Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Lich su Dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.79 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Câu 2 : Phân tích q trình nhận thức đường lối cách mạng DTDC của Đảng ta từ 1930 đến 1954.</b>


<b>BAØI LAØM</b>
<b>I. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam </b>


Trước yêu cầu của lịch sử, Nguyễn Ái Quốc được sự phân công của quốc tế cộng sản, nhận trách nhiệm
thống nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị thống nhất
lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua chánh cương vắn tắt, điều lệ vắn tắt, chương trình tóm tắt,
sách lược vắn tắt của Đảng và điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng do Nguyễn Ái Quốc Soạn thảo.
Hội nghị hợp nhất mang ý nghĩa lịch sử là đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt
và Sách lược vắn tắt đã xác định một cách tóm gọn những nét chính về các vấn đề chiến lược và sách lược
của CMVN. Tuy còn sơ lược, nhưng đã vạch ra đường lối cơ bản, đúng đắn cho CMVN, là cương lĩnh đầu
tiên của Đảng. Nội dung cương lĩnh tóm tắt :


- Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, tức là làm cuộc CMDTDCND
để đi tới xã hội cộng sản.


- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng là : Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam được hồn tồn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông; thủ tiêu
các quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn của bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng
binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng
ruộng đất, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ;
dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng giáo dục theo hướng cơng nơng hóa…


Các nhiệm vụ trên bao hàm cả hai nội dung : dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến,
trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phong kiến, giành độc lập và tự do cho toàn thể
dân tộc.


- Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo công nhân, làm cho GCCN lãnh đạo dân chúng, phải thu
phục cho được đông đảo nông dân và dựa vững vào nông dân nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng
đất. Đảng phải hết sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng đi về phía giai cấp vô sản, lợi dụng hoặc


trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì
phải đánh đổ. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải cẩn thận không được đi vào đường lối thỏa hiệp.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, tổ chức lãnh đạo CMVN đấu tranh nhằm giải phóng cho tồn
thể đồng bào bị áp bức bóc lột. Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế
giới, nhất là giai cấp vơ sản Pháp.


Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo là cương lĩnh đầu tiên của Đảng CSVN,
đó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp xu thế phát triển của thời
đại mới, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do gắn liền với
định hướng tiến lên CNXH, là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh.


<b>II. Quá trình nhận thức đường lối cách mạng dân tộc dân chủ từ 1930-1954</b>
<b>1)- Thời kì 1930-1945 :</b>


Sau hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được các cơ sở Đảng bí mật đưa vào quần
chúng. Phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng diễn ra ngày càng sôi nổi và trên đà phát triển
mạnh mẽ. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ phác ra những nét cơ bản nhất về đường
lối CMVN. u cầu khách quan địi hỏi Đảng phải có một cương lĩnh đầu đủ, toàn diện hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu<sub></sub>. Vì vậy đã quyết định thủ tiêu <sub></sub>Chánh cương, Sách lược vắn tắt
của Đảng<sub></sub> và phải dựa vào Nghị quyết của quốc tế cộng sản, chính sách và kế hoạch của Đảng theo tinh
thần hội nghị tháng 10/1930. Luận cương chính trị 10/1930 xác định :


- Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào, Cao Miên là : <sub></sub>một bên thì thợ thuyền,
dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa<sub></sub>.


- Tính chất cách mạng Đơng Dương lúc đầu là một cuộc <sub></sub>cách mạng tư sản dân quyền<sub></sub>, <sub></sub>có tính chất thổ
địa và phản đế<sub></sub>, <sub></sub>Tư sản dân quyền cách mạng là thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng<sub></sub>. Sau khi cách
mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục <sub></sub>phát triển bỏ qua thời kì tư bản mà tranh đấu thẳng lên con
đường XHCN<sub></sub>.



- Sự cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, thực
hành cách mạng ruộng đất cho triệt để và tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng
Dương hồn tồn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ ĐQCN mới phá
được giai cấp địa chủ, tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi và có phá tan được chế độ phong kiến mới
đánh đổ được ĐQCN. Luận cương coi <sub></sub>vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền<sub></sub>, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.


- Xác định giai cấp vô sản (GCVS) và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền.
Trong đó GCVS là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Tư sản thương nghiệp chỉ
đứng về phía đế quốc chống cách mạng, tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách
mạng phát triển cao thì họ sẽ theo phe đế quốc. Giai cấp tiểu tư sản, bộ phận tiểu thủ cơng nghiệp thì có
thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì khơng tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng
quốc gia cách mạng và chỉ có thể hăng hái chống đế quốc trong thời kì đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở
đô thị mới đi theo cách mạng mà thôi.


- Sự lãnh đạo Đảng là điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị
đúng đắn, tập trung gắn bó quần chúng, lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là đội tiên
phong của GCCN, đại biểu cho chính quyền lợi của GCCN, đấu tranh cho mục tiêu CSCN.


+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là vô sản Pháp.


+ Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ trang, bạo động để giành chính quyền, phải coi
võ trang là một nghệ thuật, phải theo <sub></sub>khuôn phép nhà binh<sub></sub>.


Nhìn chung, qua những nội dung cơ bản nêu trên của luận cương tháng 10/1930, đã thấy rõ là luận cương
chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về đường lối chiến lược cách mạng nước ta mà Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu.


Tuy có mang tính kế thừa Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của hội nghị tháng 2/1930, nhưng do


nhận thức giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, hiểu biết
khơng đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời lại chịu ảnh
hưởng khuynh hướng <sub></sub>tả<sub></sub> của quốc tế cộng sản, cho nên BCHTW Đảng do Trần Phú đứng đầu đã không
vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn
thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên khơng nêu tốt lên được vấn đề dân tộc lên hàng
đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách mạng ruộng đất : không đề ra được chiến lược liên minh dân
tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Từ đó đã phê phán gay gắt
quan điểm đúng đắn của Hội nghị hợp nhất là đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu và đã quyết định thủ tiêu
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Song, ngay từ đầu, thực
tiễn cách mạng đã khẳng định tính chất khoa học, cách mạng và vị trí lịch sử của Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

trò Hội phản đế đồng minh trong cách mạng thuộc địa. Hậu quả là làm cho tổ chức cách mạng vẫn đơn
thuần mầu sắc công nông, thiếu một tổ chức thật quãng đại quần chúng trong hàng ngũ chống đế quốc
Pháp.


Tuy nội dung của bản chỉ thị phù hợp với tư tưởng đoàn kết dân tộc đã được nêu trong cương lĩnh đầu tiên
của Đảng. Song quan điểm và chủ trương đúng đắn về vấn đề quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, vấn đề
đoàn kết dân tộc vẫn chưa trở thành tư tưởng chủ đạo của BCHTW lúc đó.


Từ tháng 10/1930 cho đến đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ I (3/1935), nhiều chương trình hành động và
Nghị quyết của Đảng đều tiếp tục đứng trên quan điểm tư tưởng sai lầm của Hội nghị tháng 10/1930. Nhìn
nhận và đánh giá một cách khách quan về chủ trương của Hội nghị BCHTW Đảng lúc bấy giờ về mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giữa liên minh cơng nơng và
đồn kết với các lực lượng u nước trong dân tộc thì thấy có nhiều quan điểm, nhận thức mâu thuẫn nhau.
Bệnh ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng <sub></sub>tả<sub></sub>, biệt phái và giáo điều rập khn vẫn cịn là khuynh hướng chi
phối trong các chủ trương và chính sách của Đảng.


Trước những chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là chủ trương chiến lược của đại hội
lần thứ VII quốc tế cộng sản. Tháng 7/1936, đ/c Lê Hồng Phong chủ trì hội nghị đã vạch ra những chủ


trương mới về chính trị, tổ chức và đấu tranh; xác định chiến lược cách mạng ở Đông Dương vẫn là <sub></sub>cách
mệnh tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền cơng nơng bằng hình thức Xơ Viết, để dự
bị điều kiện đi tới cách mệnh XHCN<sub></sub>. Trung ương Đảng nêu rõ, tạm thời không nêu khẩu hiệu độc lập dân
tộc và ruộng đất cho người cày; mục tiêu trước mắt và trực tiếp là : <sub></sub>nhiệm vụ lập mặt trận nhân dân phản
đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau,
các dân tộc Đơng Dương cùng đấu tranh địi những điều kiện dân chủ, dân sinh cho nhân dân lao động và
chống hoạt động thuộc địa. Trung ương còn chủ trương đổi mới về tổ chức và đấu tranh, chuyển từ hình
thức tổ chức đấu tranh bí mật, khơng hợp pháp sang các hình thức cơng khai, và nửa cơng khai, hợp pháp
và nửa hợp pháp.


Điều đáng chú ý là trong khi đề ra chủ trương mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi các quyền về dân chủ
dân sinh. Trung ương Đảng đã bắt đầu chú ý và xem xét lại quan điểm chỉ đạo chiến lược chống đế quốc
và phong kiến của hội nghị tháng 10/1930 và đi đến kết luận : không nhất thiết phải thực hiện ngang bằng
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến mà tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tùy
vào tương quan so sánh lực lượng giữa hai bên mà đề cao nhiệm vụ này hay nhiệm vụ kia. Và cho rằng,
nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, cịn vấn đề điền địa tuy quan trọng nhưng
chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc rồi giải quyết vấn đề điền địa
sau; nhưng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm
xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch
liệt, đồng thời vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc cần phải phát triển cuộc cách mạng
điền địa. Đây là tư duy mới, là một quan điểm đúng đắn phù hợp với tư tưởng chiến lược của Cương lĩnh
tháng 2/1930, và nó mở đường cho chiến lược của Đảng ta từ năm 1939 về sau này.


Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đơng Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thống trị thời
chiến. Phát xít Nhật nhảy vào Đơng Dương, từ đó nhân dân ta một cổ hai trịng áp bức Pháp - Nhật. Mâu
thuẫn giữa nhân dân ta và Pháp - Nhật gay gắt hơn bao giờ hết. Hội nghị TW6 (11/1939) do đ/c Nguyễn
Văn Cừ chủ trì và đặc biệt là hội nghị BCHTW lần thứ 8 (5/1941) do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đề
ra những thay đổi mới về đường lối, chủ trương <sub></sub>cách mạng tư sản dân quyền<sub></sub> ở Đông Dương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đấu tranh giành chính quyền là khởi nghĩa võ trang với hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi


nghĩa.


Trong thư gửi đồng bào 6/1941, Người viết :<sub></sub> Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy,
chúng ta hãy đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sơi lửa
nóng…<sub></sub>, <sub></sub>Việc cứu nước là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách
nhiệm : người có tiền góp tiền, người có của góp của... Riêng phần tơi, tơi xin đem hết tâm lực đi cùng các
bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hi sinh tính mệnh cũng khơng nề<sub></sub>.


Các Nghị quyết trên và sự điều chỉnh chiến lược của BCHTW chính là sự kế tục và phát triển những quan
điểm, tư tưởng đúng đắn của Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt 2/1930 và là nguồn gốc quyết định
thắng lợi của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 sau này.


<b>1)- Thời kì 1945 - 1954 :</b>
<b>a)- Bối cảnh lịch sử :</b>


Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Kết thúc chiến
tranh TG II, tương quan lực lượng trên thế giới có nhiều thay đổi, hệ thống các nước XHCN hình thành tạo
một dịng thác cách mạng phối hợp phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hịa bình tiến bộ trên thế
giới tiến công đẩy lùi CNĐQ. Chủ nghĩa thực dân cũ thất bại, Pháp suy yếu do chiến tranh TG II và lệ
thuộc Mĩ về nhiều phương diện. CNĐQ dưới sự điều khiển của Mĩ coi Việt Nam là trọng điểm, thỏa thuận
với nhau về quan điểm bao vây tiêu diệt CMVN.


Ở trong nước, lực lượng mọi mặt của Nhà nước còn non yếu, các nước đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế và trong nước liên kết bao vây chống phá quyết liệt. Miền Bắc, quân Tưởng kéo vào với danh
nghĩa quân đồng minh tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là âm mưu <sub></sub>Cầm Hồ, diệt cộng<sub></sub> tạo lập một
Chính phủ tay sai tranh giành quyền lực gây khó khăn cho cách mạng. Ngồi ra cịn có 2 vạn quân Anh
dưới danh nghĩa đồng minh dọn đường cho Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam. Ngày 23/8/1945, quân Pháp đã
nổ súng đánh chiếm : Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cách mạng phải đương đầu với
nhiều tổ chức và giáo phái phản động ở miền Nam do Pháp viện trợ để tranh giành quyền lực với Việt
Minh… Mặt khác, Chính quyền cách mạng phải đương đầu với nền kinh tế nghèo nàn, các di sản văn hóa


nơ dịch nặng nề… Đất nước lâm vào tình thế : <sub></sub>nghìn cân treo sợi tóc<sub></sub>.


Trước tình thế khó khăn, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc,
huy động mọi sức mạnh của cả dân tộc, dùng sách lược đấu tranh linh hoạt và khôn khéo với địch, từng
bước vượt qua mọi hiểm nguy, chủ động trước mọi tình thế để giữ vững chính quyền, đưa cách mạng tiến
lên. Lúc này, Ban thường vụ TW Đảng ta xác định : <sub></sub>Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc
cách mạng dân tộc giải phóng<sub></sub>. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hồn thành, vì nước ta chưa
hồn tồn độc lập. Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Đảng ta nêu rõ : <sub></sub>Kẻ thù chính
của dân tộc lúc này là thực dân Pháp xâm lăng<sub></sub>, <sub></sub>phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng<sub></sub>. Vì vậy,
phải <sub></sub>lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng Việt Minh … Kiên quyết
giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa, cải
thiện đời sống nhân dân<sub></sub>.


Những chủ trương trên của Ban thường vụ TW Đảng được nêu trong chỉ thị <sub></sub>Kháng chiến kiến quốc<sub></sub>. Ngoài
ra, Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc Đảng cũng nêu rõ : cách mạng muốn đứng vững phải biết tự bảo vệ,
phải đồng thời thực hiện hai mặt song song :


- Kiến quốc để phát triển thực lực cách mạng nhằm đủ mạnh để thắng kẻ thù


- Thực hiện sách lược hịa hỗn, nhân nhượng kẻ thù để nhằm hịa hỗn những kẻ có thể hịa hỗn
được để tập trung lực lượng chống Pháp.


<b> Về tổ chức thực hiện chỉ thị kháng chiến kiến quốc :</b>


- Về xây dựng và phát triển thực lực cách mạng : ta tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng chính quyền
cách mạng, ban hành Hiến pháp (1946) tạo tính hợp hiến, hợp pháp của Chính phủ Hồ Chí Minh. Tích cực
xây dựng lực lượng vũ trang : Quân đội nhân dân và Cơng an nhân dân, diệt nạn đói, giặc dốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

+ Giai đoạn I (9/1945-2/1946) : chủ trương hòa với Tưởng để tập trung lực lượng đánh Pháp
ở Nam Bộ, tranh thủ hịa hỗn để tập trung phát triển lực lượng cách mạng



+ Giai đoạn II (3/1946-12/1946) : kí kết với Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, đặt cơ sở đi đến
đàm phán để kí một Hiệp định chính thức. Cuộc đàm phán chính thức giữa ta và Pháp tại
Phông-ten-nơ-bơ-lo không đi đến kết quả. Nhằm tranh thủ kéo dài thời gian cho việc tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến tồn quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với Chính phủ Pháp bản tạm ước 14/9/1946 :
chấp nhận cho Pháp mang 15 vạn quân ra miền Bắc, Việt Nam là quốc gia nằm trong sự bảo hộ của Pháp.
Phía Pháp phải chấp nhận Bắc kì trải qua cuộc trưng cầu dân ý, cơng nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là quốc
gia tự do nằm trong Liên hiệp Pháp... Với kết quả đàm phán và thương lượng : 20 vạn quân Tưởng, 6 vạn
quân Nhật, 2 vạn quân Anh phải rút về nước.


Nhìn chung, từ 9/1945-12/1946, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giữ vững được Chính quyền cách
mạng, đẩy mạnh kháng chiến ở miền Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước.
Thực tiễn lịch sử của thời kì này đã đem lại cho Đảng ta nhiều bài học quý báu, nhất là bài học về phát huy
sức mạnh đoàn kết dân tộc, chống chia rẽ, đối lập, về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và về
sự nhân nhượng có ngun tắc.


<b> Phát động tồn quốc kháng chiến; đường lối kháng chiến của Đảng</b>


Sau kí Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp đem quân ra miền Bắc liên tục khiêu khích và lấn chiếm, gửi tối hậu
thư Chính phủ ta địi tước vũ khí lực lượng tự vệ Hà Nội, kiểm sốt an ninh thủ đơ. Hành động của thực dân
Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế khơng thể nhân nhượng. Lịch sử dân tộc đã đặt trước
một sự lựa chọn mới : phải đứng lên kháng chiến trong toàn quốc để bảo vệ nền độc lập. Đêm 19/12/1946,
Ban thường vụ TW Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mơ cả nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.


Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sơng đất nước, là lời hịch làm thấu động tình
cảm sâu xa và cao đẹp nhất trong mỗi lòng người dân Việt anh hùng bất khuất, làm cho cả nước sơi sục
đứng lên chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với ý chí <sub></sub>cảm tử cho tổ quốc quyết sinh<sub></sub>, với một
thái độ chính trị dứt khốt và kiên định, vì độc lập tự do của tổ quốc. Lời kêu gọi đó là một cương lĩnh
kháng chiến, khái quát ở trình độ cao, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm và đường lối chiến tranh nhân


dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng. Ngày 22/12/1946, Ban thường vụ TW Đảng ra bảng chỉ thị
toàn dân kháng chiến. Tóm tắt những nội dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng như sau :


- Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng chiến : nhân dân Việt Nam xác định cuộc chiến tranh chính
nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa xâm lược của thực dân Pháp; chiến tranh chống Pháp là sự tiếp tục của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây
dựng cơ sở đi lên CNXH.


- Về xác định phương châm kháng chiến : kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến trên
tinh thần tự lực cánh sinh, kháng chiến lâu dài và trải qua ba giai đoạn : cầm cự, phịng ngự và tổng phản
cơng. Đảng ta xác định kháng chiến nhất định thắng lợi.


Về mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ trong giai đoạn này, tác phẩm : <sub></sub>Kháng chiến nhất định thắng lợi<sub></sub>
của Trường Chinh đã nêu rõ quan điểm của Đảng là : <sub></sub>cuộc kháng chiến chỉ hồn thành nhiệm vụ giải
phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa dân chủ. Nó khơng tịch thu ruộng đất của địa chủ
phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian phản động để bổ
sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi sinh<sub></sub>.


<b> Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951)</b>


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II triệu tập từ ngày 11 đến 19/2/1951 tại Tuyên Quang. Đại hội quyết định
tách ba Đảng bộ Đảng cộng sản ở Đông Dương để lập ra mỗi nước một Đảng cách mạng riêng. Đảng cộng
sản Đông Dương được đổi tên là Đảng lao động Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chinh đã trình bày tồn bộ đường lối CMVN. Đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH ở
Việt Nam. Nội dung cốt lõi của bản báo cáo bàn về CMVN là Cương lĩnh chính trị thứ ba của Đảng ta.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của CMVN là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập
và thống nhất cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có
ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH. Ba nhiệm vụ đó khắng khích với nhau,
song nhiệm vụ chính trước mắt là hồn thành giải phóng dân tộc. Đại hội xác định lực lượng CMDTDCND


ở Việt Nam là : GCCN, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân
tộc. Ngồi ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp
thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là
GCCN…


Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất trong vùng tự do. Đầu 1953, Hội nghị TW lần 3,4 của Đảng
chủ trương tổ chức cải cách ruộng đất, xóa bỏ giai cấp địa chủ, chia ruộng đất cho nông dân ở vùng tự do.
Kết quả : trong một thời gian ngắn đã xóa bỏ hồn tồn giai cấp địa chủ, chia ruộng đất (đất địa chủ và đất
làng xã) cho nông dân. Đây là cuộc cách mạng đổi đời của nơng dân, lúc này nơng dân chỉ có đóng một
sắc thuế duy nhất là thuế kháng chiến, khơng cịn phải nộp tô thuế cho địa chủ.


<b>III. Đảng lãnh đạo đường lối, xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt</b>


Do tương quan lực lượng giữa ta và địch, phương châm chiến lược của ta là đánh lâu dài. Là một quá trình
vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, từng bước làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Vì thế phải đánh
địch trên tất cả các lĩnh vực : quân sự, kinh tế, chính trị văn hóa, trong đó Đảng xác định quân sự là mặt
trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng địch trên tồn bộ đất nước.


<b>- Về chính trị : Đảng chủ trương tiếp tục củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở vùng tự do, mở rộng mặt</b>
trận đoàn kết dân tộc chống Pháp bằng việc duy trì mặt trận Việt Minh và xây dựng thêm mặt trận Liên
Việt để thu hút mọi lực lượng chống Pháp; tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến để cô
lập và hạn chế tối đa những hoạt động của bọn Việt gian.


<b>- Về kinh tế : xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp ở vùng tự do, đảm bảo đời sống nhân dân và nuôi quân</b>
đánh Pháp, thực hiện sách lược tiêu thổ kháng chiến ở vùng tự do. xây dựng các nhà máy quốc phịng, chế
tạo vũ khí với phương châm phục vụ trước mắt cho kháng chiến và khi kháng chiến thành công sẽ phục vụ
chuyển sang xây dựng CNXH. Ở vùng tạm chiếm : đưa lực lượng phá hoại nền kinh tế bằng lực lượng du
kích, đặc cơng, đẩy mạnh sách lược làm chảy máu nền kinh tế của Pháp.


<b>- Mặt trận tư tưởng văn hóa : tuyên truyền đấu tranh xóa bỏ những tàn dư phong kiến lạc hậu, tư tưởng thực</b>


dân, xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa khoa học đại chúng.


<b>- Về quân sự : Dựa vào thực lực kháng chiến ngày càng tăng cường, nhất là sự phát triển của ba thứ quân,</b>
Đảng chỉ đạo đấu tranh đi từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính
quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Đảng chủ trương dẫn dắt cuộc kháng chiến qua
ba giai đoạn :


+ Giai đoạn 1 (9/1945 đến cuối 1947) : chủ động tiến hành cuộc kháng chiến cục bộ ở miền
Nam và sau đó phát động kháng chiến trong cả nước. Ta đã đánh bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh
của thực dân Pháp (kế hoạch một tuần dạo mát ở Việt Nam). Đỉnh cao của giai đoạn này là ta đã đánh bại
cuộc hành quân Thu Đông 1947 của Pháp ra miền Bắc.


+ Giai đoạn 2 (1948 đến 1950) : trên cơ sở chiến tranh du kích được mở rộng, ta đã liên tiếp
mở nhiều chiến dịch nhỏ hạ hàng loạt đồn bót, tiêu diệt nhiều sinh lực của địch, thu hẹp vùng chiếm đóng
của chúng ở nhiều nơi. Kết hợp một số chiến dịch nhỏ ta đã đánh bại kế hoạch dùng người Việt đánh người
Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân Pháp. Năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới,
một chiến dịch tấn công lớn đầu tiên của quân đội ta. Chiến dịch Biên giới thắng lợi đánh dấu một bước
trưởng thành của về trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch của quân đội ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Biên Phủ ta đã đánh bại mọi cố gắng quân sự cao nhất của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương và
buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị kí Hiệp định Giơnevơ.


Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn nhất trong cuộc đọ sức toàn diện và quyết liệt nhất của quân
đội nhân dân Việt Nam với qn đội xâm lược Pháp. Chiến cơng đó mãi mãi được ghi nhớ vào lịch sử dân
tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỉ XX và đi sâu vào lịch sử thế giới như
một chiến công hiển hách, một sự kiện báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×