Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu ôn môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.9 KB, 17 trang )

Tài liệu ơn tập mơn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Câu 1: Khái niệm phương pháp CM HCM, vai trò, vị trí của phương pháp CM HCM.
Mở đầu: Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản của CM
VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Phương
pháp CM là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống TT HCM. Trong tiến trình CM Việt Nam, đường lối
CM và TT chính trị đúng đắn của HCM có vị trí vơ cùng quan trọng. Song chỉ có sự đúng đắn của TT chính trị,
của lý luận CM cũng chưa đủ để đưa CM tiến đến thành cơng cịn phụ thuộc vào phương pháp CM. Nghiên cứu
phương pháp CM HCM có ý nghĩa to lớn về cả lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó khơng chỉ giúp ta hiểu 1 cách sâu
sắc hơn, toàn diện hơn về TT HCM, về những qui luật vận động của CMVN cùng PPCM của đảng ta mà còn để
vận dụng vào việc giải quyết những nhiệm vụ CM và những vấn đề cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái niệm:
PP là tồn bộ các hình thức, biện pháp để đạt đến mục tiêu trong hoạt động của con người, do con người
sắp xếp xây dựng thành 1 hệ thống. PP có nhiều cấp độ Phương pháp CM cũng là cấp độ cao của PP. PP bao giờ
cũng nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể, PP vừa có tính KQ lại vừa có tính chủ quan. Sụ phù hợp giữa tính KQ và
CQ cho ta một PP khoa học.
Phương pháp CM HCM hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động TT HCM trong thực tiễn. Theo nghĩa hẹp,
phương pháp CM HCM là hệ thống các cách thức, biện pháp, quy trình hợp thành nguyên tắc điều chỉnh và
hướng dẫn hành động của các lực lượng CM, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng CNXH ở
Việt Nam. Ở cấp độ PP luận, PPCM HCM là lý luận về lựa chọn các PP để tiến hành CM, đồng thời còn cả LL về
các PP ứng xử và xử lý tình huống trong quá trình tiến hành CM. Đó là một hệ thống các quan điểm CM khoa
học trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của CNM.Lin. Về bản chất phương pháp CM HCM nằm trong
hệ thống phương pháp CM của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp CM HCM không chỉ là sự vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin. Nó
cịn thể hiện nét riêng hết sức độc đáo của HCM. Người đã kế thừa những truyền thống, tinh hoa văn hóa dân tộc
VN và những tinh hoa trí tuệ nhân loại, Người kết hợp triết lý biện chứng của Phương Đông và Phương Tây.
Ngay cả phép biện chứng duy vật của CN Mác Lênin cũng được Người tiếp thu một cách sáng tạo và vận dụng
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, qua thực tiễn đã hình thành phương pháp CM HCM. Phương pháp CM HCM là
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khoa học và nghệ thuật.
2. Vị trí, vai trị phương pháp CM HCM
Con người khơng thể hoạt động mà khơng cần đến PP, khơng có PP cũng như mị mẫm trong đêm tối. Song
PP có 2 loại : PP đúng và cũng có PP sai, chỉ có những PP khoa học, đúng đắn mới đưa con người đạt tới mục tiêu


nhanh nhất và hiệu quả nhất. Ngược lại những PP sai lầm trong mọi hoạt động đều khó có thể đạt đến mục tiêu.
PP góp phần quyết định thành công hay thất bại trong mọi hoạt động của con người.
Đường lối đúng đắn là một nhân tố quyết định thắng lợi của CM, song làm thế nào để có đường lối đúng và làm thế
nào để biến đường lối đó thành hiện thực, điều đó phụ thuộc vào phương pháp CM. Nếu khơng có phương pháp CM thì
đường lối có đúng đắn đến đâu chăng nữa thì cũng là 1 mớ lý thuyết sng. HCM với tư cách là 1 một nhà hoạt động chính
trị lỗi lạc, 1 lãnh tụ vĩ đại của CM VN, đã giải quyết thành công cả 2 vấn đề quan trọng nhất của CM là xây dựng đường lối
đúng và phương pháp CM đúng. Mối quan hệ giữa đường lối CM và phương pháp CM trong TT HCM đó là mối quan hệ
giữa mục tiêu ĐLDT và CNXH với PP để đạt mục tiêu đề ra.
Đất nước thống nhất, nhân dân tự do hạnh phúc là mục tiêu phấn đấu của cả cuộc đời HCM. Vì vậy, mục
tiêu ĐLDT và CNXH cùng với PP để giàng ĐLDT và đi lên xây dựng CNXH là nội dung quan trọng nhất bao
trùm tồn bộ TT HCM. u nước, HCM đi tìm đường cứu nước, cũng như các nhà yêu nước đương thời đều tỏ
rõ quyết tâm giành kỳ được độc lập tư do cho dân tộc. Điểm khác nhau giữa HCM với các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh,.. là ở chổ xác định đánh ai, ai đánh và đánh như thế nào. Chính sự khác nhau ấy đã đưa đến
thành cơng duy nhất chỉ có ở HCM và như vậy bí quyết thành công của người là ở phương pháp CM.
3. Những nội dung cơ bản của phương pháp CM HCM: Phương pháp CM Hồ Chí Minh bao gồm 4
phương pháp lớn, đó là PP xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM; phương pháp xác định bạn – thù, tập họp và huy
động lực lượng toàn dân tộc tiến hành CM; PP kết hợp lực thế thời trong CM và PP dĩ bất biến, ứng vạn biến.
a. Phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM là phương pháp quan trọng trong phương pháp CM
HCM. Mặc dù khơng có những chun luận, lý luận về phương pháp CM, không đề cập riêng lẽ cách thức lựa
chọn mục tiêu, con đường CM phải như thế nào, song từ việc lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, cùng
1


đường lối tiến hành 2 giai đoạn CM nối tiếp nhau : CM dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CM XHCN ở nước ta,
HCM đã lãnh đạo Đảng và nhân dân xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM ở mỗi thời kỳ CM VN đã thể hiện những
nguyên tắc, PP luận có giá trị to lớn.
Trước nhất đó là PP “phải lấy thực tế làm điểm xuất phát để xác định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ
của CM, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để xác định chủ trương, chính sách”. Đối với HCM, làm CM
trước hết là để giải phóng cho đồng bào, dân tộc mình, nên thực tế VN chính là điểm xuất phát cho mọi suy nghĩ
và hành động của Người. Đồng thời Người cũng yêu cầu phải từ điều kiện thực tế đất nước, con người, dân tộc

VN với truyền thống mấy ngàn năm lịch sử cùng với những điều kiện KT – VH – chính trị - XH của VN và mối
quan hệ của VN với thế giới để xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM ở mỗi thời kỳ. Chính xuất phát từ thực tiễn trong
việc đề xuất đường lối chiến lược, chiến thuật mà Chủ tịch HCM cùng với Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc
khởi nghĩa tháng 8 – 1945 và 2 cuộc kháng chiến thần thánh.
Trong CM XHCN, HCM luôn luôn lưu ý đến những đặc điểm của VN, người chỉ rõ “đặc điểm to nhất của ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nước NN lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”.
Đồng thời Người cũng nhắc nhở “ ... đứng về mặt xây dựng CNXH, tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của
các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có
những đặc điểm riêng của ta”. Xuất phát từ thực tế và quy luật LLSX-QHSX, HCM cũng đã chỉ rõ trong giai đoạn quá
độ đi lên CNXH có sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau là tất yếu, do đó cần
phải duy trì nhiều hình thức quản lý, phân phối khác nhau.
Quan điểm toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, thiết thực: HCM luôn chú trọng cách tiếp cận hệ thống, xem
xét toàn diện các nhân tố, các sự kiện, các mối liên hệ. Trong xác định mục tiêu nhiệm vụ CM, Người yêu cầu
phải nhìn nhận tất cả mặt, các mối liên hệ, chỉ rõ tất cả các nhiệm vụ cần giải quyết, song phải xác định rõ cái gì là
chủ yếu, chỉ có thể giải quyết tốt nhiệm vụ chủ yếu của mỗi thời kỳ mới có thể tạo ra bước đột phá đưa CM tới
thành công. Do vậy, xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu, nhiệm vụ chủ yếu là điều có tầm quan trọng đặc biệt trong
CM.
Đặt lên hàng đầu tính hiệu quả của cơng việc , HCM ln coi trọng tính thiết thực. Người chỉ rõ : Kế hoạch
phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được” và
“chớ nên tham mau, tham nhiều trong cùng một lúc”.
Quan điểm giành thắng lợi từng bước : Vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac - Lenin vào
hoàn cảnh nước ta trong xác định mục tiêu nhiệm vụ CM, HCM chỉ rõ phải thực hiện quy luật giành thắng lợi
từng bước. Theo Người, CM là những thắng lợi nối tiếp nhau, bước trước chuẩn bị cho bước sau, bước sau cao
hơn bước trước, những bước tuần tự chuẩn bị cho những bước nhảy vọt, qua nhiều bước nhảy vọt nhỏ dẫn tới
bước nhảy vọt lớn, đưa CM đến thắng lợi hoàn toàn.
b. Phương pháp xác định bạn - thù, tập hợp và huy động lực lượng toàn dân tộc tiến hành CM
Để tiến hành CM cần phải định rõ ai là bạn ? ai là thù? và “đâu là anh em thật sự và đâu là kẻ thù”. Điều
này đã được Người trả lời một cách rõ ràng. Tiêu chí để xác định bạn thù là xuất phát từ lợi ích dân tộc và quyền
lợi của nhân dân.
Về phương pháp tập hợp và huy động lực lượng toàn dân tộc tiến hành CM: HCM đã xác định CM là việc

chung của dân chứ không phải là việc của 1 hay 2 người” Vì vậy CM trước tiên cần phải tuyên truyền vận động
đoàn kết tất cả các tầng lớp yêu nước trong dân tộc, tập hợp tổ chức họ thành một đội quân CM to lớn dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phải xây dựng khối liên minh cơng - nơng vững chắc, phải có cách thức tập hợp, tố
chức khác nhau và phù hợp với trình độ, khả năng của nhân dân để lôi kéo quần chúng, khơi dậy lịng u nước
cũng như nhiệt tình CM và tính năng động sáng tạo ở mỗi tầng lớp, ở mỗi con người.
Để tập hợp, huy động lực lượng toàn DT, bên cạnh việc xây dựng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất,
HCM còn chỉ rõ phải xây dựng và củng cố vững chắc hệ thống chính trị. Đồng thời không ngừng củng cố và tăng
cường mối quan hệ giữa CM Việt Nam với lực lượng CM và tiến bộ trên thế giới.
c. Phương pháp kết hợp lực - thế - thời trong CM
CM nổ ra muốn giành thắng lợi phải kết hợp tốt giữa lực - thế - thời để tạo ưu thế tuyệt đối CM. Trong các
cuộc chiến tranh giành và giữ độc lập dân tộc, nhân dân ta luôn biết dựa vào thế và lực của đất nước, đồng thời
tranh thủ thời cơ tạo nên những chiến công vĩ đại, giữ vững độc lập dân tộc và làm rạng danh lịch sử dân tộc Việt
Nam. Truyền thống ấy đã được HCM kế thừa và nâng lên tầm cao mới, trở thành một phong trào CM mà Người
sử dụng trong st qua trình đi lên của CM VNam.
Lực là lực lượng, bao gồm lực lượng vật chất lẫn tinh thần, bao hàm cả tiềm lực kinh tế quân sự, cơ sở vật
chất - kỹ thuật và các yếu tố chính trị, tinh thần. Sức mạnh của lực tăng lên gấp bội nếu như ở vào thế tốt . Thế là
2


tư thế, vị thế, xu thế vận động của lực. Xác định chính xác những vấn đề đó, có thể đưa ra được những dự báo về
khả năng thắng lợi của CM và vận dụng để từng bước chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới giành những thắng lợi
quyết định. CM nổ ra và kết thúc thắng lợi cần phải có thời cơ. Thời cơ là thời điểm hội tụ tất cả những điều kiện
thuận lợi nhất, đó là thiên thời - địa lợi - nhân hòa.
Để tạo ra thế và lực cho CM, đặc biệt quan tâm tới nhân tố con người. Con người ln đóng vai trị quyết
định trong các cuộc CM, phải tìm mọi cách phát huy nhân tố con người. Đồng thời phải nhìn cho rộng suy cho
kỹ, kiên quyết không ngừng tiến công và tiến cơng phịng thủ khơng sơ hở. Phải mưu trí, linh hoạt, năng động,
sáng tạo. Phải kiên quyết dũng cảm chớp thời cơ giành thắng lợi cho CM.
d. Phân tích phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp CM HCM
Đây là một phương châm được quán xuyến trong tồn bộ hoạt động Hồ Chí Minh, là nét độc đáo trong
phương pháp CM của Người. Để giúp người CM vượt qua những khó khăn thử thách, người CM phải biết sử

dụng cái bất biến là chân lý CM để đối phó để đối phó với cái vạn biến đầy khó khăn thách thức trong q trình
hoạt động CM, người CM phải sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén. CM muốn thắng lợi phải có những sách lược khơn
khéo, mềm dẻo đồng thời phải cứng rắn về nguyên tắc. Để đưa CM tới thành cơng , phải có những sách lược
khơn khéo, mềm dẻo, nhiều khi phải hịa hỗn, nhân nhượng, nhưng thảo hiệp nhân nhượng phải giữ vững tính
nguyên tắc. Nếu xa rời những nguyên tắc CM sẽ bị kẻ địch lợi dụng làm suy yếu lục lượng ta, thậm chí sẽ gây ra
những tổn thất vơ cùng to lớn.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp CM HCM là nắm vững tinh thần CM và khoa học , nắm
vững PP CM Mac-Lenin, dùng quan điểm lập trường phương pháp ấy để soi rọi, phân tích, để nhận thức và giải
quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp CM HCM là một sự khái quát lý luận rất cao, đáp ứng tất cả các tình huống
của người CMạng. Ở HCM chúng ta thấy Người đưa ra những giải pháp đúng đắn, chính xác là vì Người đã vận dụng phương
châm này đạt đến một trình độ nghệ thuật cao. Vận dụng tốt phương châm này sẽ đem lại hiệu quả cao nhất cho những người CM
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
* Vận dụng vào thực tiễn
Sau khi thực hiện thành cơng CM giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước đã bước vào giai đoạn quá độ
đi lên. Trong thời kỳ trước đổi mới, do bỏ qua không vận dụng phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm vụ CM của HCM
là phải căn cứ, xuất phát từ “thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật”. Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm
trong đề ra đường lối, chủ trương, chính sách cho giai đoạn CM này, vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một
số lĩnh vực cụ thể như: “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian
tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”,
“chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ SX nên “có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết”, “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền
tệ “ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh,
khơng tính đến điều kiện khả năng thực tế ”, bỏ qua không thừa nhận và vận dụng những quy luật khách quan của
phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa ... dẫn đến việc sản xuất chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế trên mâu
thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật
khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đảng đã xác định rõ tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện, phải
lấy CN Mác-Lênin và TT HCM làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, đặc biệt là khi đề ra mục tiêu

chính sách “phải ln xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu
của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” Trên cơ sở
hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ
đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định
chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH.
Bên cạnh đó, với quan điểm tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các chủ trương, chính sách
kinh tế.
Từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như : Đại hội VI xác định xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn,
khơng thể nóng vội làm trái quy luật. Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hồn tồn mới mẻ: "Kinh
nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả
khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi q xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
3


xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Đại hội VI
là bước ngoặt của sự nghiệp đổi mới đất nước, nội dung của Đại hội là những chương trình hành động đáp ứng được
nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản
phẩm hàng hóa
Đối với bài học trên trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần:
+ Đổi mới từ nhận thức tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của NN đến hoạt động cụ thể trong từng bộ
phận của hệ thống chính trị.
+ Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích
hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội .
Tóm lại: Phương pháp CM HCM rất phong phú, tồn diện và sâu sắc. Có thể nói cách mạng Việt Nam
thắng lợi phần lớn là nhờ có phương pháp cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh. Trong công cuộc xây dựng đất
nước ngày nay, vận dụng phương pháp cách mạng vào cơng tác hàng ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng.


4


Câu 2: Phương pháp xác định mục tiêu nhiệm vụ Cách mạng Hồ Chí Minh.
Mở đầu: Phương pháp cách mạng là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp xác định mục tiêu nhiệm vụ Cách
mạng nói riêng có ý nghĩa to lớn về cả lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó khơng chỉ giúp ta hiểu 1 cách sâu sắc hơn,
tồn diện hơn về Tư tưởng Hồ Chí Minh, về những qui luật vận động của Cách mạng Việt Nam cùng phương
pháp cách mạng của đảng ta mà còn để vận dụng vào việc giải quyết những nhiệm vụ Cách mạng và những vấn
đề cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái niệm, vị trí, vai trị, nội dung phương pháp xác định mục tiêu nhiệm vụ Cách mạng Hồ Chí
Minh:
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc tư tưởng chính trị, chiến lược cách mạng có được hiện thực hóa hay khơng,
có trở thành phong trào cách mạng của quần chúng, có được quần chúng tiếp nhận như một nhu cầu thiết yếu
hàng ngày hay không, định hướng hành động biến thành sức mạnh vật chất trong đấu tranh của họ hay khơng cịn
phụ thuộc vào phương pháp cách mạng. Người thường nhắc nhở những người cách mạng Việt Nam phải luôn chú
ý tới phương châm: chủ trương một, kế hoạch phải hai và biện pháp phải ba. Quá trình vạch đường chỉ lối và trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh một phương pháp cách mạng thích
hợp, đầy tính sáng tạo và nhạy bén.
Ta có thể hiểu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thực tiễn. Nói cách khác đó là những qui luật hoạt động mà theo đó tư tưởng chính trị của Người được
hiện thực hóa. Theo nghĩa hẹp, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống các cách thức, biện pháp, qui
trình hợp thành các nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng trong đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở cấp độ phương pháp luận, phương pháp
Cách mạng Hồ Chí Minh là lý luận về lựa chọn các PP để tiến hành Cách mạng, đồng thời còn cả lý luận về các
phương pháp ứng xử và xử lý tình huống trong q trình tiến hành Cách mạng. Đó là một hệ thống các quan điểm
Cách mạng khoa học trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lê nin. Về bản chất
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh nằm trong hệ thống phương pháp Cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, có cơ sở hình thành từ phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác
- Lênin, từ những phạm trù biện chứng của Việt Nam và phương Đông về thời và thế, binh và biến … từ kinh

nghiệm của các cuộc đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và các cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế
giới. Trên cơ sở nắm vững lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững phép biện chứng duy vật, Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam những kinh nghiệm đã tiếp thu được. Người đã tiếp thu
có chọn lọc những kinh nghiệm quý báu của dân tộc, những phương pháp điều hành có hiệu quả của các nhà
chính trị, qn sự lỗi lạc trong và ngoài nước để xác lập cho mình một phương pháp cách mạng thích hợp.
Phương pháp cách mạng là bí quyết, là linh hồn sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh để
giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh cũng như những nhà cách mạng yêu nước Việt Nam cùng thời đều xác
định cùng mục tiêu độc lập dân tộc, đều xác định được phải đánh đuổi kẻ thù để giải phóng dân tộc và lại khác
nhau ở chỗ xác định ai đánh và đánh như thế nào. Chính sự khác nhau này, khác nhau về phương pháp cách mạng
mà Phan Bội Châu đã “Trăm lần thất bại không một lần thành công”, các nhà yêu nước khác cũng không mang về
độc lập cho dân tộc trong khi Hồ Chí Minh bằng phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam đã
mang vinh quang về cho đất nước, đã đem ánh sáng độc lập xua tan đêm trường nô lệ trên dải đất Việt Nam.
Phương pháp cách mạng đúng đắn, đã giúp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn, vận dụng vào cuộc sống.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng. Bởi vì đường lối đúng đắn là
một nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng, song làm thế nào để có đường lối đúng và làm thế nào để biến
đường lối đó thành hiện thực, điều đó phụ thuộc vào phương pháp Cách mạng. Nếu khơng có phương pháp Cách
mạng thì đường lối có đúng đắn đến đâu chăng nữa thì cũng là 1 mớ lý thuyết sng. Hồ Chí Minh với tư cách là
1 một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, 1 lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, đã giải quyết thành công cả 2 vấn
đề quan trọng nhất của Cách mạng là xây dựng đường lối đúng và phương pháp Cách mạng đúng. Mối quan hệ
giữa đường lối Cách mạng và phương pháp Cách mạng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đó là mối quan hệ giữa mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH với phương pháp để đạt mục tiêu đề ra.
Phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh bao gồm 4 phương pháp lớn, trong đó có phương pháp xác định
mục tiêu, nhiệm vụ Cách mạng.
Phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm vụ Cách mạng là PP quan trọng trong phương pháp Cách mạng Hồ
Chí Minh. Mặc dù khơng có những chuyên luận, lý luận về phương pháp Cách mạng, không đề cập riêng lẽ cách
thức lựa chọn mục tiêu, con đường Cách mạng phải như thế nào, song từ việc lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH, cùng đường lối tiến hành 2 giai đoạn Cách mạng nối tiếp nhau : Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên Cách mạng XHCN ở nước ta, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng và nhân dân xác định mục tiêu, nhiệm vụ
Cách mạng ở mỗi thời kỳ Cách mạng Việt Nam đã thể hiện những nguyên tắc, PP luận có giá trị to lớn. Vận dụng
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac - Lenin (về vật chất – ý thức, về lý luận và thực tiễn) vào hoàn cảnh

5


nước ta trong xác định mục tiêu nhiệm vụ Cách mạng, luận điểm “phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng và hành động theo quy luật” đã được thể hiện xuyên suốt trong phương pháp xác định mục tiêu, nhiệm
vụ Cách mạng của Hồ Chí Minh .
Trước nhất đó là phương pháp “phải lấy thực tế làm điểm xuất phát để xác định phương hướng, mục tiêu
nhiệm vụ của Cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để xác định chủ trương, chính sách”.
Đối với Hồ Chí Minh, làm Cách mạng trước hết là để giải phóng cho đồng bào, dân tộc mình, nên thực tế
Việt Nam chính là điểm xuất phát cho mọi suy nghĩ và hành động của Người. Đồng thời Người cũng yêu cầu phải
từ điều kiện thực tế đất nước, con người, dân tộc VN với truyền thống mấy ngàn năm lịch sử cùng với những điều
kiện kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội của Việt Nam và mối quan hệ của Việt Nam với thế giới để xác định
mục tiêu, nhiệm vụ Cách mạng ở mỗi thời kỳ.
Quan điểm của Hồ Chí Minh rất rõ ràng. Dù các dân tộc thuộc địa có chung số phận, chung lý tưởng nhưng
phương pháp thực hiện mục tiêu, lý tưởng là phải xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, từ thực tế của
mỗi nước để tiến hành, chứ ko thể rập khuôn máy móc giống nhau. Từ 2 yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam là
độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân, người đã lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Phân tích những đặc
điểm xã hội, giai cấp của Việt Nam, người đã khẳng đinh phải làm Cách mạng vô sản để giành độc lập dân tộc, đi
lên CNXH. Đồng thời cũng dựa trên phân tích, điều kiện, hồn cảnh của đất nước sau khi hoàn thành cuộc Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Người chọn con đường tiến lên CNXH không qua CNTB.
Trong Cách mạng XHCN, Hồ Chí Minh ln ln lưu ý đến những đặc điểm của Việt Nam, người chỉ rõ
“đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không
phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”. Đồng thời Người cũng nhắc nhở “ ... đứng về mặt xây dựng CNXH,
tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng
những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”.
Xuất phát từ đặc điểm thời đại, Hồ Chí Minh đã đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước. Con đường
Cách mạng vơ sản và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là kết quả cuộc khảo sát thế giới của Hồ Chí
Minh. Nó vừa đáp ứng u cầu của xh Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến, vừa phù hợp với đặc điểm và xu thế
của thời đại, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, thời đại của các cuộc Cách mạng vô sản; CNXH là mục tiêu
trực tiếp của cả loài người.

Khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lê nin, trung tâm chú ý của Hồ Chí Minh là rút ra những gì cần thiết cho Cách
mạng, phù hợp với dân tộc VN, giúp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Người nắm lập
trường quan điểm, phương pháp của Chủ nghĩa Mác-Lê nin để phân tích tình hình xh Việt Nam, từ đó xác định
đường lối đúng đắn cho Cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của lý luận, song lý luận phải gắn liền với thực tiễn, người viết: “Lý
luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỷ lưỡng, rõ ràng
làm thành kết luận rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Người đã đề cao kinh nghiệm
và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm một cách có lý luận để phát triển lý luận mới, hồn chỉnh đường lối, chủ
trương, chính sách. Người chỉ rõ : “thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực
hành”. Chính vì vậy người cho rằng tổng kết thực tiễn là hoạt động lý luận quan trọng nhất của Đảng.
Trong q trình hoạt động, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta không chỉ di sản tư tưởng lý luận cực kỳ
quan trọng mà cịn tự mình trở thành một ví dụ sống động về sự thực hành lý luận đó. Người là một mẫu mực
tuyệt vời về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực hiễn, giữa lời nói và việc làm, về việc vận
dụng thực hành những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mac - Lenin và Cách mạng Việt Nam, phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể của nước ta như vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp
với vấn đề dân tộc ... nhờ vậy, chúng ta đã thành công trong công cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
trong Cách mạng XHCN
Quan điểm toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, thiết thực: Hồ Chí Minh ln chú trọng cách tiếp cận hệ thống,
xem xét tồn diện các nhân tố, các sự kiện, các mối liên hệ. Trong xác định mục tiêu nhiệm vụ Cách mạng, Người
yêu cầu phải nhìn nhận tất cả mặt, các mối liên hệ, chỉ rõ tất cả các nhiệm vụ cần giải quyết, song phải xác định rõ
cái gì là chủ yếu, chỉ có thể giải quyết tốt nhiệm vụ chủ yếu của mỗi thời kỳ mới có thể tạo ra bước đột phá đưa
Cách mạng tới thành công. Do vậy, xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu, nhiệm vụ chủ yếu là điều có tầm quan trọng
đặc biệt trong Cách mạng.
Đặt lên hàng đầu tính hiệu quả của cơng việc, Hồ Chí Minh ln coi trọng tính thiết thực. Người chỉ rõ : Kế
hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện
được” và “chớ nên tham mau, tham nhiều trong cùng một lúc”.
Quan điểm giành thắng lợi từng bước : Vận dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac - Lenin vào
hoàn cảnh nước ta trong xác định mục tiêu nhiệm vụ Cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải thực hiện quy luật
giành thắng lợi từng bước. Theo Người, Cách mạng là những thắng lợi nối tiếp nhau, bước trước chuẩn bị cho
bước sau, bước sau cao hơn bước trước, những bước tuần tự chuẩn bị cho những bước nhảy vọt, qua nhiều bước

6


nhảy vọt nhỏ dẫn tới bước nhảy vọt lớn, đưa Cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.
Biết giành thắng lợi từng bước đã thực sự trở thành phương pháp Cách mạng Việt Nam. Ngay ở Hội nghị
Trung ương VIII (tháng 5/1941), Bác và Đảng đã nêu rõ :”chủ trương làm Cách mạng giải phóng dân tộc khơng
phải giai cấp vơ sản Đông dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa dâu, cũng không phải lùi lại một bước mà là chỉ bước
một bước ngắn hơn, để có sức mà bước một bước dài hơn”. Với chủ trương này, nhân dân ta đã đạt được thành
công trong Cách mạng tháng 8 và kháng chống thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện Phương châm đánh lùi từng
bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”. Chúng ta đã
lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và đi đến giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho tổ
quốc. Đề phịng tư tưởng nơn nóng muốn đốt cháy giai đoạn trong Cách mạng XHCN, Người nhắc đi nhắc lại “
dần dần”. Khi nói về q trình tiến hành Cách mạng XHCN ở nước ta, Người nhắc nhở phải tiến từng bước vững
chắc, không được bất chấp quy luật. Theo Người, chỉ có tiến hành từng bước vững chắc thì mới có thề tiến nhanh
tiến mạnh.
Bài học kinh nghiệm được ĐH VI của Đảng nêu lên là “phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hoạt động theo quy luật”. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững cho đất nước trong giai đoạn Cách
mạng hiện nay, rõ ràng cần phải tính tốn đầy đủ các điều kiện trong nước và quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế.
Trong xác định mục tiêu, nhiệm vụ cần quán triệt tinh thần tận dụng triệt để những thành tựu của Cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đi tắt đón đầu. Song khơng được nơn nóng phải tiến từng bước vững chắc.
2. Vận dụng vào thực tiễn”
Sau khi thực hiện thành công Cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước đã bước vào giai
đoạn quá độ đi lên. Trong thời kỳ trước đổi mới, do bỏ qua không vận dụng phương pháp xác định mục tiêu,
nhiệm vụ Cách mạng của Hồ Chí Minh là phải căn cứ, xuất phát từ “thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật”. Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm trong đề ra đường lối, chủ trương, chính sách cho giai đoạn Cách
mạng này, vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể như: “chưa thật sự thừa nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện
nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ sản xuất nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây
dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ” hoặc “đẩy mạnh cơng nghiệp hóa trong khi

chưa có đủ các tiền đề cần thiết”, “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “ cùng với
“việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lịng mong muốn đi nhanh,
khơng tính đến điều kiện khả năng thực tế ”... dẫn đến việc sản xuất chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế trầm
trọng.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đảng đã xác định rõ tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện, phải
lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, đặc biệt là
khi đề ra mục tiêu chính sách “phải ln xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện
đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng” Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu
công cuộc đổi mới từ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh
thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt
khác của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các
chủ trương, chính sách kinh tế.
Từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như : Đại hội VI xác định xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian
ngắn, khơng thể nóng vội làm trái quy luật. Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hồn tồn mới
mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất
lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ". Đại hội VI là bước ngoặt của sự nghiệp đổi mới đất nước, nội dung của Đại hội là những chương trình
hành động đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thơng
hàng hóa.
Tóm lại: Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh rất phong phú, tồn diện và sâu sắc. Có thể nói cách mạng
Việt Nam thắng lợi phần lớn là nhờ có phương pháp cách mạng đúng đắn, trong đó có sự vận dụng linh hoạt
phương pháp “xác định mục tiêu, nhiệm vụ Cách mạng” của Hồ Chí Minh. Trong cơng cuộc xây dựng đất nước
ngày nay, vận dụng phương pháp này vào cơng tác hàng ngày có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.

7



Câu 3: Phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng Cách mạng Hồ Chí Minh.
Mở đầu: Phương pháp cách mạng là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nghiên cứu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng
Cách mạng Hồ Chí Minh nói riêng có ý nghĩa to lớn về cả lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó khơng chỉ giúp ta hiểu 1
cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn về Tư tưởng Hồ Chí Minh, về những qui luật vận động của Cách mạng Việt Nam
cùng Phương pháp cách mạng của đảng ta mà còn để vận dụng vào việc giải quyết những nhiệm vụ Cách mạng
và những vấn đề cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái niệm, vị trí, vai trò phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng CM HCM
Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc rằng tư tưởng chính trị, chiến lược cách mạng có được hiện thực hóa
hay khơng, có trở thành phong trào cách mạng của quần chúng, có được quần chúng tiếp nhận như một nhu cầu
thiết yếu hàng ngày hay không, định hướng hành động biến thành sức mạnh vật chất trong đấu tranh của họ hay
khơng cịn phụ thuộc vào phương pháp cách mạng. Người thường nhắc nhở những người cách mạng Việt Nam
phải luôn chú ý tới phương châm: chủ trương một, kế hoạch phải hai và biện pháp phải ba. Quá trình vạch đường
chỉ lối và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh một phương pháp cách
mạng thích hợp, đầy tính sáng tạo và nhạy bén.
Ta có thể hiểu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thực tiễn. Nói cách khác đó là những qui luật hoạt động mà theo đó tư tưởng chính trị của Người được
hiện thực hóa. Theo nghĩa hẹp, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống các cách thức, biện pháp, qui
trình hợp thành các nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng trong đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở cấp độ phương pháp luận, phương pháp
Cách mạng Hồ Chí Minh là lý luận về lựa chọn các phương pháp để tiến hành Cách mạng, đồng thời còn cả lý
luận về các phương pháp ứng xử và xử lý tình huống trong q trình tiến hành Cách mạng. Đó là một hệ thống
các quan điểm Cách mạng khoa học trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác- Lê nin. Về
bản chất phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh nằm trong hệ thống phương pháp Cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, có cơ sở hình thành từ phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác
- Lênin, từ những phạm trù biện chứng của Việt Nam và phương Đông về thời và thế, binh và biến … từ kinh
nghiệm của các cuộc đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và các cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế
giới. Trên cơ sở nắm vững lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững phép biện chứng duy vật, Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam những kinh nghiệm đã tiếp thu được. Người đã tiếp thu

có chọn lọc những kinh nghiệm quý báu của dân tộc, những phương pháp điều hành có hiệu quả của các nhà
chính trị, qn sự lỗi lạc trong và ngoài nước để xác lập cho mình một phương pháp cách mạng thích hợp.
Phương pháp cách mạng là bí quyết, là linh hồn sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh để
giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh cũng như những nhà cách mạng yêu nước Việt Nam cùng thời đều xác
định cùng mục tiêu độc lập dân tộc, đều xác định được phải đánh đuổi kẻ thù để giải phóng dân tộc và lại khác
nhau ở chỗ xác định ai đánh và đánh như thế nào. Chính sự khác nhau này, khác nhau về phương pháp cách mạng
mà Phan Bội Châu đã “Trăm lần thất bại không một lần thành công”, các nhà yêu nước khác cũng không mang
về độc lập cho dân tộc trong khi Hồ Chí Minh bằng phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam đã
mang vinh quang về cho đất nước, đã đem ánh sáng độc lập xua tan đêm trường nô lệ trên dải đất Việt Nam.
Phương pháp cách mạng đúng đắn, đã giúp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn, vận dụng vào cuộc sống.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng. Bởi vì đường lối đúng đắn là
một nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng, song làm thế nào để có đường lối đúng và làm thế nào để biến
đường lối đó thành hiện thực, điều đó phụ thuộc vào phương pháp Cách mạng. Nếu khơng có phương pháp Cách
mạng thì đường lối có đúng đắn đến đâu chăng nữa thì cũng là 1 mớ lý thuyết sng. Hồ Chí Minh với tư cách là 1
một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, 1 lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng VN, đã giải quyết thành công cả 2 vấn đề quan
trọng nhất của Cách mạng là xây dựng đường lối đúng và phương pháp Cách mạng đúng. Mối quan hệ giữa đường lối
Cách mạng và phương pháp Cách mạng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đó là mối quan hệ giữa mục tiêu Độc lập dân
tộc và CNXH với phương pháp để đạt mục tiêu đề ra.
Phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh bao gồm 4 phương pháp lớn, trong đó có phương pháp tập hợp và
huy động lực lượng toàn dân tộc tiến hành Cách mạng.
Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quán triệt sâu sắc quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng” của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Hồ Chí Minh đã xác định: “Cách mạng là việc chung của dân chứ không
8


phải là việc của 1 hay 2 người” Vì vậy, Cách mạng trước tiên cần phải tuyên truyền vận động đoàn kết tất cả các
tầng lớp yêu nước trong dân tộc, tập hợp tổ chức họ thành một đội quân Cách mạng to lớn dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, phải xây dựng khối liên minh công - nông vững chắc, phải có cách thức tập hợp, tố chức khác
nhau và phù hợp với trình độ, khả năng của nhân dân để lơi kéo quần chúng, khơi dậy lịng u nước cũng như
nhiệt tình Cách mạng và tính năng động sáng tạo ở mỗi tầng lớp, ở mỗi con người.

Hiểu rõ ý nguyện của dân chúng, Người đã nói những điều cần nói để khơi dậy lịng u nước cũng như
nhiệt tình Cách mạng và tính năng động, sáng tạo ở mọi tầng lớp, ở mỗi con người. Nhận rõ trình độ dân trí ở
nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, hơn 90% dân số mù chữ, trong tuyên truyền, người đã sử dụng cách
nói, cách viết dung dị nhất, ai đọc cũng hiểu được và cũng thực hành được.
Theo người, Cách mạng muốn thành cơng thì sức mạnh Cách mạng phải tập trung tức là phải có lực lượng
Cách mạng đơng đảo, được tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Vì vậy, người đã chuẩn bị mọi
mặt để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Sau đó, cùng với Đảng, người lãnh đạo xd và củng cố khối liên minh
công nông vững chắc, (sau này là khối liên minh công nhân, nơng dân và trí thức) làm nịng cốt cho việc xây
dựng Mặt trận thống nhất. Trong Cách mạng Việt Nam, Mặt trận là một tổ chức rộng lớn, lôi kéo, tập hợp được
hầu hết các giai cấp, các tầng lớp, các cá nhân yêu nước, thực sự là khối đại đoàn kết dân tộc – một nhân tố quyết
định thắng lợi của Cách mạng. Xây dựng và củng cố mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động, tập hợp sức
mạnh toàn dân là tư tưởng nhất quán xuyên suốt các thời kỳ Cách mạng của Hồ Chí Minh. Song ở mỗi giai đoạn
có những đặc điểm khác nhau, mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau, để lôi kéo, tập hợp được tất cả các lực lượng vào
cuộc đấu tranh, cần phải có cách thức tập hợp, tổ chức và bằng những hình thức thích hợp. Một u cầu cao trong
phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh mà Người thường xuyên nhắc nhở là tổ chức phải phù hợp với trình độ và
khả năng của nhân dân; về hình thức tổ chức phải phong phú để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các tầng
lớp nhằm lôi kéo được mọi người yêu nước.
Để tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tộc, bên cạnh việc xây dựng và củng cố vững chắc Mặt trận dân tộc
thống nhất, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phải xd và củng cố vững chắ hệ thống chính trị; xd Đảng cầm quyền trong sạch,
vững mạnh, có quan hệ máu thịt với nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thực sự là Nhà
nước của khối đoàn kết toàn dân; chăm lo xd và củng cố các đoàn thể quần chúng. Đồng thời ko ngừng củng cố và
tăng cường mối liên hệ đoàn kết giữa Cách mạng Việt Nam với các lục lượng Cách mạng và tiến bộ trên thế giới..
Nhận thức sâu sắc về Chủ nghĩa Mác-Lênin coi liên minh cơng-nơng là lực lượng chủ yếu của chun
chính vơ sản trong đấu tranh giành chính quyền và xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng một
cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tổ chức ra lực lượng cách mạng liên minh cơng-nơng trong đó
giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo. Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận định, giai cấp cơng nhân Việt Nam tuy nhỏ
nhưng cũng có đủ những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp nông dân dù đông đảo nhưng vẫn không
thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng vì gắn liền với phương thức sản xuất lạc hậu, khơng có hệ tư tưởng độc lập. Giai
cấp nông dân chỉ thực sự lớn mạnh khi liên minh với giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới
giành được thắng lợi trong cách mạng. Với tư duy lý luận sáng tạo và bám sát thực tiễn ấy, Đảng ta đã tập trung triển

khai xây dựng lực lượng và tổ chức quần chúng đấu tranh trên các địa bàn chiến lược, nơi có đơng đảo giai cấp cơng
nhân và nơng dân sinh sống và tiếp đó là phát triển rộng trên địa bàn thành thị và nông thôn. Với cách thức tổ chức lực
lượng sáng tạo ấy, chỉ một thời gian ngắn lực lượng cách mạng của Đảng đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, được tổ
chức chặt chẽ và hình thành sức mạnh đấu tranh cách mạng to lớn.
Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định rõ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và coi nhiệm vụ
tập hợp và xây dựng lực lượng quần chúng là vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách
mạng. Đây cũng được coi là nét độc đáo trong phương pháp cách mạng của Đảng ta qua các thời kỳ lịch sử của
cách mạng. Để tập hợp được lực lượng quần chúng trước hết phải đề ra khẩu hiệu đấu tranh đúng, kịp thời, có sức
động viên lơi cuốn quần chúng một cách mạnh mẽ và rộng rãi, đưa quần chúng vào cuộc đấu tranh từ hình thức
thấp đến hình thức cao; phải thơng qua đấu tranh mà giác ngộ chính trị của quần chúng. Xây dựng lực lượng quần
chúng, tuyên truyền, tổ chức và đấu tranh là những vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở để hình
thành và phát triển đội qn chính trị rộng lớn của quần chúng, chuẩn bị cho bước phát triển nhảy vọt của cách
mạng. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, thời kỳ 1930-1931 với đường lối chống đế quốc và phong kiến, Đảng ta
đã giương cao khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng” để tập hợp lực lượng. Nhờ sự đúng đắn và
đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân nên Đảng ta đã nhanh chóng thu hút và lơi cuốn giai cấp nông
dân đi theo giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị.
Thực tiễn lịch sử đã khẳng định, thời kỳ 1930-1931 với đường lối chống đế quốc và phong kiến, Đảng ta đã giương
cao khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng” để tập hợp lực lượng. Nhờ sự đúng đắn và đáp ứng được yêu cầu,
9


nguyện vọng của nhân dân nên Đảng ta đã nhanh chóng thu hút và lơi cuốn giai cấp nơng dân đi theo giai cấp cơng nhân
bước lên vũ đài chính trị.
Thời kỳ 1936-1939, bằng nhiều hình thức tập hợp lực lượng với những hình thức đấu tranh phong phú của
Đảng, Mặt trận dân chủ Đơng Dương đã hình thành (năm 1939) để tạo ra đội quân chính trị rộng lớn, chuẩn bị lực
lượng cho cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thời kỳ 1939-1945, để kịp thời phục vụ cho việc chuyển hướng chiến lược, tập trung tối đa lực lượng cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) được thành lập với phương
châm tập hợp tất cả những người Việt Nam yêu nước, cùng chung ý chí giành độc lập cho dân tộc đều có thể
đứng vào hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đã trở thành ngọn cờ đoàn kết dân tộc, thu hút hết

thảy các giai cấp, tầng lớp, đảng phái yêu nước có tinh thần chống đế quốc và tay sai, không phân biệt giai cấp,
tôn giáo, dân tộc. Chính điều đó đã khơi dậy được sức mạnh của cả dân tộc đứng lên giành độc lập bằng cách
đem sức ta mà giải phóng cho ta, đưa đến thắng lợi của cmt98 năm 1945.
Với đường lối đại đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong mỗi thời kỳ của Cách mạng, đảng ta xây dựng được lực
lượng Cách mạng vô cùng to lớn tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giành hịa bình độc lập thống nhất cho Tổ quốc và đi lên
xây dựng CNXH. Ngày nay với đường lối phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp sức mạnh quốc tế sức mạnh thời đại nhất
định Đảng cộng sản Việt Nam sẽ đưa nhân dân ta giành những thành tựu to lớn hơn nữa trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
2. Vận dụng vào thực tiễn:
Sau khi thực hiện thành cơng Cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước đã bước vào giai
đoạn quá độ đi lên. Trong thời kỳ trước đổi mới, do bỏ qua không vận dụng phương pháp tập họp và huy động
lực lượng Cách mạng nên Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm trong đề ra đường lối, chủ trương, chính sách cho giai
đoạn Cách mạng này, vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện rõ nhất là việc “nóng vội muốn xóa bỏ ngay các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa” như kinh tế tư nhân, trong khi đây là thanh phần kinh tế quan trọng, dẫn
đến việc sản xuất chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đảng đã xác định rõ tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện, phải
lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, đặc biệt là
khi đề ra mục tiêu chính sách phải trên cơ sở huy động tối đa mọi nguồn lực, mọi thành phần cho phát triển kinh
tế. Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công
cuộc đổi mới từ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để
giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của
đời sống xã hội.
Từ sau ĐH Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. ĐH xác định: "Nền kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Đại hội VI là bước ngoặt của sự nghiệp đổi mới đất nước, nội dung
của Đại hội là những chương trình hành động đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện
thúc đẩy sản xuất và lưu thơng hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Tóm lại: P/pháp cmHCM rất phong phú, tồn diện và sâu sắc. Có thể nói cách mạng Việt Nam thắng lợi
phần lớn là nhờ có phương pháp cách mạng đúng đắn, trong đó có sự vận dụng linh hoạt phương pháp “tổ chức,
tập hợp lực lượng cách mạng” của HCM Trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, vận dụng phương pháp
này vào công tác hàng ngày có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.


10


Câu 4: Kết hợp lực, thế, thời trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Mở đầu: Phương pháp cách mạng là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp kết hợp lực, thế, thời nói riêng có ý nghĩa
to lớn về cả lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó khơng chỉ giúp ta hiểu 1 cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn về Tư tưởng Hồ
Chí Minh, về những qui luật vận động của Cách mạng Việt Nam cùng Phương pháp cách mạng của đảng ta mà còn
để vận dụng vào việc giải quyết những nhiệm vụ Cách mạng và những vấn đề cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện
nay.
1. Khái niệm, vị trí, vai trị, nội dung phương pháp kết hợp lực, thế, thời trong phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh:
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thực tiễn. Nói cách khác đó là những qui luật hoạt động mà theo đó tư tưởng chính trị của Người được hiện
thực hóa. Theo nghĩa hẹp, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống các cách thức, biện pháp, qui trình
hợp thành các nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, có cơ sở hình thành từ phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin, từ những phạm trù biện chứng của Việt Nam và phương Đông về thời và thế, binh và biến … từ kinh nghiệm
của các cuộc đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và các cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế giới. Trên cơ
sở nắm vững lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam những kinh nghiệm đã tiếp thu được. Người đã tiếp thu có chọn lọc những
kinh nghiệm quý báu của dân tộc, những phương pháp điều hành có hiệu quả của các nhà chính trị, quân sự lỗi lạc
trong và ngồi nước để xác lập cho mình một phương pháp cách mạng thích hợp.
Phương pháp cách mạng là bí quyết, là linh hồn sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh để
giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh cũng như những nhà cách mạng yêu nước Việt Nam cùng thời đều xác
định cùng mục tiêu độc lập dân tộc, đều xác định được phải đánh đuổi kẻ thù để giải phóng dân tộc và lại khác
nhau ở chỗ xác định ai đánh và đánh như thế nào. Chính sự khác nhau này, khác nhau về phương pháp cách mạng
mà Phan Bội Châu đã “Trăm lần thất bại không một lần thành công”, các nhà yêu nước khác cũng không mang
về độc lập cho dân tộc trong khi Hồ Chí Minh bằng phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam đã

mang vinh quang về cho đất nước, đã đem ánh sáng độc lập xua tan đêm trường nô lệ trên dải đất Việt Nam.
Phương pháp cách mạng đúng đắn, đã giúp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn, vận dụng vào cuộc sống.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng. Bởi vì đường lối đúng đắn là
một nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng, song làm thế nào để có đường lối đúng và làm thế nào để biến
đường lối đó thành hiện thực, điều đó phụ thuộc vào phương pháp Cách mạng. Nếu khơng có phương pháp Cách
mạng thì đường lối có đúng đắn đến đâu chăng nữa thì cũng là 1 mớ lý thuyết sng. Hồ Chí Minh với tư cách là
1 một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, 1 lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, đã giải quyết thành công cả 2 vấn
đề quan trọng nhất của Cách mạng là xây dựng đường lối đúng và phương pháp cm đúng.
Phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh bao gồm 4 phương pháp lớn, trong đó có phương pháp kết hợp lực
thế thời trong Cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất, một danh nhân văn hóa, mà còn là một nhà
chiến lược quân sự thiên tài. Nét nổi bật trong nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nghệ thuật tạo lực, lập
thế, tranh thời, biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế, lấy ít thắng nhiều, trên cơ sở chất lượng cao thắng số
lượng đông, luôn đánh địch trên thế mạnh.
Sức mạnh của Cách mạng phụ thuộc vào cả ba yếu tố: lực, thế, thời. Kết hợp tốt lực, thế, thời sẽ tạo ra ưu thế
tuyệt đối cho Cách mạng. Ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “được thời có thế, thì mất biến thành cịn, nhỏ
hóa ra lớn; khơng thời mất thế thì to hóa ra nhỏ, mạnh hóa ra yếu, an lại thành suy. Sự thay đổi ấy, chỉ trong khoảng trở
bàn tay”. Trong các cuộc chiến tranh giành và giữ độc lập dân tộc, nhân dân ta luôn biết dựa vào thế và lực của đất
nước, đồng thời tranh thủ thời cơ tạo nên những chiến công vĩ đại giữ vững độc lập và làm rạng danh lịch sử dân tộc.
Truyền thống ấy của dân tộc đã được Hồ Chí Minh kế thừa và nâng lên tầm cao mới, trở thành một phương pháp
Cách mạng mà Người sử dụng trong suốt quá trình đi lên của Cách mạng Việt Nam.
Lực- là lực lượng. Trong quan hệ của Hồ Chí Minh, lực lượng bao gồm cả lực lượng vật chất lẫn tin thần,
cả tiềm lực kinh tế, quân sự, cơ sở vật chất – kỹ thuật và cả chính nghĩa hay phi nghĩa, cả lịng u nước, tinh thần
dân tộc, cả truyền thống và hiện đại, cả trình độ và tiềm năng trí tuệ của con người… Người chỉ rõ việc tạo lực
cách mạng như lúc mới bắt đầu "nhóm lửa". Đây là cơng việc rất khó, nhưng biết cách làm, biết cách dựa vào dân
thì chắc chắn làm được. Do đó, người cách mạng phải có "tín tâm" và "quyết tâm", biết đi vào quần chúng để
11


thức tỉnh họ; tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ; làm cho dân ta ai cũng biết "đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng

minh". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng để tiến hành khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng không chỉ đơn thuần dựa vào lực lượng vũ trang, quân đội, mà trước hết và quan
trọng nhất là lực lượng chính trị của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức chặt chẽ và rộng khắp; phải bắt đầu
bằng việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, rồi trên cơ sở đó xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt
của cách mạng. Lực lượng chính trị quần chúng không chỉ là nền tảng vững chắc và nguồn tiếp sức vô hạn cho
việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn là một lực lượng trực tiếp tiến công địch, tiến hành công tác binh
vận, địch vận, làm tan rã hàng ngũ địch. Hơn nữa theo Người, lực lượng của cách mạng, của kháng chiến khơng
ngừng được phát huy, phát triển trong q trình thực hiện đường lối "khởi nghĩa toàn dân" và "chiến tranh nhân dân".
Đường lối đó lơi cuốn được hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước tham gia, "người có tiền góp tiền", "người có sức
góp sức", mỗi người dân là một chiến sĩ, đánh địch trên tất cả các mặt trận: qn sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao, tiến công địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi, cả ở tiền tuyến và hậu phương. Nhờ đó, đã huy động và tạo thành sức
mạnh to lớn của toàn dân đánh giặc. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội bằng sự kết hợp lực lượng mọi mặt của
toàn dân tộc với lực lượng cách mạng của thời đại, tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước anh em, bầu bạn trong mặt
trận chống đế quốc xâm lược.
Trong chỉ đạo thực tiễn, để tạo lực lượng cho cách mạng, từ năm 1941 khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy việc xây dựng các
tổ chức cách mạng của quần chúng, hình thành các đạo qn chính trị ngày càng hùng hậu. Trên cơ sở đó, Người chỉ
thị tổ chức các đội du kích, thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời chăm lo xây dựng các
vùng căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở các địa phương. Nhờ thế mà khi thời cơ đến, với lực lượng cách mạng
được chuẩn bị sẵn sàng và chu đáo, nhân dân ta trên mọi miền đất nước đã vùng lên giành tồn bộ chính quyền bằng
cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Kế đó, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, ra sức phát triển kinh tế để bồi dưỡng sức dân, tăng
thực lực kháng chiến. Người và Đảng ta chăm lo chỉ đạo công tác xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương kháng
chiến vững mạnh về mọi mặt, xem đó là một nhân tố thường xuyên, quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tạo lực phải đi đơi với lập thế, bởi thế và lực có mối quan hệ khăng
khít. Nếu chỉ có lực khơng thơi thì chưa đủ, mà cịn phải có thế thì mới phát huy được tác dụng của lực. Trong
chiến tranh cũng vậy, chỉ có lực mà khơng có thế, thì cũng khơng thể đánh thắng được quân địch. Thế trong nghệ
thuật quân sự là tình thế, thế nước, thế trận chiến tranh, thế bố trí lực lượng gắn với địa hình và điều kiện địa lý
nhất định. Để nâng cao hiểu biết cho các cấp chỉ huy của ta về thế và sự lợi hại của thế, Người dẫn ý kiến Tôn Tử
ví tính chất của mỗi thế trận như tính chất của nước: nước lúc nào cũng chảy xuống chỗ trũng chứ không thể chảy

ngược lên cao được và được thế tốt thì đánh địch như xoay gỗ với đá. Gỗ với đá khi n thì nó tĩnh, khi nguy thì nó
động. Vng thì nằm, trịn thì nó lăn. Cho nên lúc đánh địch, thì thế như lăn đá trịn xuống dốc núi cao mấy ngàn
thước. Điều đó cịn có nghĩa rằng thế là nhân tố có thể làm tăng hiệu quả của lực, nhưng phải là thế tốt, thế hay và chỉ
có như vậy mới phát huy hết tác dụng của lực. Đành rằng, thế bao giờ cũng lấy lực làm cơ sở và do lực quyết định,
nhưng ở thế có lợi, thế hiểm thì một lực nhỏ cũng có thể chuyển hóa thành lực lớn và ngược lại, một lực lớn nhưng ở
vào thế bất lợi hoặc bị mất thế cũng dễ bị suy yếu. Do đó, trong chiến tranh cũng như trong từng trận đánh, người chỉ
huy phải luôn biết tạo thế lợi, thế hay để lấy thế bù lực, để tăng lực.
Trong kháng chiến chống Pháp có người nói ta so với địch chẳng khác nào “châu chấu với voi”. Ở đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II Hồ Chí Minh đã nói “ chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mặt hẹp
hói mà xem, thì như thế thật. Vì để trống máy bay và đại bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vơng. Nhưng
Đảng ta theo chủ nghĩa Mác- Lênin, chúng ta khơng chỉ nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin
chắc vào tin thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng
chừng và bi quan kia rằng: “Nay tuy châu chấu đấu với voi/ Nhưng mai voi sẽ bị lịi ruột ra”.
Các yếu tố chính trị tinh thần sẽ tạo ra lợi thế cho Cách mạng. Sức mạnh của lực sẽ tăng lên gấp bội nếu như ở
thế tốt. Nói chuyện với hội nghị cán bộ cao cấp của quân đội , Hồ Chí Minh giải thích “quả cân của một kilogam, ở
vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilogam. Đó là thế thắng
lực. Ta đánh Mỹ, lấy ít thắng nhiều được là nhờ cái thế của ta rất lợi”. Thế- là tư thế, vị thế, xu thế vận động của lực.
Xác định chính xác những vấn đề đó, có thể đưa ra được những dự báo về khả năng thắng lợi của Cách mạng và vận
dụng để từng bước chuyển từ yếu thành mạnh tiến tới giành những thắng lợi quyết định.
Như vậy, theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, muốn đánh địch phải có thế và được thế hay, thế tốt thì một
lực lượng qn sự dù nhỏ hơn, vũ khí, kỹ thuật ít và kém hiện đại nhưng vẫn có thể ít biến thành nhiều, nhỏ biến
thành lớn và nhất định giành thắng lợi. Người chỉ rõ: ta đánh Mỹ, lấy ít thắng nhiều được là nhờ cái thế của ta rất
12


lợi. Vì thế, ta phải biết lập thế ta đi đôi với phá thế địch, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch, đồng thời
không ngừng phát triển sức mạnh của lực lượng ta. Tuy nhiên, Người không quên căn dặn rằng, thế mạnh và thế
yếu giữa ta và địch chỉ là tương đối, chứ không phải là tuyệt đối, do đó, khơng được chủ quan, khinh địch mà phải
luôn luôn chủ động, sáng tạo thế trận mới, ngày càng hiểm hóc, lợi hại đối với địch và không ngừng nhân lên thế
và lực của ta. Ở một tầm rộng lớn hơn, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng và tiến hành chiến

tranh giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ln chủ động tạo thế cho cách mạng Việt Nam. Người đặc
biệt chú trọng đến vị thế đất nước trên trường quốc tế, thế chính nghĩa, thế trận chiến tranh nhân dân, thế chiến
lược vững chắc và lợi hại, tạo điều kiện cho toàn dân toàn quân ta trên khắp chiến trường thực hiện chia cắt, vây
hãm và chủ động tiến công quân địch ở mọi nơi, mọi lúc bằng nhiều hình thức tác chiến, với mọi thứ vũ khí trang
bị có trong tay. Rơi vào thế trận hiểm hóc đó của chiến tranh nhân dân Việt Nam, quân xâm lược dẫu đơng mà
hóa ít, mạnh mà hóa yếu và bị sa lầy trong thế trận toàn dân đánh giặc của chúng ta, và cuối cùng chúng bị thất
bại hoàn toàn. Trong bài thơ học đánh cờ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời, một
tốt cũng thành công”.
Cách mạng nổ ra và kết thúc thắng lợi cần phải có thời cơ. Thời cơ là thời điểm hội tụ tất cả những điều kiện
khách quan và chủ quan thuận lợi nhất. Người chỉ rõ: “ở trong xh muốn thành cơng phải có ba điều kiện: thiên thời,
địa lợi, nhân hịa, Trong đó, nhân hịa là quan trọng hơn hết.
Để tạo ra thế và lực cho Cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nhân tố con người. Trong Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong Cách mạng XHCN, trong chiến tranh cũng như trong hịa bình,
con người ln giữ vai trị quyết định, phải tìm mọi cách phát huy nhân tố con người. Đồng thời, “phải nhìn cho
rộng suy cho kỹ, kiên quyết ko ngừng thế tiến công”. Và iến cơng phịng thủ ko sơ hở”. Phải mưu trí, linh hoạt,
năng động, sáng tạo. Thời cơ Cách mạng thường xảy ra trong một không gian và thời gian rất nghiêm ngặt, nó
xuất hiện và qua đi rất nhanh, vì vậy phải kiên quyết, dũng cảm chớp thời cơ.
Lực và thế trong tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh, ln kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau,
dùng lực để lập thế, tạo thời và cũng là để phát huy lực, tạo thế để thúc đẩy thời cơ, dùng mưu kế tạo thế ta, phá
thế địch, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi. Mối quan hệ đó
đã được Người và Đảng ta giải quyết thành cơng trong cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền và trong hai
cuộc kháng chiến. Tin vào lòng yêu nước của mối người Việt Nam, tin vào sức mạnh và khả năng Cách mạng của
nhân dân, Bác và Đảng đã chủ động phát động các phong trào đấu tranh, chuẩn bị mọi điều kiện đón thời cơ, và
khi thời cơ đến đã dũng cảm lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân 1975 là
những mốc son chói lọi của cách mạng Việt Nam và cũng là những mẫu mực về nghệ thuật kết hợp lực, thế để
giành toàn thắng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để giành độc lập, thống nhất hoàn
toàn cho tổ quốc, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với đường lối vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng chủ trương giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, vừa đánh, vừa xd lực
lượng, kết hợp nhiều hình thức tiến cơng, đánh địch để giành quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, từng bước

làm thay đổi so sánh lực lượng, thay đổi cục diện chiến tranh đi đến giành thắng lợi hoàn toàn.
2. Vận dụng vào thực tiễn:
Sau khi thực hiện thành công Cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước đã bước vào giai
đoạn quá độ đi lên CNXH. Trong thời kỳ trước đổi mới, do bỏ qua không vận dụng phương pháp kết hợp lực, thế,
thời nên Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm trong đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, vi phạm các quy luật khách
quan, có những biểu hiện nóng vội trong phát triển kinh tế, mong muốn đi nhanh mà khơng tính đến điều kiện
khả năng thực tế, dẫn đến việc sản xuất chậm phát triển, khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đại hội VI (năm 1986) đã xác định phải tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện, phải lấy CN Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động,
đặc biệt là khi đề ra mục tiêu chính sách phải luôn xuất phát từ thực tế đất nước. Đại hội VI là bước ngoặt của sự
nghiệp đổi mới đất nước, nội dung của Đại hội là những chương trình hành động đáp ứng được nhu cầu bức xúc
nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
Thắng lợi của cơng cuộc đổi mới đã tạo ra thế và lực mới cho Cách mạng nước ta mạnh hơn bao giờ hết,
đất nước đang đứng trước những vận hội vô cùng to lớn.
Tóm lại, Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh rất phong phú, tồn diện và sâu sắc. Có thể nói cách mạng
Việt Nam thắng lợi phần lớn là nhờ có phương pháp cách mạng đúng đắn, trong đó có sự vận dụng linh hoạt
phương pháp “Kết hợp lực, thế, thời” của Hồ Chí Minh. Trong cơng cuộc xây dựng đất nước ngày nay, vận dụng
phương pháp này vào công tác hàng ngày có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
13


Câu 5: Phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh.
Mở đầu: Phương pháp cách mạng là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nghiên cứu phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh nói chung, phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
nói riêng có ý nghĩa to lớn về cả lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó khơng chỉ giúp ta hiểu 1 cách sâu sắc hơn, tồn
diện hơn về Tư tưởng Hồ Chí Minh, về những qui luật vận động của Cách mạng Việt Nam cùng Phương pháp
cách mạng của đảng ta mà còn để vận dụng vào việc giải quyết những nhiệm vụ Cách mạng và những vấn đề
cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
1. Khái niệm, vị trí, vai trị Phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp Cách
mạng Hồ Chí Minh:

Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc rằng tư tưởng chính trị, chiến lược cách mạng có được hiện thực hóa hay
khơng, có trở thành phong trào cách mạng của quần chúng, có được quần chúng tiếp nhận như một nhu cầu thiết yếu
hàng ngày hay không, định hướng hành động biến thành sức mạnh vật chất trong đấu tranh của họ hay khơng cịn phụ
thuộc vào phương pháp cách mạng.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thực tiễn. Nói cách khác đó là những qui luật hoạt động mà theo đó tư tưởng chính trị của Người được hiện
thực hóa. Theo nghĩa hẹp, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống các cách thức, biện pháp, qui trình
hợp thành các nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, có cơ sở hình thành từ phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác
- Lênin, từ những phạm trù biện chứng của Việt Nam và phương Đông về thời và thế, binh và biến … từ kinh
nghiệm của các cuộc đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và các cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế
giới. Trên cơ sở nắm vững lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững phép biện chứng duy vật, Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam những kinh nghiệm đã tiếp thu được. Người đã tiếp thu
có chọn lọc những kinh nghiệm quý báu của dân tộc, những phương pháp điều hành có hiệu quả của các nhà
chính trị, qn sự lỗi lạc trong và ngoài nước để xác lập cho mình một phương pháp cách mạng thích hợp.
Phương pháp cách mạng là bí quyết, là linh hồn sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh để
giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh cũng như những nhà cách mạng yêu nước Việt Nam cùng thời đều xác
định cùng mục tiêu độc lập dân tộc, đều xác định được phải đánh đuổi kẻ thù để giải phóng dân tộc và lại khác
nhau ở chỗ xác định ai đánh và đánh như thế nào. Chính sự khác nhau này, khác nhau về phương pháp cách mạng
mà Phan Bội Châu đã “Trăm lần thất bại không một lần thành công”, các nhà yêu nước khác cũng không mang
về độc lập cho dân tộc trong khi Hồ Chí Minh bằng phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam đã
mang vinh quang về cho đất nước, đã đem ánh sáng độc lập xua tan đêm trường nô lệ trên dải đất Việt Nam.
Phương pháp cách mạng đúng đắn, đã giúp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn, vận dụng vào cuộc sống.
Phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng. Bởi vì đường lối đúng đắn là
một nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng, song làm thế nào để có đường lối đúng và làm thế nào để biến
đường lối đó thành hiện thực, điều đó phụ thuộc vào phương pháp Cách mạng. Nếu khơng có phương pháp Cách
mạng thì đường lối có đúng đắn đến đâu chăng nữa thì cũng là 1 mớ lý thuyết sng. Hồ Chí Minh với tư cách là
1 một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, 1 lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, đã giải quyết thành công cả 2 vấn
đề quan trọng nhất của Cách mạng là xây dựng đường lối đúng và phương pháp Cách mạng đúng.

Phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh bao gồm 4 phương pháp lớn, trong đó có phương châm dĩ bất biến,
ứng vạn biến.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng vạn biến” có thể hiểu là lấy cái bất biến (cái khơng thay
đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi); ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái
bất biến. Hồn cảnh ln thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy,
sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi (cái vạn biến). Nhưng dù có mềm
dẻo, uyển chuyển, thay đổi như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối cùng (cái bất biến).
Nói một cách cụ thể hơn đó là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa tính nguyên tắc, tính kiên định, tính vững
chắc với tính linh hoạt, tính uyển chuyển của sách lược trong từng thời kỳ cụ thể; giữa đường lối cách mạng và
phương pháp cách mạng. Trung thành với nguyên tắc cũng chính là trung thành với mục tiêu, lý tưởng đã vạch ra.
Đó là cái bất biến. Để thực hiện được cái bất biến ấy, trong những tình thế đầy hiểm nghèo, đầy gian nan thử
thách, người cách mạng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm, sáng suốt và mưu lược để áp dụng muôn
vàn cái vạn biến trong đường đi nước bước mà hoàn cảnh đặt ra và đỏi hỏi phải giải quyết.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh là nắm vững tinh thần Cách
14


mạng và khoa học, nắm vững PP Cách mạng Mac-Lenin, dùng quan điểm lập trường phương pháp ấy để soi rọi,
phân tích, để nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra. Thực tế mỗi nước mỗi khác, hoàn
cảnh mỗi lúc mỗi khác, cho nên ko thể dừng ở câu chữ của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, ko thể rập khuôn, giáo điều
nguyên lý này. Ngược lại nếu xa rời những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lê nin sẽ chệch hướng và ko
thể đưa Cách mạng tới thắng lợi.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp Cách mạng Hồ Chí Minh là một sự khái quát lý luận rất
cao, đáp ứng tất cả các tình huống của người Cách mạng. Ở Hồ Chí Minh chúng ta thấy Người đưa ra những giải
pháp đúng đắn, chính xác là vì Người đã vận dụng phương châm này đạt đến một trình độ nghệ thuật cao. Vận
dụng tốt phương châm này sẽ đem lại hiệu quả cao nhất cho những người Cách mạng trong q trình thực hiện
nhiệm vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tuyên bố: cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tơi được độc lập. Có độc lập rồi thì
mới nói đến tự do, tự do gắn liền với độc lập, nước có được độc lập thì dân mới được tự do. Với lý do đó mà Bác
ln nhắc nhở: trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập; tất cả cho độc lập; khơng có gì q hơn độc lập, tự

do. Mặt khác, độc lập còn gắn liền với dân chủ. Có độc lập rồi thì mới nói đến chuyện dân làm chủ; cịn nếu
khơng có độc lập thì cũng khơng thể có dân chủ. Có độc lập chúng ta phải lập tức xây dựng một nhà nước mà dân
làm chủ, có nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Có như vậy mới đem lại được tự do, hạnh phúc cho dân.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong thế giới mọi sự đều thay đổi, nhưng chân lý thì khơng bao giờ thay đổi. cái
bất biến đối với người cách mạng là những chân lý cách mạng. Người đã từng tuyên bố: “Cái tôi cần nhất trên đời
này là: Đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập”. Người chỉ rõ nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
là một “Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao giờ thay đổi”. “Dù có đốt cả dãy trường sơn
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Độc lập thống nhất của tổ
quốc, tự do hạnh phúc của nhân là mục đích duy nhất và cũng là “ham muốn tột bậc” của Hồ Chí Minh, là cái bất
biến của người và của tồn Đảng, tồn dân ta.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “khơng có lực lượng gì ngăn cản được mặt trời mọc. Khơng có lực lượng gì
ngăn cản được lịch sử lồi người tiến lên. Cũng khơng có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội”. Đó chính
là q trình lịch sử - tự nhiên theo những quy luật khách quan vốn có của sự sinh tồn và phát triển của thế giới tự
nhiên và xã hội loài người. Do đó, tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” ln trong quá trình vận động - “vạn biến”
và xoay quanh cái trục “bất biến” của nó. Với Người mối quan hệ biện chứng giữa “bất biến” và “vạn biến” đã
được Người nhận thức và giải quyết triệt để, nhất quán và đầy sáng tạo trong các giai đoạn lịch sử cách mạng
khác nhau. Người chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mục tiêu chiến lược là bất di bất dịch; nhưng tùy hoàn cảnh cụ thể ở
trong nước và quốc tế, tùy từng giai đoạn lịch sử mà đề ra những sách lược uyển chuyển, phù hợp. Khơng giải
phóng dân tộc, không giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc thì mục đích giải phóng giai cấp sao thực hiện được. Ngược
lại, không đi tới chủ nghĩa xã hội cũng khơng có nhân tố đảm bảo vững chắc và triệt để cho độc lập dân tộc. Để giành
lấy độc lập dân tộc, Người chủ trương phải làm cách mạng cho đến nơi, đến chốn, thành cơng rồi giao chính quyền
vào tay nhân dân, đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Đảng cách mạng do Người sáng lập; chính cương,
sách lược và chương trình hành động của Đảng do Người soạn thảo đều nhằm hết vào mục đích ấy. Thực tiễn lịch sử
đã chứng minh điều đó.
Người cịn nhấn mạnh, Đảng “phải có chủ nghĩa làm cốt”, “Trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy”, người cách mạng thì phải giữ chủ nghĩa cho vững” và “chủ nghĩa chân chính nhât, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lenin”. Đây cũng là những điều bất biến mà Hồ Chí Minh đã giữ vững và chỉ
ra cho Cách mạng Việt Nam. Chính nhờ giữ vững những cái bất biến ấy nên Cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng

lợi này đến thắng lợi khác.
Trong hoạt động Cách mạng trên cơ sở những chân lý, mục tiêu bất biến đó, Hồ Chí Minh đã ứng biến
thành công với mọi sự biến đổi khôn lường của q trình Cách mạng. Người cũng địi hỏi những người Cách
mạng phải sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để thay đổi cách thức đấu tranh cho thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
mà cuộc đấu tranh lúc này hay lúc khác đặt ra. Nhưng tất cả mọi sự ứng biến không được làm tổn hại đến cái bất
biến, tức là mục tiêu lâu dài đã được xác định. Trước âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta của đế quốc Mỹ và các
thế lực phản động, người đã chỉ rõ “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ.
Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”.
Để đưa Cách mạng tới thành cơng phải có những sách lược khơn khéo, mềm dẻo, nhiều khi phải hịa hỗn,
nhân nhượng, nhưng thỏa hiệp nhân nhượng phải giữ vững tính nguyên tắc. Nếu xa rời nguyên tắc Cách mạng sẽ
15


bị địch lợi dụng làm suy yếu lục lượng ta, thậm chí sẽ gây ra những tổn thất vơ cùng to lớn. Do giữ vững nguyên
tắc Cách mạng, đồng thời khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, Bác và Đảng đã lãnh đạo đưa Cách mạng vượt qua
thời kỳ mà tình thế Cách mạng “như ngàn cân treo sợi tóc”, lúc hòa, lúc đánh; vừa đánh vừa đàm đã đưa Cách
mạng dành những thắng lợi to lớn, đưa đất nước tới độc lập, thống nhất hoàn toàn, đi lên xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân”.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta đứng trước thực trạng “ngàn cân treo sợi tóc”: nạn đói
hồnh hành, tài chính kiệt quệ, ngân khố rỗng khơng, chính quyền còn non trẻ lại phải cùng một lúc đương đầu với thù
trong, giặc ngoài. Nhận rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng trong vấn đề Đông Dương
và căn cứ vào âm mưu và hành động cụ thể của từng tên đối với chính quyền cách mạng, Đảng và Bác chủ trương
thực hiện sách lược hòa với Tưởng để kháng chiến chống Pháp. Về phía ta, đồng ý cho một số tên tay sai của Tưởng
tham gia chính phủ liên hiệp lâm thời và nhường cho chúng 72 ghế trong Quốc hội. Đây là giải pháp thêm bạn bớt thù
có lợi cho cách mạng, là sự “ứng vạn biến” trong tình thế đất nước đang lâm nguy.
Và sau ngày ta giành chính quyền về tay nhân dân, một bộ phận đáng kể trong tầng lớp trung gian, tầng lớp
trên, tầng lớp trí thức còn chưa hiểu và e ngại Đảng Cộng sản. Để thu phục nhân tâm, đoàn kết toàn dân, tháng 11
năm 1945 Đảng ta tuyên bố "tự giải tán", nhưng sự thật là Đảng rút vào hoạt động bí mật. Và dù là bí mật, Đảng
vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân. Đó là cái “bất biến” trong cái “vạn biến”.
Đến Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2-1951), khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng lớn mạnh,

tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi, Đảng và Bác chủ trương đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới Đảng
Lao Động Việt Nam. Như vậy, dù hoạt động bí mật hay cơng khai, dù mang tên Đảng Cộng sản, Đảng Lao động
hay Đảng nhân dân cách mạng, dù "vạn biến" như thế nào, nhưng bản chất "bất biến" là Đảng ta vẫn là Đảng của
giai cấp công nhân Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Trong quá tình kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, Người luôn khẳng định chân lý:
khơng có gì q hơn độc lập tự do - chân lý đó ngàn đời “bất biến”. Đó là thời điểm giữa những năm 60, giặc Mỹ
leo thang gây chiến tranh phá hoại ra miền bắc để ngăn chặn chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam. Nhận
thức được âm mưu của chúng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, miền Nam là máu thịt làm nên
“cơ thể” Việt Nam. Sơng có thể cạn, núi có thể mịn nhưng chân lý ấy khơng bao giờ thay đổi. Với lập trường và
quyết tâm đó, dù Người đã đi xa nhưng tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người là một trong những
phương châm trong tư tưởng và hành động của các thế hệ cách mạng kế tiếp.
2. Vận dụng vào thực tiễn:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy được sức mạnh nội lực và được sự giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng
hịa bình trên thế giới; chúng ta đã đánh thắng thù trong, giặc ngồi dành chính quyền về tay nhân dân. Kiên định
theo mục tiêu đã chọn, dù tình thế có sự thay đổi; nhưng với tư tưởng “ứng vạn biến”, Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân vượt qua được những thăng trầm đưa đất nước vững bước theo con đường mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân
ta đã chọn.
Sau sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta vẫn kiên định con đường đi
lên CNXH (cái bất biến), tiến hành đổi mới toàn diện, ban hành nhiều chủ trương chính sách mới một cách sáng
tạo (cái vạn biến) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tiếp tục khẳng định
những nguyên tắc đã định trên con đường đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là một đảm bảo rất quan trọng vừa kiên định được mục tiêu đã chọn (cái bất biến) vừa phù hợp với tình hình
của đất nước ta và bối cảnh quốc tế, phấn đấu xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
Hiện nay trước xu thế tồn cầu hóa, tình hình trong nước cũng như trên thế giới có những vận động nhanh
chóng, phức tạp, khó lường (cái vạn biến); để thực hiện được hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN (cái bất biến) cần nhận thức sâu sắc tất cả các yếu tố
tác động đến mục tiêu đã định mà có ứng phó kịp thời. Đổi mới, mở cửa, hợp tác liên quốc gia, liên khu vực,…là
một xu thế tất yếu, trong đó các đối tác vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau một cách gay gắt. Các thế lực thù

địch trong và ngồi nước khơng từ bỏ âm mưu “diễn biến hịa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đối với đất
nước ta thông qua kinh tế thị trường và trao đổi giao lưu văn hóa. Trong điều kiện đó, làm sao để phát triển kinh tế
mà vẫn giữ được độc lập, không đi chệch mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội? Muốn thế, chúng ta phải tạo ra
được năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho hành động.
Phương pháp Cách mạng HCM rất phong phú, tồn diện và sâu sắc. Có thể nói cách mạng Việt Nam thắng
16


lợi phần lớn là nhờ có phương pháp cách mạng đúng đắn, trong đó có sự vận dụng linh hoạt phương châm “dĩ bất
biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, vận dụng phương pháp này
vào cơng tác hàng ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

17



×