Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Bắc
Ninh
Sự hình thành và phát triển trung tâm Phật giáo Luy Lâu
là cơ sở đánh giá nhiều mặt sinh hoạt Phật giáo trong chiều
dài 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam. Thời Đơng Hán có
ba trung tâm Phật giáo lớn nổi lên gồm Luy Lâu (thuộc Thuận
Thành, Bắc Ninh), Bành Thành (thuộc Giang Tô, Trung Quốc)
và Lạc Dương (thuộc Hà Nam, Trung Quốc). Trong đó, trung
tâm Luy Lâu tại Giao Chỉ được hình thành sớm nhất với 15 bộ
kinh, 20 chùa tháp, 500 tăng sư. Trung tâm này đã thể hiện quá
trình du nhập Phật giáo vào nước ta ngày một sâu rộng.


Vào những thế kỷ I - III, Luy Lâu phát triển mạnh về kinh
tế - văn hóa của Giao Chỉ, là nơi gặp gỡ của nhiều luồng tư
tưởng, điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Phật giáo thâm
nhập vào cuộc sống nhân dân. Phật giáo được truyền bá tới
Giao Chỉ thông qua đường bộ và đường thủy với công lao thuộc
về các tăng sĩ, thương nhân người Ấn Độ, Trung Á và Trung
Quốc. Đây cũng là thời điểm phát triển nở rộ nhất của Phật giáo
Giao Châu lúc bấy giờ. Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ
nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành
Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong các chuyện dân gian. Phật
giáo vào thời điểm đó mang màu sắc Phật giáo Tiểu Thừa, Bụt
được coi như là một vị thần luôn cứu người tốt, trừng phạt kẻ
xấu. Sau này vào thế kỷ IV - V, do ảnh hưởng của Phật giáo Đại
Thừa đến từ Trung Quốc mà từ Bụt mất dần đi và thay vào đó là


từ Phật. Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào tiềm thức người dân Việt
Nam nói chung cũng như người Kinh Bắc nói riêng từ rất sớm.
Thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh và được
coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Đến thời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và
Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đầu thế kỷ XVIII, vua


Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây dựng
chùa nhưng vì ơng mất sớm nên việc này khơng có nhiều kết
quả.
Đến thế kỷ XX, mặc dù ảnh hưởng mạnh của q trình
Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu
từ các đô thị miền Nam với sự đóng góp quan trọng của các
nhà Sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu. Đạo Phật sau khi truyền
bá vào Trung Quốc đã được hình thành và phát triển theo các
tơng phái khác nhau và cũng theo đó truyền bá vào Việt Nam
trong đó nổi bật là sự tác động của ba tông phái lớn: Thiền
Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông.
Như vậy, Phật giáo đến nước ta từ rất sớm và khởi
nguyên tại Luy Lâu. Nó đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển,
đặc biệt dưới thời Lý - Trần. Việt Nam có dịng Thiền Tơng
riêng biệt với sự hợp nhất các thiền phái của Phật Hoàng Trần
Nhân Tơng để hình thành thiền phái Trúc Lâm. Quan trọng
nhất, Phật giáo đóng vai trị quan trọng trong việc đem lại giá
trị đạo đức xã hội trong suốt thời gian tồn tại ở nước ta. Ngồi
ra, Phật giáo góp phần khơng nhỏ trong các giá trị văn hóa


ngày nay như các cơng trình điêu khắc mang đậm nét truyền

thống, các cơng trình kiến trúc có tính thẩm mỹ cao và còn tác
động vào nếp sống, giáo dục nhân cách con người.
Đặc điểm của Phật giáo Bắc Ninh
Bắc Ninh - Kinh Bắc gọi là cái nôi của Phật giáo Việt
Nam, vì nơi đây đã ra đời và tồn tại những trung tâm văn hóa
Phật giáo lớn, cổ xưa nhất là Luy Lâu. Tại đây có rất nhiều
chùa như chùa Vĩnh Nghiêm, Ninh Phúc tự… Luy Lâu nằm ở
vùng Dâu (nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành,
Bắc Ninh) là thủ phủ của quận Giao Chỉ từ năm 111 đến 106
trước cơng ngun. Đây là trung tâm chính trị, kinh tế, thương
mại và cũng là trung tâm văn hóa, tôn giáo lớn của nước Việt
Nam thời Bắc thuộc.
Theo các nguồn tư liệu, các nước phương Tây và
phương Nam muốn buôn bán giao thiệp với Trung Quốc đều
phải theo con đường Giao Chỉ. Từ trước công nguyên và nhất
là từ thế kỷ II - III trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân
nước ngồi đến bn bán ở Giao Châu và thuyền bn của họ
thường xun có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất


và các nguồn dữ liệu ở Luy Lâu đã khẳng định tại đây thực sự
từng là trung tâm thương mại lớn và là một đơ thị cảng mang
tính quốc tế của nước ta. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn
hóa Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào Việt Nam.
Đây là nơi đầu tiên Sĩ Nhiếp mở trường lớp dạy chữ và văn
hóa Hán. Hệ thống di tích, chùa tháp quy tụ ở đây với trung
tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng
pháp, bia ký, bản khắc Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ
lục và lễ hội chùa Dâu với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ
Pháp, rước nước đã cho thấy Luy Lâu là trung tâm Phật giáo

lớn và sớm nhất Việt Nam. Luy Lâu là khơng gian điển hình
đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hóa
Việt Nam cổ với văn hóa Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn
hóa Nho Lão để rồi sinh thành bản sắc văn hóa Kinh Việt.
Các nhà nghiên cứu như Nguyễn Quang Khải - nguyên
Trưởng ban Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh, đã cho rằng, sở dĩ Phật
giáo được du nhập đầu tiên vào vùng Dâu, Thuận Thành, là
do nơi đây có một số điều kiện thuận lợi. Đó là: Về mặt giao
thơng, vùng Luy Lâu có con sông Dâu (nay đã chết) là một
chi lưu của sông Cái (sông Hồng), vừa sâu vừa rộng, đổ nước


ra biển Đơng. Lịng sơng khơng có ghềnh thác, khơng có bãi
cát nổi, nên rất thuận tiện cho việc đi lại của thuyền bè. Về
mặt kinh tế - xã hội, thời kỳ đó Luy Lâu là thủ phủ của đế chế
Hán, nên có mật độ dân cư đơng đúc, bn bán rất nhộn nhịp.
Mặt khác, người đứng đầu xứ Giao châu thời ấy là Sỹ Nhiếp một trí thức thơng hiểu sâu sắc cả Nho, Lão và rất có cảm tình
với đạo Phật. Sách Hậu Hán thư chép rằng, mỗi khi vương
(chỉ Sỹ Nhiếp) ra khỏi thành, có đến hàng chục người Hồ đi
theo (người Hồ tức là các tăng sĩ Ấn Độ). Về mặt tín ngưỡng
dân gian, ở vùng Dâu là tín ngưỡng của cư dân nơng nghiệp,
vốn coi trọng thờ các thần tự nhiên như thần Mây, thần Mưa,
thần Sấm, thần Chớp, thần thổ công, thổ địa. Đồng thời, họ
cũng thờ ơng bà tổ tiên và có cả tín ngưỡng thờ đá, tín ngưỡng
phồn thực. Những tín ngưỡng này rất phù hợp với tín ngưỡng
thờ cúng của đạo Phật. Với những điều kiện thuận lợi như vậy
nên các tăng sĩ Ấn Độ, trên đường đi truyền bá Phật pháp đã
thấy Luy Lâu là nơi đất lành để có thể thực hiện được sứ
mệnh truyền giáo của mình.
Bắc Ninh vốn tự hào là quê hương của chùa tháp, đền

đài, của lễ hội và sinh hoạt văn hoá dân gian nổi tiếng. Nét nổi


bật trong truyền thống văn hiến của người Kinh Bắc là truyền
thống hiếu học và khoa bảng. Suốt hơn 800 năm khoa cử chữ
Hán dưới thời phong kiến, Bắc Ninh đã sản sinh ra hơn 600 vị
tiến sỹ. Trong đó, nhiều vị đã trở thành các nhân vật lịch sử,
danh nhân văn hoá của đất nước, dân tộc như Lê Văn Thịnh,
Nguyễn Gia Thiều, Dương Tử Do, Nguyễn Đăng Đạo,
Nguyễn Cơng Hoan, Nguyễn Cao... Họ khơng chỉ là những
nhà chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn là những nhà văn,
nhà thơ tiêu biểu cho nền văn hiến Kinh Bắc nói riêng và của
Việt Nam nói chung. Những ngơi chùa ở Bắc Ninh có đặc
điểm là quy mơ rất to lớn, cổ kính và kiến trúc tạo tác rất cơng
phu, tài nghệ như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa
Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp... Đây là những cơng trình
kiến trúc, điêu khắc có giá trị lịch sử và giá trị văn hóa vơ giá
của Bắc Ninh và của dân tộc Việt Nam. Tất cả đều xứng danh
là những danh lam cổ tự nổi tiếng, những di sản kiến trúc tiêu
biểu của dân tộc, rất cần được bảo quản trùng tu, tôn tạo.
Ngay từ khi Phật giáo được truyền bá vào nước ta, tư
tưởng và các hình mẫu đại diện cho nhà Phật căn bản đều là
hình tượng nam và kể cả Phật Quan Âm cũng là nam, sang


Trung Quốc và Việt Nam mới “nữ hóa” đi. Nước ta có tục thờ
các bà mẹ gọi là thờ Mẫu, nếu khơng kể Tứ pháp thì chúng ta
đã có tín ngưỡng thờ Mẫu như Mẫu Thượng Thiên, Mẫu
Thượng Ngàn, Mẫu Thủy Cung, đó là tam tịa thánh Mẫu.
Phật giáo Ấn Độ nhập vào tín ngưỡng bản địa mà có sự phân

hóa: Thánh Mẫu Thượng Thiên nhập vào Quan Âm Thị Giả
hay Quan Âm Vô Úy, Thánh Mẫu Thượng Ngàn thành Quan
Âm Tọa Sơn, Thánh Mẫu Thủy Cung thành Quan Âm Nam
Hải… Nó cộng hình tượng nam với hình tượng nữ, Phật cộng
với Man Nương ra hình tượng Phật Mẫu Man Nương. Đó là
dấu ấn bản địa, dấu ấn của một giai đoạn mẫu hệ còn tồn tại.
Cho đến bây giờ, vẻ đẹp của tượng Phật Việt Nam vẫn là vẻ đẹp
nữ, chứ không phải vẻ đẹp nam. Nhất là những tượng Phật ở
chùa Dâu, rất nữ tính, đơi tay đẹp gợi cảm. Phật giáo Trung
Quốc tuy sang sau nhưng là một hệ thống, cùng với cả bộ
máy cai trị của chính quyền phong kiến Trung Quốc. Tính hệ
thống của tổ chức chính quyền đơ hộ phong kiến Trung Quốc
thời kỳ đó có vai trị quan trọng trong việc phát triển Phật giáo
Trung Hoa tại Việt Nam.


Chúng ta thấy rằng, khi Phật giáo Trung Quốc chưa
sang đến Việt Nam thì dấu ấn Phật giáo Ấn Độ vẫn là chính,
là mạnh. Chính quyền đơ hộ là chính quyền Trung Quốc mà
Phật giáo Ấn Độ du nhập với tín ngưỡng bản địa Việt Nam.
Xã hội chính quyền phong kiến lấy Nho giáo làm căn bản, Sỹ
Nhiếp cũng chỉ dạy đạo Nho. Khi đến các vùng đất khác
nhau và truyền bá tư tưởng của học thuyết Phật giáo thì
người dân không hiểu. Cho nên những người truyền đạo quy
ước cứ gọi Phật là một ông thần. Khi ấy, cái vỏ bên ngoài của
Phật giáo Việt nam buộc phải nằm dưới cái vỏ của tín
ngưỡng. Sau này, nó lại hồ trộn giữa tam giáo: Nho - Lão Phật và cộng thêm tín ngưỡng dân gian. Đi theo đạo Phật gọi
là tu, tu tức là học, học tức là nhận thức, giống như Phật giáo
thời Trần, nhận thức, chứ Phật không phải là thần có tay có
mắt để cứu nhân độ thế. Sự giác ngộ là giác ngộ của bản

thể. Đối với nhân dân, nói như thế thì người ta khơng hiểu,
họ cứ coi Phật là một vị thần, khi nào khó khăn thì cầu thần
khấn phật giúp đỡ phù hộ. Phật bảo rằng, Ngài chỉ là ngọn
đuốc dẫn đường, còn đi thế nào là do mỗi người tự đi. Cũng
theo đó mà hệ thống các ngơi chùa ở Luy Lâu được sắp xếp


dựa trên những yếu tố tâm linh Chùa Man Nương quay về
hướng Nam. Bốn chùa con (chùa Tứ pháp) đều quay về
hướng chùa tổ, hướng Tây, chầu về hướng mẹ. Điều này là
đặc trưng riêng của Phật giáo Luy lâu. Tín ngưỡng Tứ pháp
là một vùng rất rộng, kéo dài từ huyện Gia Lâm (chùa Ninh
Hiệp, chùa Nành cũng thờ Pháp Vân), qua sông Đuống sang
bên này là huyện Mỹ Văn (Hưng Yên), qua con sông Hồng
sang bên kia là Thường Tín, kéo lên tận Giáp Bát bây giờ
cũng có chùa Pháp Vân. Tín ngưỡng ấy được trải dài, liền
nhau qua ba, bốn tỉnh. Gia Lâm ngày xưa cũng thuộc về Bắc
Ninh, cũng nằm trong huyện Siêu Loại, mà Luy Lâu là thủ
phủ của huyện Siêu Loại. Qua đó, ta thấy được sự truyền bá
rộng rãi của đạo Phật hay là tín ngưỡng của một vùng lãnh
thổ bản địa xứ Luy Lâu.
Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên là một vùng rộng, vì người
dân trơng lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ nên họ phải thờ các
hiện tượng tự nhiên. Thời Trần, Mạc Đĩnh Chi cho xây tháp
giống như tháp Đại Nhạn của Trần Huyền Trang (tháp Đại
Nhàn nguyên là nơi chứa Kinh). Hết thời Trần, đạo Phật suy
vong. Nhà Lê (vua Lê Thái Tổ) ra đạo luật hạn chế sư sãi, yêu


cầu tổ chức thi cho các sư và chỉ những người trên 50 tuổi

mới được thi. Những người còn lại phải trở về làng, trở về
cuộc sống thường ngày, tham gia cày cấy. Những nhà sư này
về làng đã tiếp tục truyền bá đạo Phật vào dân gian và như thế
đạo Phật mới có cơ hội phát triển vào trong dân gian. Mặt
khác, đến thế kỷ XIX, con sông Dâu bị cạn, sông Tiêu Tương
và sông Dâu biến thành hai con sơng chết. Điều này cũng có
ngun do của nó. Thuở đó, sơng Dâu và sơng Tiêu Tương
chảy theo hướng Bắc - Nam, hướng có độ dốc lớn, thường gây
ra lũ do lượng nước dồn về nhanh. Cả vùng Dâu - Keo, Đình
Bảng ngày xưa đều thường xun có lụt. Người dân Kinh Bắc
mới khơi con sông Thiên Đức (sông Đuống bây giờ) theo
hướng Tây - Đông để chia nước sơng Hồng. Khi đó, con sơng
Thiên Đức cũng chỉ là một con sông nhỏ, người dân bắc cầu
tre đi qua được. Đình làng Đơng Hồ ngun là bên kia sơng,
khi khơi sông mới di về bên này. Người ta làm chết hai con
sông kia đi, nuôi con sông Thiên Đức lớn lên cắt Bắc Ninh ra
làm hai phần: phần nam Bắc Ninh (gồm bốn huyện Gia Lâm,
Thuận Thành, Gia Bình, Lang Tài); phần bắc Bắc Ninh (gồm
ba huyện: Quế Võ, Tiên Du và Yên Phong). Có thể nói, sự có


mặt của con sông Thiên Đức cùng với sự biến mất của con
sông Dâu và sông Tiêu Tương là thời điểm đánh dấu vai trò
của trung tâm Phật giáo Luy Lâu mất dần. Nhưng thực tế, thời
điểm chính quyền đơ hộ chuyển từ Luy Lâu về Thăng Long
(thế kỷ thứ V - VI), vai trị kinh tế, chính trị của Luy Lâu đã
giảm dần, theo đó vai trị truyền bá về mặt học thuật của Luy
Lâu cũng giảm. Đến thời Lý, trung tâm Phật giáo nằm ở phía
Bắc (Chùa Phật Tích và chùa Dạm) bên Tiên Du và Quế Võ.
Thế kỷ XVII, vai trò Phật giáo lại thuộc về Bút Tháp - một

ngơi chùa gần đó. Khi sơng Dâu bị lấp, giao thơng đường thuỷ
khơng cịn nữa. Đến thế kỷ XVII, người ta về Bút Tháp, về
vùng Dâu vẫn đi bằng đường thuỷ, bằng thuyền. Dấu ấn còn
lại của con sông Dâu bây giờ, chỉ là những cái ao dài cịn sót
lại ở các làng Bút Tháp, làng Tư Thế và đoạn sông chạy từ
Dâu đến chợ Nôm.
Như vậy, Phật giáo ở Bắc Ninh từ xưa đến nay đã phát
huy được truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Nơi đây
đã tạo nên những con người chẳng những lỗi lạc về kinh điển,
uyên bác về biện luận mà còn tài hoa về sáng tác văn chương
cho việc truyền giáo của mình. Vì vậy, chúng ta cần nhấn


mạnh triết lý nhân sinh trong cuộc sống của dân ta, kế thừa và
gìn giữ những giá trị quý báu do ông cha ta để lại cho dân tộc.
Khái quát về chùa Bút Tháp
Sự hình thành và phát triển của chùa Bút Tháp
Chùa Bút Tháp là một trong những chùa cổ nhất ở đất
Kinh Bắc xưa. Chùa vẫn giữ được vẻ đẹp thăng biến của bao
đời, chùa cổ uy nghiêm và tĩnh lặng trong khơng gian văn hóa
đất Bắc. Bút tháp với sự huy hồng của cái nơi Phật giáo dòng
Lâm tế xuất phát thời Lê tạo thành nguồn đạo giáo thâm sâu
trong tâm thức dân tộc. Chùa cổ dấu xưa đến nay đã trải qua
mấy trăm năm hương tích vẫn còn với thời gian mà lịch sử
vẫn còn điều chưa thấu rõ. Đến với của Phật nơi này, ta khơng
cịn ngạc nhiên trước cảnh thiên nhiên thơ mộng thực mà như
mơ với bao huyền thoại về một xứ sở của vùng Dâu Kinh
Bắc.
Chùa Bút Tháp có tên chữ là Ninh Phúc tự (寧寧寧), tọa lạc
trong khuôn viên rộng hơn 10.000 m2 bên bờ Nam con sơng

Đuống thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh,
cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 25 km. Trải qua mấy


trăm năm nhưng chùa Bút tháp vẫn giữ được vẻ đẹp trong sự
thăng biến của bao đời.
“Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng rờn bóng cau.
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đậm màu nước non [24,
tr.105].”
Đây là một trong không nhiều ngôi chùa cổ có quy mơ
lớn ở đồng bằng Bắc Bộ cịn lại đến ngày nay và được bảo tồn
khá nguyên vẹn. Chùa có kiến trúc tổng thể độc đáo với bố
cục gọn gàng, chặt chẽ, sinh động và là khuôn mẫu về sự kết
hợp hài hòa giữa những kiến trúc gạch, gỗ, đá của sự hịa
nhập giữa kiến trúc và mơi trường thiên nhiên bao quanh.
Tồn bộ kiến trúc ngơi chùa đều quay theo hướng Nam - một
hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo Phật, hướng
Nam là hướng của Bát Nhã (trí tuệ), nhờ có trí tuệ chúng sinh
mới đến bên bờ giải thốt Niết bàn.
Mặc dù là một ngơi chùa cổ và rất nổi tiếng của xứ Kinh
Bắc nhưng mốc chính xác của năm khởi dựng Ninh Phúc tự thì
chưa có bất cứ một tài liệu nào đề cập cũng như lưu lại. Theo
sách Bắc Ninh phong thổ tạp kí thì chùa có từ đời vua Trần
Thánh Tơng (1258 - 1278). Thiền sư Huyền Quang (Đệ tam Tổ
thiền phái Trúc Lâm) đã từng trụ trì ở đây. Ơng cho dựng ngọn


tháp đá cao chín tầng có trang trí hình hoa sen nhưng ngọn

tháp này nay khơng cịn nữa. Tuy nhiên, sách được ghi chép
vào thời Nguyễn nên cứ liệu trên chỉ là giả thuyết để nhận
định lịch sử về ngôi chùa mà thôi. Thiền sư Huyền Quang
(Lý Đạo Tái) sinh năm 1254, quê ở làng Vạn Tư, huyện Gia
Định, đỗ Trạng nguyên năm 1274 - ông cáo quan về chàu
Bút Tháp tu hành và mất năm 1333. Nếu theo tài liệu trên thì
ngơi chùa đã có từ thế kỷ XIII hoặc thế kỷ XIV, nhận định
này cũng tương tự như Bắc Ninh phong thổ tạp kí. Như vậy,
chùa Bút Tháp đã có lịch sử từ thời Trần và một khoảng thời
gian dài khơng có sử sách nào ghi chép về diễn biến của ngôi
chùa cho đến sau này khi chùa được vua chúa nhà Lê - Trịnh
tu sửa vào đầu thế kỷ XVII.
Khoảng năm 1631 - 1632, thiền sư Chuyết Chuyết
đang đi khất thực ở Đàng Trong thì gặp Minh Hành, Sư
thầy này khác lạ nên rất yêu quý liền nhận làm đệ tử và
truyền thụ cho tâm pháp bất nhị. Bấy giờ, có Nguyễn Tề một thương nhân lớn ở kinh thành Đông Đô (tức thành
Thăng Long) của Đại Việt, thỉnh Sư ra kinh thành làm lễ
cầu siêu cho cha mẹ. Sau rằm tháng giêng năm Qúy Mão


(1633) thầy trị Chuyết Chuyết khởi hành, dọc đường đồn
dừng chân hoằng đạo tại chùa Thiên Tượng (Hà Tĩnh) và
chùa Trạch Lâm (Thanh Hóa). Khoảng tháng sáu năm ấy họ
đã ra đến Đông Đô. Không may Nguyễn Tề mắc tội, bị bắt
giam, đồn phải đi khất thực và sau đó, đồn gặp được Đại
thí chủ Trần Thị Ngọc Am trước là phi tần trong phủ chúa
Trịnh Tráng. Bà vốn là người mến mộ Phật pháp nên đã xin
được học đạo với Sư và cho ba người con gái quy y. Không
lâu sau, Dũng Lễ công Trịnh Khải hâm mộ Thiền học của
Sư đã đưa cả đoàn về phủ học đạo và về giảng đạo tại chùa

Khán Sơn trong thành Thăng Long. Tiếng lành đồn xa,
người tìm đến học đạo ngày càng thêm đông, chùa Khán
Sơn không đủ sức chứa. Năm 1634, Dũng Lễ công và tứ
chúng vân tập đã đưa Chuyết Chuyết về chùa Phật Tích
mới được trùng tu bởi bà Trần Thị Ngọc Am. Từ đó, khắp
vùng trong cả nước đạo Phật được truyền bá rộng rãi, đông
đảo người dân theo học và đạt tới giác ngộ.
Năm 1640, Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và con gái
Lê Thị Ngọc Duyên xuất gia làm đệ tử thiền sư Chuyết
Chuyết ở chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm


1641, trong một lần đi vãn cảnh ở xã Đình Tổ, thấy ngôi danh
lam chùa cổ của thôn Nhạn Tháp xơ xác tiêu điều, Hồng hậu
hết sức đau lịng và liền về kinh xin chồng (vua Trần Thần
Tông) và cha (chúa Trịnh Tráng) cho phép hồng gia đứng ra
hưng cơng chùa. Ngày lành giữa mùa Hè năm Nhâm Ngọ
(1642) niên hiệu Dương Hịa thứ 8, vua Trần Thần Tơng
xuống sắc cho xây dựng chùa Ninh Phúc. Cuối năm đó xây
xong Thiêu hương và Thượng điện, triều đình ban cho Đại tự
treo ở hai nơi này. Năm 1643, Chuyết Chuyết thiền sư đang
trụ trì chùa Phật Tích được triều đình thỉnh sang trụ trì và điều
hành việc hưng cơng ngơi chùa ở thơn Nhạn Tháp. Chùa đang
xây dựng thì năm 1644 Tổ Chuyết Chuyết về Tây Trúc, thiền
sư Minh Hành kế đăng trụ trị thay thầy tiếp tục chỉ đạo xây
dựng Ninh Phúc tự. Năm Bính Tuất (1646) Hồng thái hậu
Trịnh Thị Ngọc Trúc và con gái Ngọc Duyên đã xin chúa
Trịnh xuống lệnh chỉ hỗ trợ tịnh tài, rộng lộc cho việc hưng
công chùa. Nhờ sự giúp đỡ to lớn về vật chất và tinh thần của
hoàng gia và sự chỉ đạo sát sao của thiền sư Minh Hành, năm

1647, việc xây dựng lại chùa đã hoàn tất và được đặt tên là
Ninh Phúc Thiên tự - chùa Ninh Phúc.


Chùa đã được tu bổ một số lần và xây tháp trong thế kỷ
XVIII. Đầu thời Nguyễn (thế kỷ XIX), sau một thời gian
chiến tranh đất nước trở về sự ổn định và nhân dân yên ổn
làm ăn, nhu cầu tâm linh của họ được chú trọng. Trải qua
hơn một nửa thế kỷ chịu tác động của binh lửa và thời tiết,
diện mạo chùa xưa nay đã tiêu điều, chuông cũ tiếng vang
khơng cịn được như xưa, dân tình và các quan viên hương
lão đã họp bàn đúc lại chuông (năm 1815). Sang thế kỷ XX,
Tổng đốc Ninh - Thái là Hoàng Trọng Phu đi qua vùng
Thuận Thành thấy chùa hoang vắng tàn lụi nên bàn bạc cùng
quan lại thu thập tiền của mà trùng tu (từ ngày 1/10/1903
khởi công tu sửa chữa, tới ngày 15/3/1904 thì hồn thành).
Năm 1921, người Pháp thành lập Ủy ban Danh thắng,
nó có chức năng tư vấn cho Tồn quyền Đơng Dương
những vấn đề liên quan đến việc bảo tồn và khai thác danh
lam thắng cảnh cũng như di tích nghệ thuật trên tồn Đơng
Dương. Hoạt động của nó đặt dưới sự chỉ đạo của viên
Toàn quyền với sự tham gia của Sở Du lịch và Tuyên
truyền, Viện Viễn Đông Bác Cổ, Thanh tra Nông Lâm
Súc… Với sự giúp đỡ của Viện Viễn Đông Bác Cổ, dân


làng Bút Tháp đã tiến hành tu sửa một số hạng mục trong
chùa và từ đó trở đi chùa do Viện này trơng coi giữ gìn.
Ngay sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng
và Nhà nước đã hết sức quan tâm đến những di tích lớn của

nước ta, trong đó có chùa Bút Tháp nhằm bảo tồn và phát
huy những di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Năm 1958,
Vụ Bảo tồn bảo tàng Bộ Văn hóa đã kết hợp với chính
quyền và nhân dân địa phương tu bổ lại chùa. Năm 1962,
chùa là một trong 14 di tích được xếp hạng đầu tiên của
nước ta. Năm 1977, ngơi tháp Báo Nghiêm bị hư hỏng nặng
có nguy cơ đổ, Trung tâm phục chế Trung ương Bộ Văn
hóa đã cùng chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức
tu bổ phục hồi. Nhiều năm sau đó, được sự tài trợ của
Chính phủ Cộng hịa liên bang Đức và ngân sách của Nhà
nước, Trung tâm thiết kế tu bổ các cơng trình văn hóa đã
tiến hành tu sửa Gác chuông, Tiền đường, Thiêu hương,
Thượng điện, tháp Cửu phẩm Liên Hoa và xây dựng dãy
Hành lang. Năm 2015, chùa tiến hành trùng tu và tơn tạo
lại với sự đóng góp của tăng ni Phật tử địa phương.


Như vậy, trải qua khoảng 400 năm xây dựng, tồn tại và
phát triển, chùa Bút Tháp đã có hàng chục đời sư Tổ trụ trì
như thiền sư Huyền Quang, Chuyết Cơng Hịa thượng (thiền
sư Chuyết Chuyết), thiền sư Minh Hành… Có thể thấy rằng,
tuy đã nhiều lần tu bổ nhưng chùa Bút Tháp vẫn có quy mơ bề
thế so với những ngôi chùa vào thời nở rộ những kiến trúc
trăm gian thời đó và vẫn cịn ngun vẹn giá trị lịch sử của
mình.

Kiến trúc của chùa Bút Tháp
Sơ đồ về chùa Bút Tháp:
Tam quan
Gác chuông


Nhà tổ
Tháp Báo
Nghiêm

Hành lang
Hành lang
||
[ Tiền đường ]
||
[ Thiêu
||
||
Hương]
[Thượng
||
||
Điện ]
||
Cầu đá
||
||
Tích Thiện Am
||
||

Nhà Trung

||


Nhà bia
Nhà bia

Tháp mộ


Tháp mộ

||
||

Phủ Thờ
Hậu đường

||
||

ThápTâm Hoa Tháp Tôn Đức Tháp Ni Chân
Chùa Bút Tháp được tu sửa và mở rộng quy mô lớn vào
thời Hậu Lê - Nguyễn gần như giữ nguyên được mặt bằng kiến
trúc và điêu khắc đến ngày nay. Chùa được xây dựng theo kiểu
“nội công ngoại quốc” (寧) bố cục gọn gàng và sinh động, kiến
trúc hòa nhập với môi trường thiên nhiên bao quanh. Chùa
không vươn lên theo chiều cao mà các đơn nguyên kiến trúc
đều được trải dài theo mặt bằng. Kiến trúc của chùa được bố trí
cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm nhưng lại rất tự nhiên
ở khu vực chung quanh. Cùng kiến trúc trung tâm ở chùa Bút
Tháp bao gồm tám đơn nguyên chạy song hành được bố trí
đăng đối trên một đường thần đạo và được bao bọc bởi hai dãy
hành lang chạy suốt dọc chùa. Nhìn về hướng Nam, chùa gồm

chín lớp: Tam quan, Gác chng, Tiền đường, Thiêu Hương,
Thượng Điện, Tích Thiện am, Nhà Trung, Phủ Thờ, Hậu
đường và hai dãy Hành lang. Bên trái chùa, phía sau dãy hành
lang là Nhà tổ Đệ Nhất thờ vị Tổ chùa là thiền sư Chuyết
Chuyết. Hai bên và phía sau những cơng trình chính là vườn


chùa, nơi đây có những cây tháp cổ bằng đá cao vút, trong đó
nổi bật là Tháp Báo Nghiêm và tháp Tơn Đức. Tháp Báo
Nghiêm đứng ở phía sau nhà Tổ Đệ nhất, ngồi ra có Tháp
Tơn Đức và các tháp như Tam Hoa, Ni Châu đứng cạnh nhau
ở phía sau Hậu đường. Đồng thời, sau nhà Hậu đường bố trí
đăng đối theo trục chính và phương pháp xử lý các khối kiến
trúc đã tạo nên vẻ thâm nghiêm, u tịch cho cảnh chùa. Sự bố
trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện tư tưởng giáo lý
của đạo Phật diễn biến từ nhận thức duy lý đến thực hành
chính niệm đã đạt được đến sự giác ngộ và giải thốt.
Tịa Tiền đường, cũng như hai dãy hành lang và nhà Hậu
đường đã tạo nên chữ “Khẩu” (寧) hay như ở chữ “Quốc” (寧),
từ tòa Tiền đường đến tòa Thiêu Hương và đến tòa Thượng
Điện tạo nên chữ “Cơng” ( 寧 ). Từ tịa nhà Thượng Điện qua
cầu đá đến tịa Cửu phẩm Liên Hoa thì lại tạo thành những
chữ “Cơng” ( 寧 ) tiếp theo. Đứng ngồi ngơi chùa, chúng ta
cảm thấy ngơi chùa có vẻ rất hoang sơ và tồn bộ ngơi chùa
hầu như khơng đi vào bằng cửa chính mà đi vào hai cổng phụ
làm cho cảm giác ta thấy gợi mở, thoáng đãng hơn. Đặc biệt,
những cái mái đao cong của chùa thể hiện tính hướng thượng


của Phật giáo nguyên thủy. Tổng thể kiến trúc của ngơi chùa

cịn giữ ngun vẹn được dáng vẻ cổ kính của Phật giáo
nguyên thủy nói chung và nhất là Phật giáo đồng bằng Bắc Bộ
Việt Nam nói riêng. Để có một ngôi chùa Bút Tháp đẹp người
xưa đã kết hợp cảnh quan của cả vùng để tạo nên sự hòa nhập
của ngôi chùa. Với cảnh quan hiện tại bên trái chùa có dịng
sơng Đuống, trước cửa chùa là đồng ruộng mênh mơng, xa xa
ở phía trái và phải chùa có núi Tam Đảo, núi Phật Tích bao
bọc. Do điều kiện địa lý nên người Việt xưa đã tạo nên kiến
trúc ngôi chùa với những bộ mái lớn. Ở chùa Bút Tháp nhìn
từ ngồi vào chúng ta sẽ thấy ngay chiều rộng của mái chiếm
gần hai phần ba chiều cao. Thiết kế đó dường như kéo kiến
trúc xuống sát mặt đất hơn và làm cho kiến trúc trở nên đầm
ấm. Chính vì thế, khơng gian của chùa như vừa đóng, vừa mở
dù có tường vây bao bọc mà ranh giới giữa chùa với bên
ngồi ít phân biệt trong tâm thức.
Ở chùa Bút Tháp có hệ thống tượng thờ rất đặc sắc so với
những ngơi chùa khác. Tượng Phật ở đây có nhiều loại như
tượng các vị Bồ Tát, tượng Hộ Pháp và tượng các vị La Hán,
Đức Ông, Thánh Tăng. Trong đó có những pho tượng rất quý,


nổi tiếng cả nước và được giới nghiên cứu xem là khuôn mẫu
của tượng Phật giáo Việt Nam như tượng Quan Âm thiên thủ
thiên nhãn (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay), tượng Tuyết Sơn
và bộ tượng Tam thế Phật. Ngoài ra, trong chùa cịn có khoảng
hơn bảy mươi pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng,
ngồi với nét mặt thành kính trơng rất sinh động thể hiện cảm
xúc nội tâm mang nặng ý tưởng Phật giáo. Nơi đây, tượng
Quan Âm thiên thủ thiên nhãn là bức tượng bằng gỗ lớn nhất
Việt Nam. Ngồi ra, cịn có bộ tượng Tam thế, tượng Quan Âm

tọa sơn, tượng Văn Phù và Phổ Hiền Bồ Tát. Các pho tượng
hậu bằng gỗ như tượng hồng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, tượng
cơng chúa Lê Thị Ngọc Duyên, quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ
và rất nhiều các pho tượng cổ khác là những tác phẩm nghệ
thuật vơ giá.
Tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay hết sức điêu
luyện, do Trương Thọ Nam quê ở Bến Tre tạc và hoàn thành
năm 1656 thời Hậu - Lê. Tượng cao 3.7m, ngang 2.1m và dày
1.15m, với 42 tay lớn, 952 tay nhỏ đã tạo nên nét độc đáo và
có ảnh hưởng tới đời sống tâm linh của bà con Phật tử ở khắp
vùng quê của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đây cũng được


coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ
thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng
thứ ngôn ngữ tạo hình hàm xúc. Tượng Quan Âm hai tay chắp
trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo
biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định. Các chùm tay để
trần từ sườn, vai, lưng, trên người, những tay được xếp vòng
tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm. Độc đáo hơn nữa là nhịp
điệu mỗi cánh tay khơng giống nhau. Nhìn tổng thể tượng
Quan Âm nghìn mắt nghìn tay như những vịng hào quang tỏa
ra từ tâm điểm. Năm 2014, tượng được Nhà nước xếp là Bảo
vật quốc gia.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực và đặc biệt,
phía ngồi Thượng điện có lan can bằng đá xanh bao quanh,
có 26 bức tranh bằng đá được chạm khắc các hình động vật
điểm xuyết thêm mây, trời hay hoa lá. Trên lan can cầu đá nối
với tòa Tích Thiện Am có 12 bức và ở lan can quanh chân
Tháp Báo Nghiêm có 13 bức. Như vậy, tổng cộng các bức

chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 bức với những đề tài
khác nhau nhưng chúng đều thống nhất với nhau ở mặt chất
liệu, phong cách và thống nhất về niên đại. Nối giữa Thượng


×